GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 02
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Trước thềm năm mới Giáp Ngọ, Ban tổ chức Giải Viết Văn Đường
Trường xin kính chúc quý Ban Biên Tập các trang Truyền Thông Công Giáo, quý tác
giả và độc giả bốn phương một cái Tết vui tươi đầm ấm và một Năm Mới an bình
hạnh phúc trong Chúa.
Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các trang truyền thông Công
giáo, cuộc thi Giải Viết Văn Đường Trường lần thứ 2 (2014) được biết đến khá
rộng rãi, hứa hẹn sẽ có nhiều tác giả tham gia. Tới nay chúng tôi đã nhận được
35 tác phẩm dự thi. Dưới đây chúng tôi hân hạnh giới thiệu 5 truyện ngắn đầu
tiên được chọn vào vòng sơ khảo.
Nhằm tìm kiếm và xây dựng các tài năng văn xuôi cho văn học
Công giáo, Giải Viết Văn Đường Trường được tổ chức liên tục từng năm và trao
giải trong 6 năm liền (2013-2018) dành cho những truyện ngắn có nội dung Kitô
giáo, đồng thời sẽ ấn hành giới thiệu các tuyển tập truyện ngắn cho các tác giả
đạt giải.
Hiện nay cuộc thi lần thứ 2 (2014) vẫn đang tiếp tục nhận bài
dự thi. Ước mong quý vị và các bạn giúp giới thiệu chương trình này thật rộng
rãi.
Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường
Trường
tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/
Xin chân thành cám ơn.
Qui Nhơn, ngày 25-01-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số 14-001
HÀNH TRÌNH CỦA MỘT CUỘC TRỞ VỀ!
…Ừ, tôi là đồ bỏ đi,
tôi là đồ xếp xó, tôi là đồ vô dụng thì đã sao nào? Trong cơn giận dữ, Nó bỗng thốt lên những lời đó. Nhưng Nó cũng
không biết Nó đang nổi giận với ai, với chính bản thân Nó hay với một ai khác?
Dù thế nào thì Nó cũng hy vọng sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn sau khi gào lên những
lời đó. Vậy mà, Nó đã sai. Đã hét, đã gào lên rồi, hả được cơn giận hay không
thì không biết nhưng hơn lúc nào hết Nó thấy trong lòng Nó một sự trống trải
dường như dài vô tận không có lối ra.
Ngoài kia, những cơn
giông mùa bão vẫn đang thi nhau ùa về. Chốc chốc lại kéo những cành cây hai bên
đường ngả bên này nghiêng bên kia, tạo nên những tiếng huýt dài dữ tợn. Cả tuần
nay, trời lúc nào cũng tối sầm. Mưa rả rích cả ngày lẫn đêm. Căn phòng chứa đồ
vốn đã chật chội nay lại ngột ngạt hơn vì mùi ẩm mốc.
Đó là một căn phòng
nhỏ nằm ngay bên hông phải của nhà thờ. Bên trong căn phòng chứa rất nhiều đồ
đạc cần dùng của giáo xứ. Ngay bên cạnh cửa vào là một cái hòm bằng gỗ đã khá
cũ. Nó được đặt ở trong cái hòm đó đã khá lâu rồi. Những ngày này, Nó cảm thấy
khó chịu, bứt rứt lắm! Càng nghĩ Nó lại càng tủi cho thân phận mình. Nó nghĩ
lại những ngày tháng trước đây, khi mà vị linh mục vẫn còn dùng đến Nó trong
những buổi chầu Thánh Thể của giáo xứ.
Lúc ấy, Nó hãnh diện
vì bản thân lắm. Nó hãnh diện bởi vì nhỏ bé như Nó đấy, mà Nó được diễm phúc
Mình Thánh Chúa ngự vào. Cứ những ngày đầu của tháng, vị linh mục long trọng
đặt Mình Thánh Chúa vào cung lòng Nó và đặt giữa bàn thờ cho cộng đoàn giáo xứ
thờ phượng ngợi khen Chúa. Khi đó, nhà thờ vang câu kinh, người lớn, con nít
đồng thanh hát xướng, hạnh phúc và thiêng liêng biết bao! Nó sẽ chẳng bao giờ
có thể quên được dĩ vãng nhiều kỷ niệm ấy. Nghĩ mà Nó thấy nhớ những ngày tháng
xa xưa. Nó thấy hối hận. Hơn lúc nào hết, lúc này đây Nó muốn khóc. Nó muốn
khóc cho những tháng ngày lầm lỗi. Nó muốn được quay lại với những ngày tháng
đó để lại được Chúa ngự vào lòng. Nghĩ vậy, Nó bỗng cảm thấy trong lòng ấm áp
lạ thường, bởi vì Nó biết Thiên Chúa là Cha nhân hiền vẫn luôn luôn trông ngóng
sự trở về của tất cả mọi hối nhân như Nó… Đúng
vậy, mình sẽ giũ bỏ bụi bặm của những năm tháng qua để lại được đón Chúa vào
lòng mình như xưa. Nó thầm
nghĩ như vậy.
Trước đây, Nó đã để
cho mạng nhện giăng đầy. Bụi trần đã bao bọc Nó. Vậy mà Nó chẳng nhận ra, chẳng
chịu thanh tẩy bản thân. Chẳng mấy chốc, Nó trở nên hoen ố. Nó đã và đang đeo bám vào quá nhiều
thứ, chẳng còn khoảng trống nào cho Chúa nữa. Còn Chúa thì vẫn yêu thương và
đợi chờ Nó ngày ngày. Tình yêu thì đã cho đi rồi đấy, nhưng phải có “người
nhận” thì mới là một tình yêu trọn vẹn. Tình yêu cho đi mà không người
nhận, thì tình yêu ấy sẽ lại trở về với “người đã trao ban”. Thiên Chúa
là Cha đã coi Nó như bạn hữu của Ngài (x. Ga 15,15), vậy mà Nó lại ngoảnh mặt
đi, khước từ lời mời gọi yêu thương của Ngài để làm bạn với tội lỗi. Mặc dầu
vậy, Ngài vẫn ở đó trông ngóng và chờ đợi sự trở về của Nó.
…Người thanh niên đọc được câu chuyện về chiếc Mặt Nhật, anh ta gặp thấy hình ảnh
mình trong đó. “Đúng vậy, mỗi
lần rước Mình Thánh Chúa vào lòng là ta trở nên chiếc Mặt Nhật để chiếu rọi
tình yêu của Chúa cho những người anh em xung quanh.
Vậy mà, tháng ngày
qua ta bỏ quên Chúa để bám víu vào tội lỗi. Ta thường xuyên để cho sự ích kỷ và
lòng tham giăng kín tâm hồn. Cuộc sống của ta toàn là những toan tính về tiền
tài, danh vọng. Hơn thế nữa, những bụi bẩn của sự nhỏ nhoi, của lòng ghen tị
kéo ta ra xa Chúa. Tất cả những thứ đó làm đầy tràn quả tim nhỏ bé của ta.
Chẳng nhẽ cả đời ta cứ theo đuổi những thứ hư vô đó ư? Vậy thì ta đâu còn
khoảng trống nào để dành cho Chúa. Ta thật khờ dại”. Người thanh
niên thầm nói với mình như vậy.
Thinh lặng một hồi
lâu… Anh ta quyết đứng lên trở về với Chúa, để lại được nép mình vào trái tim
yêu thương của Ngài. Người thanh niên ấy đã tìm đến với bí tích Giao Hòa. Ánh mắt
anh ta rướm lệ vì hạnh phúc. Và
rồi sau cơn giông trời lại hửng nắng chứa chan hy vọng, cỏ cây tươi xanh. Một
mùa xuân thiêng liêng mới đang nở. Hương
nắng mới chan hòa ấm cúng trong lòng người.
Hương vị của Tình
Yêu vẫn tiếp tục
tỏa lan khắp nơi, làm ấm lòng mọi trái tim những ai đang thổn thức. Muôn vạn
thuở Ngài vẫn là Tình Yêu (X. 1Ga 4, 8). Ngài vẫn còn ở đó chờ đợi và gọi mời.
Mã
sỐ: 14-003
NẮNG MỚI
Ngôi làng nằm lọt thỏm giữa rừng thông xanh trải dài thăm
thẳm. Chiều tàn! Những con chim kéo nhau về tổ, để lại bầu trời trơ trọi với
gam màu tối. Những ánh lửa le lói sáng lên giữa màu đen của đại ngàn chiều hôm.
“Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện
hình từ trong những hy sinh, gian khổ”[1], hi vọng ánh lên từ đêm
đen!
Trong căn nhà nhỏ mới dựng tạm bợ sơ sài ở một góc làng, cha
Tâm đang trầm tư trước Thánh thể. Dường như cha đang suy nghĩ nhiều lắm. Một
tuần nay, cứ đêm về, khi những công việc bộn bề của một ngày kết thúc, cha Tâm
lại ngồi trầm tư thất thần như vậy. Cha đang nói gì với Chúa? Có lẽ chỉ có cha
và Chúa biết thôi. Ngoài kia, nhóm giáo dân ít ỏi đang tập trung cầu nguyện
chung ở đài Đức Mẹ được đặt ngay giữa làng. Họ có biết những suy nghĩ của cha
lúc này chăng?
– Cha, sao mấy hôm nay cha không cầu nguyện chung với bà con?
– Già đó hả! Già hướng dẫn mọi người đọc kinh giúp con, mấy
nay con…con…
– Cha bị bệnh sao hả? Tui kêu mấy thằng thanh niên chở cha đi
bệnh viện nghen!
– Không sao đâu già, con hơi mệt chút thôi! Cám ơn già!
– Dạ! Cha nghỉ ngơi, tui ra với bà con!
Tiếng của ông già Lý làm cha Tâm giật mình quay lại, trên
gương mặt vẫn còn chút bần thần. Điều đó làm cho ông già lo vị linh mục trẻ bị
bệnh nên mới hỏi “Cha bị bệnh sao hả? Tui
nói mấy thằng thanh niên chở cha đi bệnh viện nghen?” Có lẽ ông không biết
những ưu tư đang đan xen trong tâm hồn vị linh mục lúc này thật. Nhìn ông già
lọm khọm bước về phía bà con giáo dân, cha thấy thương! Cha Tâm không biết nói
sao với bà con đây! “Có nên nói cho họ suy nghĩ của mình không”, câu hỏi đó cứ
vang mãi trong đầu vị linh mục trẻ. Nó bắt cha Tâm phải đắn đo, phải suy nghĩ,
phải dằn vặt, phải lựa chọn! Giá như không xảy ra cơ sự như thế này thì…
Ngôi làng nhỏ, nơi cha Tâm về gieo hạt giống Tin Mừng vốn dĩ
bình yên, người dân tuy nghèo nhưng chung sống với nhau chan hòa, đoàn kết. Hơn
năm năm cha về đây, không có một cuộc ẩu đả, có chăng là ánh mắt hờn giận, vài
lời nặng nhẹ giữa mấy chị em phụ nữ rồi thôi. Tưởng như cuộc sống êm ả trôi….
Ai ngờ đâu vào một ngày trung tuần tháng tư, một bọn côn đồ ở đâu đến đây, hà
hiếp, cướp bóc tài sản của bà con nghèo. Nghĩ đến mà cha Tâm còn giật mình:
Tiếng la hét thất thanh của chị em phụ nữ, tiếng ré khóc của mấy đứa trẻ, người
già cầm tràng chuỗi lo lắng cầu xin cùng Đức Mẹ. Chỉ có đàn ông, trai tráng của
làng ra chống cự với bọn chúng, nhưng cũng không làm gì được, bởi bọn chúng quá
đông lại hung hãn. Lúc đó, đang cầu nguyện, cha cũng đành bỏ tràng chuỗi chạy
ra ngoài xem có việc gì. Thấy cha, chúng bỏ đi. Đó là lần đầu tiên chúng đến
gây sự.
Trời về khuya, mọi người đã về ngủ từ khi nào, ngôi làng chìm
vào thinh lặng, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rả rích, tiếng thở đều đặn của
những con người hiền lành đang say ngủ sau một ngày lao động mệt nhọc. Có lắng
tai tập trung lắm mới nhận ra tiếng thở đều đặn an nhiên ấy. Con cún nhà ai ngủ
mớ kêu ăng ẳng! Vòm trời về đêm, trong trong, đôi ba chòm sao lấp lánh dõi về
nhân thế, vạn vật. Một làn gió mát, êm dịu thổi qua làm cha Tâm cảm thấy dễ
chịu hơn chút. Giá như cứ mãi thanh bình như đêm nay thì hay biết mấy! Đời là
hạnh phúc khi ta vui vẻ đón nhận, là hạnh phúc khi ta thấy hạnh phúc. Vị linh
mục trở về chiếc giường của mình, nhưng ngài không thể nào chợp mắt. Những hình
ảnh đau thương, những tiếng hét thất thanh, tiếng trẻ con khóc lại kéo về chật
tâm trí của vị mục tử trẻ. Nó làm đầu ngài đau buốt!
Sau cái lần đầu tiên ấy, thi thoảng chúng lại đến cướp phá
xóm nghèo, lần sau hung hăng hơn lần trước! Có lần, chúng đánh cả cha Tâm, chỉ
vì cha cố sức can ngăn không cho chúng hạ tượng Đức Mẹ, may mà thời còn ở chủng
viện, cha có tham gia câu lạc bộ võ thuật nên không bị sao. Một hôm, cha gợi ý
với dân làng chuyển đi nơi khác lập nghiệp, thì ngay đêm ấy, vừa ăn tối xong,
già Lý xin gặp:
– Thưa cha, tui muốn thưa cha chuyện này, tui để trong bụng
không được cha hà!
– Già cứ nói, con nghe hết!
– Hồi trưa, cha có gợi cho dân làng đi nơi khác lập nghiệp,
nhưng mà…!
– Nhưng mà sao già?
– Cha cho tui nói thì tui mới dám nói
– Già cứ nói đi, con nghe mà, tuy mọi người gọi con là “cha”
nhưng với con, con coi mọi người là anh chị em, già như ngoại của con vậy.
– Dạ, cám ơn cha, tụi tui ở đây thôi, không đi đâu cha à!
– Sao vậy?! (Cha Tâm tỏ vẻ ngạc nhiên)
– Thực sự dân làng không thể xa cái nương, cái rẫy, con nước
được cha à! Huống hồ chi ở đây còn mồ mả ông cha mấy đời. Bỏ đi, tội các cụ lắm
cha à.
– …..
– Tui biết, cha thương dân làng, cha sợ dân làng chịu khổ
cực, mất mát bởi lũ mất dạy kia. Nhưng mà ông cha à, dân làng tụi tui không sợ
khổ cực, không sợ chúng, mình còn Chúa, còn Đức Mẹ, có Chúa là có hết. Tui tin
mình sẽ thắng cha hà!
– Cám ơn già, nghe già nói con cũng thấy vui chút đỉnh.
Hàn huyên với cha chán, ông già về, chỉ còn lại mình cha Tâm.
Một ánh lửa vui lóe lên trong trái tim của vị mục tử trẻ, ngài thầm cầu nguyện
“Tạ ơn Chúa, con không ngờ dân làng có
đức tin vững vàng đến vậy”.
Dân làng không đi, cha Tâm cũng ở lại với bà
con. Họ cùng sống trong Đức Tin, cùng đấu tranh chống lại côn đồ quấy rối. Đã
mấy lần cha nhờ chính quyền can thiệp. Họ cũng đã đến trợ giúp vài lần, rồi thì
họ cũng nản. Một lần ông Tư Bòn, bí thư xã, đến nói với cha:
– Chuyện của ông cha và giáo dân của ông cha, ông cha tự giải
quyết đi, chúng tôi mệt rồi. Chúng tôi không can thiệp chuyện giáo hội của ông
nữa đâu. Chúng tôi còn nhiều việc phải lo lắm. Ông cha thông cảm nghen!
Không phải cái thiện lúc nào cũng chiến
thắng, có khi cái thiện phải thất bại, thất bại tạm thời, cái ác chiến thắng,
chiến thắng tạm thời. Những cuộc “vật lộn” giữa chính và tà ngày một nhiều hơn.
Xóm nhỏ không còn chút bình yên vốn có, không còn những đêm bình an cầu nguyện.
Bọn côn đồ đó quá hung hăng, có lần chúng gọi cha Tâm bằng “thằng” và chúng
dọa, nếu cha không đi khỏi cái làng này, nếu cha còn ở đây và can ngăn thì
chúng sẽ san bằng nhà nguyện của cha. Một thằng trong bọn còn lộng ngôn thách
thức “để thử Chúa của thằng Tâm mạnh hơn
hay cái búa của tao mạnh hơn”. Vậy là chúng nhằm vào cha! Nhưng cha có thù
oán với ai đâu, hay là chúng ghét bởi cha đã cảm hóa nhiều thanh niên hư hỏng,
giúp các em hoàn lương?!
Những tưởng chúng chỉ nói rồi thôi, ai ngờ!
Cũng vào một buổi chiều như chiều nay, khi những con chim bắt đầu bay về tổ.
Cha Tâm đang dọn bàn thánh chuẩn bị cho thánh lễ thì nghe huyên náo, tiếng chửi
bới, tiếng hỉgì sắp xảy ra. Chúng lại đến! Từ trong nhà nguyện, cha bình tĩnh
bước ra và… Một cú đấm bất ngờ như trời giáng vô giữa mặt người mục tử, ngài
ngã xuống. Đâu chỉ thế, chúng còn thi nhau đá vào người cha Tâm, vừa đá vừa
văng tục. Cha chỉ còn biết ôm đầu quằn quại. Nhóm giáo dân ít ỏi, những hoa quả
đầu mùa của cha như tức nước vỡ bờ, nhào lên chống chọi với chúng, số khác hối
hả đưa cha về nhà già Lý, băng bó vết thương, những kỹ năng sơ cứu người bị
thương mà cha đã từng dạy họ trước đó và đưa cha đi bệnh viện. Khi cha xuất
viện về thì mọi sự đã rồi, ngôi nhà nguyện nhỏ giờ chỉ còn là một đống gạch vụn
nát. Thế là hết! Mọi công sức của những con người lam lũ nơi đây bỏ ra vì yêu
Chúa… thế là hết! Cha Tâm nhớ lại, lúc đó cha như không thể đứng trên đôi chân
của mình nữa khi nhóm giáo dân ít ỏi của cha rơi những giọt nước mắt
– Chúng đông quá cha à, mình
chống không lại (bà Sáu thưa)
– Con đã cố hết sức để bảo vệ
nhà nguyện nhưng…(Anh Tư Sậu ngậm ngùi)
– Đám thanh niên cũng bị chúng
đánh tơi tả, thằng A Nay bị gãy tay, thằng An mấy nay còn ê ẩm mình mẩy…
( già Lý nói)
Đây quả là một cú sốc lớn đối với một linh mục trẻ! Lúc đó,
vòm trời như thể đổ sập xuống đầu cha Tâm. Ngày còn ở đệ tử viện cho đến khi
được trao thánh chức linh mục, cha Tâm vẫn mơ về một tương lai đẹp đẽ, một hành
trình truyền giáo theo lý tưởng của riêng mình. Cha vẫn mơ về ngôi làng, tiếng
trẻ con đọc kinh ê a, người lớn hăng say cầu nguyện. Ở nơi đó, cha sẽ truyền
đạt cho giáo dân hết những gì cha hiểu, cha học khi còn ở nhà dòng. Nhưng sự
thật, công cuộc truyền giáo khó khăn hơn nhiều với suy nghĩ của cha. Nơi cha
đến cũng có tiếng trẻ ê a kinh kệ, mọi người cũng hăng say cầu nguyện. Nhưng
cha đâu lường trước được những khó khăn, những tai ương, những thử thách đón
đường cha bất cứ lúc nào.
Tiếng đồng hồ tít tít báo mười hai giờ khuya, cha vẫn không
thể ngủ được, tất cả những sự việc diễn ra mấy
tháng nay cứ ám ảnh cha, cứ mỗi lần chợp mắt là những hình ảnh đau thương ấy
lại hiện về. Nó làm đầu cha đau, nó làm cha có cảm giác như khó thở, thiếu oxi
trong lồng ngực và nhói lên như một vết dao cứa vào con tim. Lá đơn xin thuyên
chuyển đi nơi khác đã để sẵn trên bàn. Một tuần nay, cha cứ đắn đo mãi. Chiều
nay, trong một phút chùng lòng, cha Tâm đã viết nó. “Ta không thể ở lại đây nữa, nếu ở đây, với cái đà này, ta có thể bị mất
mạng bất cứ lúc nào. Dân làng không đi, ta sẽ ra đi. Ở đâu mà không truyền đạo
được chứ!” cha đã thầm nghĩ như vậy. Nằm vắt tay lên trán, cha Tâm thầm mơ
về một chân trời đầy tương lai, có nhà thờ, nhà xứ đàng hoàng “ngày mai, mình sẽ gởi đơn này lên xin với bề
trên”.
Tiếng ông già Lý hôm nào chợt vang lên mơ hồ trong tâm trí:
“mình còn Chúa, còn Đức Mẹ, có Chúa là có
hết” làm cha Tâm chợt khựng lại và cảm thấy
xấu hổ với những suy nghĩ của mình, “Sao
mình đê hèn đến vậy! Sao mình ích kỉ
vậy! Sao mình có thể…! Không thể được, mình phải ở lại…”. Hai khóe mắt cha
chợt nhòe ướt. Lương tâm một mục tử của Chúa, không cho phép vị mục tử thoái
lui trước khó khăn. Những hình ảnh của quá khứ lại kéo về đầy tâm trí của vị
linh mục, trước mắt cha là hình ảnh của chính mình hơn năm năm về trước. Cái
ngày được lãnh nhận thiên chức linh mục thật đẹp biết bao. Cha nhớ lại tất cả,
những cử chỉ, những lời tuyên hứa. Lời nguyện thầm khi sấp mình trước cung
thánh rõ như in “Chúa ơi, con mỏng dòn
yếu đuối, nhưng con sẽ sẵn sàng đem tình yêu của Chúa đến với mọi người, con
không sợ áp bức, con không sợ khó khăn, con chỉ sợ con lùi bước. Chúa ơi gìn
giữ con.” Rồi cái ngày đầu tiên mới về ngôi làng nhỏ đơn sơ này, những ánh
mắt lạ lẫm của trẻ thơ, những lời chào xã giao, câu làm quen, những phút giây
bị “khớp” khi nói về Chúa cho mọi người... Thật dễ thương biết bao! Rồi những
đêm cầu nguyện chung, những ngày cùng bà con gánh nước khiêng cây xây nhà
nguyện, tiếng bi bô của mấy đứa trẻ tập nói…Tất cả những hình ảnh đó hiện lên
trong cha rõ nét. Hình ảnh thằng cu Tin làm cha bật cười một mình. Thằng cu Tin
thương “ông cố” lắm. lúc nào cũng chạy qua nhà “ông cố” để chơi, để chọc con
nhồng kiểng của cha. Nó chưa gọi được “ông cố” bằng cái giọng ngọng líu của trẻ
con ba tuổi, nó gọi cha là “ông chó”. Nhưng được cái nó ngoan ngoãn và vâng
lời. Một điều đặc biệt làm cha nhớ mãi, đó là cái ngày cha xuất viện sau trận
đánh nhau kinh hoàng kia. Đứng trước ngôi làng tan hoang vì bị phá, đứng trước
ngôi nhà của Chúa bị đập nát, cha quặn thắt lòng. Một bạn trẻ ngập ngừng nhìn
cha rồi nói:
– Con xin lỗi, con không thể
bảo vệ nhà Chúa. Nhưng, cha yên tâm, nhà nguyện mất ta sẽ dựng lại, nhà bị phá,
ta sẽ xây lai, còn niềm tin là còn tất cả, còn Chúa là còn tất cả cha à. Con
tin Chúa, dân làng mình tin Chúa. Con tin Ngài không bỏ rơi chúng ta. Ông Trời
có mắt cha à!
Nghĩ lại, cha thấy vừa xấu hổ vừa thấy vui!
Nhìn lên tượng Giêsu chịu nạn, nhìn nét hiền dịu của Mẹ Maria, cha cảm thấy
bình an hơn bao giờ hết. Từ giây phút đó, cha Tâm thấy mình có tất cả dù cha
vừa mất tất cả. Câu nói của người thanh niên hôm nào cứ vang mãi trong tim, nó
như quyện hòa vào máu vị linh mục, nó trở thành điều xác tín “còn niềm tin là còn tất cả, còn Chúa là còn
tất cả”. Cha nhẹ nhàng xé lá đơn trên bàn và thiếp đi trong bình an.
Cha Tâm nghe có tiếng chim hót ngoài kia, tiếng trẻ con cười,
tiếng ông già Lý hô một hai cho mấy đứa con nít tập thể dục. Cha Tâm tỉnh giấc,
hơn tháng nay, cha mới có được một giấc ngủ ngon đến vậy. Cha nhìn lại mình,
vừa xấu hổ, vừa hi vọng. Rồi đây, cha và bà con sẽ xây lại nhà nguyện mới, sẽ
lại phải chống chọi với côn đồ kia. Nhưng điều đó có sao, có Chúa là có tất cả.
Cha mở cửa, bước ra ngoài. Thằng Tin không biết từ đâu chạy đến bi bô “ông chó ơi ông chó, xíu nữa ông chó ạy con
làm ấu Ánh Giá như anh hai hen ông chó”. Cha Tâm mỉm cười: “Ừ, ông cố sẽ dạy Tin làm dấu…” Mặt trời
đã lên cao, những tia nắng của một ngày mới lại bắt đầu, những tia nắng chứa
đựng hạnh phúc và hy vọng.
Mã sỐ: 14-005
TÔI LÀ MỘT CỤC THAN LẺ LOI
Vào một ngày đen tối trong cuộc đời, với nỗi thất vọng, chán
chường vì lời cầu nguyện của mình không được Chúa đoái nhận, Chúa dường như trở
nên xa lạ trong tâm trí tôi. Tai Người như điếc lác đến nỗi không còn có thể
nghe lời thống thiết kêu xin. Mắt Người xem ra chỉ còn thấy tội lỗi con người
mà chấp tội. Những cám dỗ ấy cứ đeo bám tôi mãi khiến toàn thân tôi rã rời
không hồi cứu vãn. Tôi chúi đầu, cặm cụi để đọc ngấu đọc nghiến những trang
sách về Tâm lý trị liệu của Anselm Grun, một tác giả người Đức, viết rất hay về
đời sống tâm linh mà tôi ưa thích. Nhưng lúc này nó trở thành một phế phẩm cho
tâm hồn tôi. Sự trống rỗng của tâm hồn, sự đen tối của tâm linh cộng thêm một
buổi chiều mưa khiến lòng tôi trở nên lạnh lùng và lạc lõng, lẻ loi và lầm lạc.
Tôi đã quyết định tìm đến vị linh hướng trong nhà dòng. Tôi đến phòng riêng của
ngài như những lần có vấn đề trước kia. Vừa gặp ngài, tinh thần tôi phấn chấn,
tâm hồn được bình an và tấm lòng tôi cởi mở, tôi đã thổ lộ với ngài tất cả.
Trầm lắng một hồi lâu, ngài ôn tồn lên tiếng:
– Điểm rối của con đó là thiếu sự nâng đỡ đức tin.
Rồi ngài kể cho tôi câu chuyện này:
Ở một Giáo xứ kia, có một cha xứ rất tận tụy, yêu thương hết
tình chăm sóc quan tâm từng con chiên: ai dự lễ thường xuyên mỗi ngày, ai dự lễ
Chúa nhật…Cha nhận thấy có một ông cụ đã lâu không đến nhà thờ; hỏi ra mới biết
ông có chuyện không hay với một ông trùm trong xứ nên bỏ lễ hai tuần nay. Cha
xứ quyết định đích thân đến nhà ông xem sao. Vừa vào đến nhà, cha xứ chào ông,
ông không nói lời nào. Thay vì mời cha vào nhà khách, ông lại kéo ghế đến lò
sưởi, cả hai không nói một lời nhưng như hiểu hết mọi chuyện. Trong một chốc
ngẫu hứng, vị linh mục đã làm một hình ảnh biểu tượng gây tác động mạnh lên tâm
trí ông: ngài gắp ra một cục than rồi để trần trên đất, cả hai cùng quan sát.
Một lát sau, cục than như mất lửa rồi tàn dần. Ngài lại gắp cục than đem về chỗ
cũ trong lò lửa. Thế là nó cháy rực lên đến nỗi không còn thấy rõ nguyên hình
cục than nữa. Ông như nhận ra con người mình trong hành động biểu tượng ấy. Ông
như nhận ra thân phận mình là cục than lẻ loi, nước mắt giọt vắn giọt dài, ôm
chầm lấy cha xứ và nói trong nghẹn ngào: “Thưa cha, từ nay con sẽ không bao giờ
bỏ Chúa bỏ Mẹ nữa!”
Quay lại nhìn tôi, cha nói:
– Thân con như cục than đen đủi và khô khốc phải được đặt
trong lò lửa vĩ đại là Giáo Hội. Hơn nữa, nó phải được đốt cháy trong lò lửa
đại dương yêu thương của Thiên Chúa là Cha.
Tạm biệt ngài, tôi về phòng dọc theo hành lang, trong trí vẫn
ám ảnh hình tượng cục than… Thình lình, tôi nghe tiếng vỡ vụn của một cái ly
rơi xuống đất. Tôi trở lại phụ người anh em lượm lại những mảnh vụn, nhưng
chẳng may, miểng sành đâm vào tay khiến tôi chảy máu. Anh hỏi:
– Có sao không ?
– Không sao. Tôi trả lời.
Về đến phòng, anh ấy mang đến cho tôi một bình oxy già. Tôi
cám ơn và quay vào phòng, lòng tự nhủ: “Đúng là đức tin không có việc làm là
đức tin chết, cục than không đặt vào lò lửa là một cục than trơ trọi, lẻ loi,
không sức sống”. Và dần dà, tôi mới hiểu đức tin phải được diễn tả bằng hành
động, cục than đốt cháy phải biết tỏa lan sức nóng cho mọi người. Chính hành
động bác ái của người anh em trong dòng đã kích động niềm cảm thức thuộc về một cộng đồng trong tôi, rằng tôi không phải
là một cục than lẻ loi. Cuối cùng, tôi đã được tái sinh từ khi nhận ra mình là
cục than vô duyên.
Quả thật, tôi là cục than đen đủi, trơ trọi bước vào đời.
Thánh vương David thật có lý khi nói:
“Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
Đã mang tội khi mẹ
mới hoài thai” (Tv 50,7)
Thế rồi, tôi đã được lãnh Bí tích Rửa tội. Cũng như bao kitô
hữu khác, tôi được đặt trong lòng Giáo Hội là lò lửa vĩ đại; được đốt cháy
trong tình yêu đại dương của Thiên Chúa là Cha. Mặc dù, tôi chẳng cảm nhận gì
nhưng không vì thế mà lửa ấy lại không sưởi ấm lòng tôi. Tình Yêu nhưng không
là thế! Vượt qua khỏi mọi cản trở của nhân loại để đến với nó và sống trong nó.
Trong những lúc gặp thử thách bị cám dỗ muốn bỏ Chúa, đức tin
của tôi như vỡ vụn làm vương hại bản thân như mảnh vỡ và làm vương hại Giáo Hội
cách nào đó. Hồng ân đức tin tôi đã lãnh nhận nhưng vẫn còn cần tái sinh từng
ngày. Biểu tượng cục than, hay chiếc ly vỡ là những dấu chỉ Chúa đặt để trong
hành trình đức tin hầu ta nhận ra dấu chứng tình thương của Chúa. Giờ đây, tôi
mới hiểu phần nào câu nói của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Tất cả là hồng ân”. Khởi đi từ hồng ân
đức tin rồi kéo dài suốt đời sống tôi là những dấu chứng và qua các Bí tích,
tôi được tái sinh hằng ngày. Những lúc tôi phạm tội đã có Bí tích Giao Hòa gắn
kết; những lúc tôi yếu mệt đã có Bí tích Thánh Thể tăng sức; những khi đau
bệnh, liệt bại tôi đã có Bí tích Xức Dầu nâng đỡ… Tóm lại, Giáo Hội với vai trò
là mẹ luôn có mặt trong mọi cảnh huống của cuộc đời tôi. Điều còn lại là cách
mỗi người đáp trả với những nghĩa cử của Mẹ Giáo Hội.
Như thế, có thể nói, đức tin của mỗi người chỉ được sinh
dưỡng và tăng trưởng trong lòng Mẹ Giáo Hội, như cục than chỉ được đốt cháy và
lan tỏa trong lò lửa vĩ đại. Nếu đức tin được sinh động nhờ đức ái thì cũng là
do Tình Yêu Thiên Chúa bao bọc chở che. Quả thật, không một nơi nào có dấu vết
con người mà lại không có sự hiện diện yêu thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Mã sỐ: 14-006
MÓN QUÀ BẤT NGỜ
Hai mẹ con Tèo sống tại một Giáo họ nhỏ, ở một vùng quê cách
xa ánh đèn đô thị. Nay hai mẹ con phải mang lấy một cái tang bất ngờ: người
chồng, người cha của họ ra đi lần cuối trong một cơn cảm lạnh do say rượu. Ông
ra đi để lại người vợ và đứa con thơ chưa tròn 10 tuổi cùng với những tổn
thương của “một ngôi nhà mất nóc”. Từ đây, hình ảnh một người đàn ông say rượu
luôn là nỗi ám ảnh trong cuộc đời của Tèo.
Mỗi lần thấy Tèo trầm ngâm suy nghĩ, mẹ lại trấn an:
– Tương lai đang còn phía trước, không gì có thể cản bước tiến
của con. Mẹ sẽ làm tất cả cho con khôn lớn thành người…
Câu nói ấy đã giúp Tèo lớn lên; xóa đi những mặc cảm thiệt
thòi, quên đi những quá khứ đau thương và lấp đầy nỗi trống vắng thiếu cha.
Những lời tâm nguyện ấy chưa kịp thấm vào tâm trí của một đứa trẻ hướng nội dễ
mủi lòng thì tang thương lại đến.
Kể từ ngày bố mất đã được 3 năm, mẹ có nhiều giờ để đến sinh
hoạt với hội đoàn của Giáo họ. Mỗi lần đi họp về, mẹ đều có quà: hôm thì cái
bánh ngọt, lúc thì hộp chuối khô…Hỏi ra mới biết, trong lúc họ dùng bánh, mẹ
xin phép về sớm hơn vì lý do có con nhỏ nhưng… thật ra, vì mẹ hy sinh không ăn,
dành phần bánh cho con. Cũng như mọi ngày, trong lúc học bài, Tèo trông ngóng
mẹ về. Nhưng lần này là một hung tin: mẹ đã bị đập đầu xuống đất ngất xỉu do
một tên nhậu say tông vào.
Nỗi đau chồng chất nỗi khổ, tổn thương tiếp nối thê lương,
như búa tạ trăm cân giáng xuống nền đất cũ, nay càng tan nát thê lương. Đời Tèo
kéo lê một chuỗi ngày vô vọng, lời mẹ khi xưa lại vọng về: Mẹ sẽ làm tất cả cho
con khôn lớn thành người…
Đúng hơn, sự ra đi của mẹ làm con không lớn nỗi thành người.
Tèo tự nhủ thế và thiếp đi trong sự rã rời thống thiết. Sau đó, Tèo được các cô
chú trong hội đoàn nâng đỡ và kể lại những điều mẹ Tèo rất hãnh diện về Tèo…Nhờ
đó, Tèo dễ dàng vượt qua và tha thứ cho kẻ đã tông mẹ mình và làm cho mình đau
khổ. Từ đây, Tèo lại có một người bố nuôi là vị “ân nhân” của mẹ mình.
Mặc dù, lo cho con ăn học nhưng ông vẫn chứng nào tật nấy;
sớm say rượu, chiều say sưa, tối nằm bừa. Cảnh tượng ấy lại gợi Tèo nhớ về người
cha năm xưa, hai mảnh đời hằn lên một vết thương. Thay vì cúi đầu chấp nhận số
phận, Tèo quyết chí đứng lên, thoát ra khỏi cảnh “bóng rượu, hình men”. Cậu
quyết định lên Sài gòn để tiếp tục con đường trí thức. Cậu đã đậu trường đại
học Luật và một vị ân nhân giấu tên hứa sẽ giúp cậu ăn học thành tài. Tèo chia
tay với bố nuôi nhưng lòng muốn cự tuyệt “men rượu”. Ông thương con nhưng không
một lời biện hộ, chỉ cầu mong con sớm được như lòng sở nguyện.
Hơn 4 năm trôi qua, nay Tèo đã trở thành luật sư Lã Quốc Đạt,
mở một trung tâm tư vấn chuyên về việc cai nghiện bằng phương pháp đọc Kinh
Thánh do một linh mục dòng Chúa Cứu Thế đỡ đầu. Sự nghiệp ổn định, đã đến lúc
anh cần một tình yêu sánh vai. Đạt đã cố đi tìm cho được người con gái như
người mẹ lý tưởng năm xưa. Cuối cùng, anh đã quyết định kết hôn với Liên, một
cô gái sâu sắc, chịu khó chịu nhọc, lại đồng cảnh ngộ với anh vì mất bố sớm.
Sắp đến ngày cưới anh quyết định tổ chức tại Sài gòn cho tiện và chỉ mời một số
người trong làng nhưng không báo cho bố nuôi tại quê nhà biết. Liên đã dùng
nhiều lời thuyết phục Đạt:
– Anh yêu ! Em là một cô gái mất cha từ nhỏ. Điểm tựa của
niềm tin và sự tự tin vào cuộc sống vắng bóng trong cuộc đời của em. Em đã vượt
qua bằng cách ngắm nhìn những người cha của những đứa bạn mà tự an ủi mình.
Trong số họ, cũng chẳng gương mẫu gì, nhưng sự hiện diện của người cha trong
gia đình luôn là động lực giúp những đứa con sống hy sinh và quên mình. Chính
khi những đứa con ấy thành đạt, những người cha này lại thay đổi cách sống vì vinh
dự làm bố của “ông nọ bà kia”. Anh có quyền hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn.
Anh có thể…
Đạt tỏ ra bối rối và lo lắng, Liên tiếp tục tâm sự với sự
hiểu biết và đồng cảm với trường hợp của người yêu:
– Hơn nữa, anh biết không ! Vị ân nhân gởi tiền hàng tháng
cho anh ăn học là ai ?
Đạt cảm thấy bất lực vì không hiểu điều Liên vừa nói, ngỡ
ngàng xen lẫn với lòng tự trọng, Đạt lắng nghe Liên tiếp tục giải bày:
– Vị ân nhân ấy chính là bố anh…còn tên trên bì thư là quí
danh của một dì phước trong giáo xứ. Xin lỗi anh, em đã giấu anh điều này vì sợ
anh bị chi phối bởi tình cảm mà không tiến xa được trên đường công danh. Anh
đừng dập tắt tim đèn đang còn leo lét. Anh đừng dập tắt niềm hy vọng còn lại
trong cuộc đời anh. Người cha phải là niềm vinh dự và hy vọng cho con cái. Bố
anh là món quà Chúa trao trong cuộc đời bất hạnh của anh…Nhưng anh không phải
là người bất hạnh vì anh đã có cha, rồi sẽ có vợ có con. Con anh cần một người
để gọi là ông. Anh cần phải tôn trọng bố anh để con anh cũng biết cách tôn trọng
anh. Bố anh là người đáng được kính trọng…
Đạt đã khóc như chưa từng được ai đồng cảm sâu sắc như vậy.
Anh nghẹn ngào:
– Anh thật sự hạnh phúc vì có bố và có em.
Trong lúc mọi người tưng bừng, vui mừng để chuẩn bị cho ngày
hạnh phúc. Cả cơ quan của Đạt và Liên rất đổi phấn khởi chúc mừng hai đứa xứng
đôi vừa lứa. Điện thoại tự ngoài quê cũng liên tục gởi lời chúc mừng. Đến ngày
cưới, mọi người đều tề tựu đông đủ nhưng lại không thấy sự hiện diện của bố.
Chỉ thấy một lá thư chuyển tay gởi đến: hai con Đạt và Liên. Cuối ngày, sau khi
tiệc rượu đã tàn, hai vợ chồng mới ngồi lại đếm tiền mừng rồi dừng lại khi bắt
gặp lá thư của bố:
– Hai con Đạt và Liên thương nhớ ! Bố không thể hiện diện
được trong ngày vui của hai con. Bố có chút quà gởi mừng hai con là một cái
chân bị gẫy vì nhậu say ngã té và một lời hứa: tự nay, bố sẽ không bao giờ uống
rượu nữa. Chào hai con. Hãy đón nhận món quà này và tha thứ cho bố…
Hai vợ chồng ôm nhau khóc nức nở vì hạnh phúc khi nhận được
món quà bất ngờ.
Vài tuần sau, hai vợ chồng thu xếp về quê. Nỗi nhớ đắp đổi
niềm vui, niềm vui kéo dài hạnh phúc và hạnh phúc vì đã thỏa lòng nhớ mong. Bố
ôm con sau bao năm gặp lại…Đạt và Liên ở lại ít ngày để sống chung với bố và đi
cảm ơn những người đã đến dự lễ cưới.
– Cảm ơn bố cho chúng con món quà bất ngờ trong ngày cưới và
giờ đây, càng ngạc nhiên hơn khi bố trở thành trưởng ban phòng chống cai nghiện
rượu…Bố là niềm vinh dự cho chúng con !
Mã số: 14-007
SỢI DÂY CHUYỀN KHÔNG THÁNH GIÁ
Đêm cuối tuần, Sài Gòn như náo nhiệt hơn! Người vội vã trở về
sau ca làm việc, kẻ hối hả xuống đường đi dạo phố. Tuấn hẹn tôi đêm nay tới vũ
trường làm quen với anh Phương, trưởng phòng nhân sự công ty truyền thông CCM mà
tôi đang dự tuyển. Thú thực, một người vừa tốt nghiệp như tôi khó có cơ hội vào
làm việc cho một công ty lớn như CCM. Dù vậy, tôi vẫn nộp hồ sơ, với chút hy
vọng cầu may. Vả lại, từ mấy tuần qua tôi đã rơi vào tình trạng chẳng còn gì để
mất. Không kiếm được việc làm, tháng tới tôi biết lấy gì trang trải tiền nhà
trọ, tiền điện nước, ăn uống sinh hoạt…. Lòng tôi rối bời trăn trở.
– Linh, gỡ ngay sợi dây chuyền ra khỏi cổ. - Tuấn đột nhiên
yêu cầu tôi, giọng điệu như ra lệnh.
Tôi ngơ ngác.
– Sao lại phải như vậy? Nó chỉ là sợi dây bạc thôi mà!
– Nhưng tao nói mày bỏ ra hoặc mày đeo sợi dây đó thì cất cây
thánh giá đi. Mày phải biết rằng chưa có ai theo đạo làm việc trong CCM. Hơn
nữa, đi vũ trường, mày mang cây thánh giá như thế, người ta sẽ nghĩ gì về mày?
Tôi lưỡng lự:
– Thôi được. Tất cả vì công việc. Như thế này được chưa? Tao
để cây thánh giá vào túi rồi đó.
– Ok!
¯¯¯
Cửa vũ trường Diamond lấp lánh đèn hoa. Tôi cùng Tuấn bước
vào giữa tiếng nhạc đệm, tiếng nói cười của các cặp nam nữ. Trên sàn nhảy, hai cô
gái đang múa cột uốn éo theo điệu nhạc.
– Xoảng…!
Hai thằng chạc 17 tuổi gây gổ gì đó, một thằng đập vỡ cái
chai cầm nhăm nhăm trên tay. Nhìn cảnh tượng đó, tôi bàng hoàng, hai tay tôi
hơi run rẩy, miệng thốt lên theo phản xạ tự nhiên: "Lạy Chúa!"
Vũ trường vẫn huyên náo. Mọi hoạt động tiếp diễn. Chuyện đánh
đấm nhau ở đây là bình thường. Tôi lùi lại sau Tuấn, quyết định quay gót ra
về.Thôi kệ, ngày mai đi phỏng vấn được thì được, không việc gì phải cầu cạnh
người này người kia mà sa chân vào chốn vũ trường này.
Tôi chạy như bay ra phố, vẫy taxi trở về nhà trọ.
¯¯¯
– Anh là người Công giáo? - Một phụ nữ trẻ dáng vẻ sang trọng
trong số những người tuyển nhân viên hôm ấy hỏi tôi.
– Vâng, thưa chị! Tôi trả lời trong tâm trạng hồi hộp pha
chút ngạc nhiên.
– À, không có gì! Vì tôi nhìn thấy anh mang thánh giá. Không
ít người đeo thánh giá cho đẹp, nhưng nhìn anh, tôi nghĩ anh không như thế. Tại
sao anh chọn công ty của chúng tôi?
– Vì công việc ở đây hợp với chuyên ngành của tôi.
– Anh đã từng viết cho tờ báo hay trang Web nào chưa?
– Tôi mới ra trường. Thời sinh viên, tôi mới chỉ viết vài ba
bài cho trang Web của trường.
....
Chị nhìn tôi, trầm ngâm một lát rồi đột nhiên quay sang mấy
người ngồi bên:
– Tôi chọn anh này. Anh ta sẽ làm việc cho văn phòng của tôi.
Mọi người ngẩn ra trước quyết định nhanh chóng của chị.
Vài hôm sau, qua Tuấn, người đã làm ở công ty này gần một
năm, tôi biết chị chính là chủ tịch hội đồng quản trị. Ngày tôi dự tuyển, đích
thân chị xuống phỏng vấn để tìm một thư ký riêng.
¯¯¯
Thời gian trôi đi, tôi quen dần với công việc và bắt đầu tích
luỹ những kinh nghiệm trong ngành truyền thông. Ngày kia, sau buổi làm việc,
tôi mở email và nhận được một thư điện tử, nội dung như sau:
Tôi cảm ơn anh rất
nhiều! Anh là người tôi chưa biết mặt nhưng cũng là người đã đánh động con gái
tôi từ bao năm bỏ quên nhà thờ, lãng quên Thiên Chúa, thậm chí không còn nhớ
mình là người Công giáo. Từ khi gặp anh, con gái tôi hồi tâm trở lại. Bây giờ
nó tới nhà thờ dự lễ hàng tuần.
Con gái tôi đã viết
cho tôi những dòng này:
"Con biết từ
lâu mẹ mong con tới nhà thờ, mong con can đảm nhận mình là người tín hữu. Thật
bất ngờ mẹ ạ! Từ khi tuyển anh chàng sinh viên Công giáo mới ra trường vào làm
việc cho công ty, nhìn cây thánh giá anh ta mang trên người, con đã thực sự suy
nghĩ và tự hỏi: Tại sao anh ta không ngần ngại công khai đời sống tôn giáo? Là
người Công giáo có gì xấu mà bao lâu nay mình không dám tỏ lộ? Lần đầu tiên các
nhân viên công ty thấy con nhận người Công giáo vào làm việc. Họ không hề biết
con cũng theo đạo. Anh chàng kia chẳng có gì chống lưng mà còn can đảm tuyên
xưng Thiên Chúa, trong khi con có đầy đủ, mà vẫn sợ công khai đức tin của mình.
Con cảm thấy hối tiếc! Phải chăng bao năm qua, những thành công của con đều do
bàn tay Chúa sắp đặt? Vậy mà con đã lãng quên. Lẽ ra con phải hiểu điều này sớm
hơn. Mẹ ạ, chắc chắn tuần sau con sẽ tới nhà thờ. Mẹ an tâm và giữ gìn sức
khỏe, Giáng sinh này con sẽ sang thăm Mẹ!"
Anh biết không, tôi
đã òa khóc vì sung sướng. Nhiều năm qua con gái tôi chỉ lo làm ăn, kiếm tiền và
càng thành công thì dường như nó càng xa Chúa. Con gái tôi sợ công khai mình là
người Công giáo sẽ ảnh hưởng xấu tới các mối quan hệ làm ăn.
Tôi cảm ơn anh
nhiều. Cảm ơn anh đã mang sợi dây chuyền có cây thánh giá đến công ty của con
gái tôi. Cầu chúc anh luôn giữ vững niềm tin và thành đạt trong công việc!
Tôi ra về, lòng ngổn ngang suy nghĩ. Thì ra người gửi thư là
mẹ của sếp, bà định cư ở Mỹ mà một vài lần sếp tôi nhắc đến. Thảo nào lúc đó
chị nhìn tôi đầy tư lự, cái giây phút mà tôi lo lắng không biết mình có được
nhận vào làm việc hay không. Tôi chợt nhớ thời sinh viên, tôi đã từng không dám nhận mình là người theo
đạo. Một lần tôi về thăm nhà bạn ở miền quê; hôm đó, tôi ở lại ăn trưa cùng gia
đình bạn. Gia đình vốn hiếu khách, thấy bạn của con từ thành phố về chơi nên
thết đãi tươm tất. Nhà bạn tôi không cùng tôn giáo, nên tôi loay hoay tìm cơ
hội âm thầm làm dấu thánh, đọc kinh trước bữa ăn. Chẳng lẽ tôi phải nói cả nhà
đợi tôi đọc kinh cầu nguyện rồi mới ăn cơm? Tôi đành có một "sáng kiến":
giả bộ chạy ra cầu ao rửa tay, lén lút làm dấu, rồi nhẩm thầm kinh Lạy Cha.
Trời đất ơi! cứ như thời bách hại đạo vậy!
Xét cho cùng, con người ta ai cũng có lúc yếu đuối, nhưng tôi
không hiểu sao mình yếu đuối tới mức phải che giấu niềm tin tôn giáo. Mãi khi
gần tốt nghiệp, có lần nhân tiện nói về tôn giáo, tôi bộc lộ với bạn tôi mình
là người Công giáo. Với giọng điệu khá nghiêm túc pha chút cảm thông, anh bạn
hỏi tôi: Đi đạo thì có gì là xấu mà cậu không dám nói? Từ đó, tôi không còn
phải lo che giấu cây thánh giá mang trên người.
Tôi không nghĩ mình đã góp phần thay đổi đời sống tâm linh
của sếp tôi. Chắc chắn sức tôi không thể làm được; nhưng đó là việc của Chúa,
ngay cả chuyện của tôi cũng thế, mọi việc xảy ra luôn luôn qua một trung gian
nào đó. Trong trường hợp của tôi, thông qua câu nói của người bạn không cùng
tôn giáo, Chúa đã giúp tôi thay đổi cách sống đạo.
¯¯¯
Chiều cuối tuần được nghỉ việc, tôi theo anh bạn ngược về Quy
Nhơn tham dự cuộc triển lãm tranh. Quy Nhơn đẹp hơn những gì tôi mường tượng.
Con đường Trần Hưng Đạo dẫn lối vào nhà thờ Chính toà với những tà áo tha thướt
đi về hướng giáo đường dự lễ. Ngắm những tán lá phượng xanh biếc xen giữa những
chùm hoa rực lửa, rủ xuống hai bên đường, tôi thấy lòng mình xôn xao đến lạ.
Không thơ mộng như Hà Nội, không ồn ã như Sài Gòn, Thành phố này có nét đặc
trưng rất riêng mà anh bạn hoạ sĩ gọi là "rất Quy Nhơn". Nhịp theo
từng bước chân, tôi lắng nghe tiếng chuông nhà thờ thong thả đổ hồi.
Nhìn theo những tà áo dài thấp thoáng trước mặt, tôi chợt
nhận ra bóng dáng một phụ nữ quen quen, giống như chị trưởng phòng kế hoạch của
công ty.
– Chị Tân! - Tôi gọi tên chị.
Đúng là chị Tân rồi. Chị quay lại nhìn
tôi:
– Sao cậu ở đây?
– Em đi cùng anh bạn này, cuộc triển lãm
tranh về thành phố Qui Nhơn ngày mai có tác phẩm của cậu ấy. Thế còn chị, sao
chị lại ở đây?
– Đây là quê tôi. Tôi về dự lễ cưới của
một người bà con trong họ; ngày mốt tôi trở lại Sài Gòn.
– Thế Chị đang đi ...!?
– Đi lễ. Tôi cũng là người Công giáo như
cậu đó. Nhưng ở công ty, tôi không dám để mọi người biết. Từ khi có cậu vào
làm, tôi nhận ra sếp của mình cũng theo đạo. Thế là tôi không cần che giấu nữa.
Thì ra thế! Biết đâu trong công ty mình
còn nhiều người theo đạo, tôi thầm nghĩ trong lòng.
– Hai cậu còn ở lại Quy Nhơn lâu không,
tôi mời đến nhà chơi và thăm thành phố?
– Chắc không kịp chị ạ. Ngày mai triển
lãm, tối mai chúng em trở lại Sài Gòn để bắt đầu tuần làm việc. Chúng em mời
chị tới dự triển lãm ngày mai!
– Chắc chắn tôi sẽ tới. Và tôi cũng hy
vọng trong tương lai các cậu không chỉ vẽ những tác phẩm nghệ thuật bên ngoài
mà còn vẽ và triển lãm cả những tác phẩm tôn giáo nữa!
Tôi đưa chị tấm thiệp triển lãm. Cả ba
chúng tôi cùng sải bước về hướng nhà thờ Chính toà. Niềm vui bừng sáng như nắng
ấm lan toả trong tôi. Điều chị Tân mong ước, cả tôi và anh bạn hoạ sĩ có lẽ
chưa bao giờ nghĩ tới.
¯¯¯
Đêm trên đất Quy Nhơn không khí thật trong lành. Gió biển
lồng lộng thổi vào căn gác. Ca khúc "Biển Nhớ" từ góc phố xa xa vang
vọng tới phòng tôi. Tôi trở mình qua lại. Không ngủ được. Tiếng chân người trên
sàn nhà. Tiếng cọ quét trên giấy. Có lẽ anh bạn tôi đang mải mê vẽ phố biển Quy
Nhơn. Tôi rón rén bước xuống cầu thang.
– Không ngủ à Phong? Mày đang vẽ thành phố Quy Nhơn hả?
– Không. Tao đang hoạ lại bức chân dung ông thánh Anrê Phú
Yên mà hôm nay tao nhìn thấy ở nhà thờ. Mày không nhớ chị Tân nói gì sao? Chị
hy vọng sẽ có những tranh vẽ tôn giáo trong triển lãm lần tới.
Ừ nhỉ! Tôi không nghĩ câu nói của chị có thể khơi nguồn cảm
hứng cho anh bạn của mình. Tôi trở về phòng. Nghe câu hát phố biển lúc gần lúc
xa. Đêm nghe phố Quy Nhơn thanh bình đến lạ. Tôi ngồi dậy viết thư cho mẹ, kể
về chuyện cây thánh giá và sợi dây chuyền mà mẹ đã đeo vào cổ tôi từ những năm
học cuối cấp. Tôi cũng kể cho mẹ biết về Qui Nhơn, thành phố biển thanh bình mà
lần đầu tôi tới đã thấy thật thân thương. Chắc giờ này mẹ tôi đã ngủ sau khi
lần chuỗi Mân côi. Ước gì tôi đang ở bên mẹ, tôi sẽ kể mẹ nghe thật nhiều
chuyện cuộc sống của tôi.
Đêm. Quy Nhơn thật an bình!