GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 04
GIA HẠN NHẬN
BÀI ĐẾN 31-3-2015
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận
Qui Nhơn khởi xướng. Nó muốn gợi lên nơi bạn trẻ Công giáo ý định thử viết một
truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có thể
trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 8 truyện dự thi mới, có
mã số liên tục từ 15-041 đến 15-048. Suốt 8 bài dự thi không một bài nào bị
loại ở vòng đầu, đó là một tín hiệu vui, cho thấy ngòi bút các tác giả dự thi
ngày càng vững vàng hơn, đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của cuộc thi.
Những tác giả có bài dự thi không được chọn giới thiệu nên nghiên cứu để chỉnh
sửa bản thảo của mình cho phù hợp.
Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia
bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2.
Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng
quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành
hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt
bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý
kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng
của mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm
nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem Bản
Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này.
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho
các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải
2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày
31-3-2015. Như vậy chỉ còn chừng nửa tháng nữa là kết thúc nhận bài dự thi của
năm 2015, mong các tác giả lưu ý để không gởi bài bị trễ hạn.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã
và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham
gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên
Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 16-03-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 15-041
Nghe
điện thoại xong, Hằng gần như không đứng vững. Cô không ngờ vị giáo sư mà cô
ngưỡng mộ lại đê tiện như vậy. Cô bước vào căn phòng trọ chật hẹp, ném mình
xuống nệm. Đầu óc cô quay cuồng loạn xạ. Mọi thứ như đang lao xuống một hố sâu
đen thăm thẳm.
Phải
một hồi lâu sau, Hằng mới ngẩng đầu lên, cất giọng uể oải:
- Ôi!
Mệt quá! Chắc không nấu nướng gì được. Quỳnh kiếm gì ăn đỡ đi!
Cô bạn chung phòng hơi nheo mày:
- Ờ!
Cứ yên tâm! Quỳnh lo bếp núc được mà. Nhưng hình như… có chuyện gì phải không
Hằng? Thấy Hằng …
-
Chẳng có gì đâu. Nhưng Hằng muốn được yên một lúc.
Quỳnh
vào bếp làm cơm tối. Nhưng đầu óc cô cứ vẩn vơ. Mới hồi sáng, và cả chiều nay
Hằng vẫn còn vui vẻ, nói năng như sáo kia mà. Sao giờ thấy nó lạ quá?
Có
tiếng bước chân Loan vào phòng. Quỳnh bước lại, nói khẽ:
-
Loan! Mày lựa lời hỏi con Hằng xem nó có sao không. Tao thấy nó thế nào ấy!
- Thì
mầy hỏi đi. Tao tạt về thay đồ để chuẩn bị đi làm đêm.
- Tao
hỏi mà nó không trả lời. Tao nghi…
-
Nghi nó chửa hoang hả?
- Bậy
bạ! Tao nghi ông thầy Tình lại dở cái trò gạ tình đổi điểm đó…
-
Nhưng nó học hành đàng hoàng cơ mà.
- Thì
cái hôm nó lật đật về chịu tang ông nội nó đó. Hôm đó, nó làm bài chưa đâu ra
đâu thì đã ôm mặt khóc, chẳng viết lách gì được nữa.
- Ờ
hén! Mà ổng thích thì chiều! Miễn sao đủ điểm lên lớp, không phải mất thêm một
năm nữa là được rồi.
- Mầy
nói gì kì vậy, Loan? Cả đời con gái chỉ bấy nhiêu đó.
- Hừ!
Trước sau gì cũng thành đàn bà. Không thành trước cũng thành sau.
- Làm
vậy tức là mình tự xúc phạm chính mình. Mày không nhớ Mười điều răn ngày nào đi
lễ cũng đọc hả?
Loan
đột nhiên cất tiếng cười. Giọng cười của cô có chút gì đó man rợ:
-
Phạm tội thì xưng tội. Chứ mầy nghĩ tao đi phục vụ cà phê chỉ đơn thuần là bưng
bê trà nước thôi sao? Cứ như tụi bây e rằng tao không đủ tiền học nữa chứ nói
gì đến việc lo cho hai đứa em tao!
Quỳnh
nhíu mày:
-
Toàn những lời ngụy biện…
- Tùy
mầy! Sống trên đời này, sự thật là như vậy. Giữ đạo ở trong tâm là được rồi!
- Tao lên án cái lối sống bê tha đó!
-
Khỏi cần cãi với mầy. Rồi đời sẽ dạy khôn cho tụi bây. Tao đi làm đây. Tối nay
tao không về!
Loan
đi rồi. Căn phòng càng trở nên ảm đạm. Ánh điện dường như không đủ làm tỏ rạng
mọi thứ trong phòng. May ra chỉ có tấm ảnh Chúa Hài Đồng trong vòng tay Mẹ
Maria treo trên tường là sáng rực lạ thường.
Bữa
cơm của Hằng và Quỳnh lặng lẽ trôi theo nhịp thời gian. Hằng vừa ăn vừa nghĩ
đâu đâu. Quỳnh cũng chỉ ăn cho qua bữa. Mọi thứ như đang dồn nén, cô đặc lại.
Buồn bã. Thật buồn bã! Cả căn phòng cũng trở nên chật chội, bức bối. Quỳnh phải
gắng lắm mới hỏi Hằng một câu, để phá tan cái im lặng đáng sợ kia:
-
Chuyện thật hả Hằng?
- Ừ!
Ổng nói nếu Hằng chiều ổng thì mọi việc tốt đẹp. Bằng không…
Hằng
thấy nghẹn ngào, tức tối như có thứ gì chặn ngang cổ. Nước mắt chực trào ra. Cô
giả vờ đi lấy nước uống để cho Quỳnh khỏi thấy những giọt nước mắt lăn dài trên
gương mặt đầy ưu tư, đau khổ của mình.
-
Thật khốn nạn! … Rồi Hằng tính sao?
-
Cũng…chưa biết nữa! Ổng nói nếu đồng ý thì tối mai tới khách sạn Sao Đêm. Thôi!
Hằng không muốn nhắc tới chuyện đó nữa! Bây giờ đầu Hằng rối tung rối mù vậy
đó.
-
Hằng ơi! Đừng chiều theo ý gã đàn ông man rợ ấy! Thân xác này là đền thờ Chúa
Thánh Thần. Đừng làm dơ bẩn nó. Biết đâu sẽ có một cách giải quyết tốt hơn?
- Ôi!
Mệt mỏi quá rồi. Chẳng biết nên làm sao bây giờ!
* * *
Hằng
đi ngủ sớm hơn mọi ngày. Cô trùm chăn kín mít như để trốn khỏi ánh mắt và câu
hỏi của người bạn thân.
Cô
thao thức. Cô trằn trọc. Cô nghĩ đến cha mẹ. Cô nghĩ đến Chúa.
Đi
hay không đi? Nếu chiều theo ý vị giáo sư kia, cô sẽ có điểm cao, sẽ không phải
học lại môn này. Nhưng rồi, đời thiếu nữ trong trắng của cô sẽ ra sao đây? Còn
nếu không chiều ông ta, cô buộc phải học lại, học một cách hết sức vất vả mà không
biết kết quả thi lại sẽ ra sao. Vả lại, biết đâu năm sau, ông ấy lại tiếp tục
dạy môn này cho lớp cô, cô tính sao.
Hằng
nằm đờ đẫn trên chiếc giường trải drap trắng. Ánh đèn mù mờ làm cô sợ hãi. Đối
với cô, cả căn phòng khách sạn đang toát ra vẻ tội lỗi. Cô khẽ kéo chăn đắp lên
người cho đỡ trống trải. Cô đang nghĩ đến những gì sắp xảy ra với mình. Tim cô
đập mỗi lúc mỗi dồn dập.
Vị
giáo sư to cao từ trong phòng tắm lù lù bước ra. Trên mình ông chỉ có chiếc
khăn bông quấn ngang hông. Ông tiến lại ngồi lên mép giường, cạnh cô. Ông cố nở
một nụ cười. Nhưng Hằng thấy nụ cười ấy thật nham nhở, đểu cáng. Rồi ông đưa
tay ra vuốt má cô.
Hằng
thấy nghẹn thở. Tim đập thình thịch.
- Sao
em có vẻ sợ hãi vậy? Em không thấy cuộc đời này thật đáng sống sao? - Người đàn
ông tuổi trung niên nói, giọng khàn khàn. Ánh mắt đầy nhục dục của gã đang quét
lên cơ thể mĩ miều của Hằng. Cô cố lãng tránh ánh mắt đó.
Chợt
chiếc Thánh Giá đong đưa trên cổ vị giáo sư làm Hằng chú ý. Cố giữ vẻ bình
tĩnh, cô thưa:
-
Thầy theo đạo Công giáo sao?
-
Không! Tôi chỉ đeo cho vui mắt thôi. Mà tôi nghĩ làm gì có Chúa!
Hằng
buột miệng:
- Em
nghĩ người có đạo không ai nỡ làm như thầy. Thầy làm em khiếp sợ quá.
- Em
trách tôi đấy à? Đừng nghĩ quẩn! Chẳng có gì đáng ngại hết. Em xinh đẹp lắm.
Tôi rất yêu em! Đã yêu nhau thì đến với nhau là chuyện rất bình thường.
Sau
câu nói, người đàn ông lại mân mê mái tóc Hằng. Ông đột ngột hôn lên trán cô.
Tay ông sờ soạng lên bờ vai tròn trịa của cô. Rồi ông cúi sát người xuống, hôn
lên cả mắt cô.
Hằng
chợt nhắm mắt lại. Cô đành buông xuôi, để cho mọi sự tiếp diễn, không dám chống
cự. Mà cô nghĩ, chống cự sao nổi khi một bên là người thầy quyền uy vạm vỡ to
cao, một bên là cô sinh viên yếu đuối như Hằng.
-
“Trở về với Thầy đi con!” - Hằng nghe loáng thoáng một giọng nói vang lên. Âm
giọng ấy đầm ấm lắm, gần gũi lắm, nhưng rất mơ hồ.
Hằng
mở bừng đôi mắt. Cô cất tiếng hỏi:
-
Thầy có nghe giọng ai nói gì không?
- Ủa?
Ở đây chỉ có tôi và em. Tôi chỉ nghe nhịp tim em thôi mà.
Người
đàn ông lại cố cười. Gã lần tay xuống ngực cô, nhẹ nhàng gỡ từng chiếc cúc áo.
Cô lắng tai nghe thử tiếng nói kia có vang lên lần nữa không, hay thực ra đó
chỉ là ảo giác. Song cô chỉ cảm nhận tim mình đập mạnh và nghe tiếng thở hổn
hển của vị thầy khả ố.
- “Trở về với Thầy đi con!” - Tiếng nói kia
lại vang lên lần nữa. Rất rõ. Rất gần. Giọng rất ấm và tha thiết như cha ân cần
dặn dò đứa con gái yêu thương.
Hằng
mở to đôi mắt. Căn phòng vẫn mập mờ, nhập nhoạng trong gam màu tối đen tội lỗi.
Chỉ có cây Thánh Giá trên cổ người đàn ông lấp lánh sáng. Trong ánh đèn mờ ảo,
cô dường như thấy bàn tay Chúa chịu nạn đang dang ra cứu lấy cô.
-
“Trở về với Thầy đi con!” - Lần này cô nghe rất rõ. Tiếng nói ấy dường như phát
ra ngay từ cây Thánh Giá.
Rất
tỉnh táo, Hằng đột nhiên vùng dậy. Cô lấy hết sức bình sinh xô đại người đàn
ông ra khiến gã loạng choạng ở góc phòng.
-
Chúa ơi, cứu con! Chúa ơi, cứu con! – Hằng vừa hét vang trời, vừa chạy về phía
cánh cửa, vặn chốt, nhanh nhẹn bước ra.
Gã
đàn ông luýnh quýnh chồm người dậy:
-
Hằng! Sao vậy em? Em điên à?
Một
bàn tay nào đó đã vỗ lên trán Hằng. Quỳnh vừa lay, vừa gọi bạn. Hóa ra Hằng vừa
nằm mơ. Cô mở mắt ra. Bên cạnh Hằng, nhỏ bạn thân đang nhướng mắt lên, vẻ lo
lắng .
Ôi,
hú vía! Hóa ra đó chỉ là một cơn ác mộng. Vậy mà người Hằng đâm ra rũ rượi.
Nhìn gương mặt đầy vẻ ưu tư của bạn, Quỳnh thân mật:
-
Quái lạ! Hằng mơ điều gì mà kêu Chúa hoài vậy?
Ánh
mắt Hằng trở nên ngơ ngác:
- Ủa?
Thật hả? Giờ này là mấy giờ rồi? Loan về chưa?
- Gần
5g sáng rồi. Loan về hồi 11g đêm. Giờ nó đang nằm đừ người ra đó. Hằng nghỉ một lát rồi đi lễ chứ? Trông mặt
Hằng tái ngắt. Có sao không?
- Ờ,
không sao đâu. Nhưng nhất định Hằng sẽ không chiều theo ý đồ của lão Tình!
- Đó
là một quyết định sáng suốt – Cô bạn khẽ nói nhỏ giọng - À, hồi đêm, Loan về
khóc quá trời. Nó bảo nó sẽ tìm một công việc khác tử tế hơn làm, không làm ở
đó nữa và sẽ bỏ thói đi đêm. Mừng hết lớn luôn Hằng ơi! Rồi mọi chuyện rồi sẽ
tốt lên. Tạ ơn Chúa!
-
“King koong…King …koong… King …koong”
Hai
bạn nghe xa xa vang lên những hồi chuông thúc giục mọi người đến nhà thờ, cùng
nép mình trong vòng tay yêu thương của Chúa. Suốt ngày hôm đó, Hằng không ngớt
nghe văng vẳng trong tai mình điệp khúc trìu mến: “Trở về với Thầy đi con. Trở
về với Thầy đi con”.
Mã số: 15-042
Gió thổi
nhè nhẹ qua những kẽ lá rung rinh. Cành ổi khua khua như vẫy gọi. Nó sà sà
trước mặt Lan. Mái tóc xõa xuống, Lan cũng chẳng buồn vén. Tức mình, Lan đưa
tay giật cành ổi, những chiếc lá rơi xuống. Lan thả tay, nó bật lên kêu phành
phạch, cứ rung mãi không chịu thôi.
Từ
sáng, Lan đã ngồi tần ngần ở cửa đợi mẹ. Lâu lắm rồi, kể từ khi mẹ đi xa, Lan
vẫn thường ngồi ngóng mẹ. Đôi mắt buồn. Mẹ đã đi được hai năm. Hai năm mà Lan
cứ ngỡ đã lâu lắm rồi. Ngày trước, chỉ chờ mẹ đi chợ phiên thôi, Lan cũng mong.
Mẹ đi đến mãi trưa mới về, có hôm tận sẩm tối nên Lan mong lắm. Ấy là mới xa mẹ
có nửa ngày, hơn chăng là độ một ngày. Bây giờ hai năm, Lan thấy lâu là phải.
Lan thấy nhớ mẹ như muốn khóc lên được. Đôi mắt đã ngấn nước chỉ chực chờ rơi
xuống, và nó rơi, nó chảy dài trên đôi má ửng hồng của Lan, trôi xuống cổ và
mặc sức thấm ướt cổ áo.
Tiếng
xe bố về ở đầu ngõ, Lan đã nhận ra, mong đợi mãi thành quen, nghe riết rồi
quen. Chiếc xe máy của bố cũ kỹ. Nó ồn ào, nó réo lên, nổ rền rền, nghe long cả
tai. Lan thấy ghét tiếng nổ khó chịu ấy nhưng thiếu nó, Lan thấy sợ. Lan sợ
rằng bố cũng sẽ bỏ Lan đi. Nỗi sợ như mơ hồ. Bố đi làm từ sáng sớm đến chiều
mới về, nhưng đó là trước khi mẹ đi, giờ chẳng mấy khi bố đi đâu xa. Bố chỉ
đánh xe ra thăm đồng, sang nhà bác Tư hút thuốc, uống chè xanh, tâm sự cho
khuây khỏa hoặc chỉ lên trại nhổ cỏ cho mấy gốc chanh. Bố cũng buồn thì phải.
Lan tránh bố giống như bố tránh Lan. Ai cũng tránh mặt, sợ nhìn thấy nhau,
buồn. Lan nhìn trộm bố, bắt gặp ánh mắt
buồn, Lan cúi mặt xuống, lòng nặng trĩu.
Lan
ăn rất ít cơm. Ngày trước, Lan ăn giỏi lắm, bởi cơm canh mẹ nấu rất ngon. Mẹ ít
khi mắng Lan, bố cũng không mắng. Bố còn cho Lan quà. Mẹ đi rồi chỉ còn hai bố
con, bố cũng ít nói hơn lại khó tính. Lan ngồi chớn ngửa không chịu ăn, bố cũng
mắng. Quét nhà không sạch, mắng! Đồ để lâu ngày không giặt, mắng...! Thành ra,
Lan rất sợ bố. Lan đâu muốn, tự nhiên buồn nhiều, bị mắng nhiều thành ra thế.
Nỗi nhớ khiến con người ta đờ người đi, hơn nữa sợ quá cũng co rụt lại như con
đỉa mùa đông, lầm lì, ù ì mãi.
Lan
ngồi dậy, vơ cái chổi quét nhà, lúng túng như bị ai bắt quả tang. Lan lấy tay
áo quẹt nước mắt, lau cho sạch kẻo bố nhìn thấy. Bố mắng. Cánh cửa bị gió đẩy,
va đập như muốn rụng xuống; lâu lắm rồi hình như thiếu hơi người, ít được quan
tâm, nó mốc meo, mối mọt ăn đã phân nửa, chỉ chờ được thay. Bố dừng xe ở ngoài
cổng, lật đật đi vào nhà, chẳng thèm nhìn Lan. Bố lật tung sổ sách, gọi:
– Con
Lan!
Lan
lật đật chạy vào, nếu chậm chân sẽ bị ăn tát ngay.
– Dạ
bố gọi con!
Lan lấm lét nhìn bố.
– Mày
kiếm cho bố cái sổ đỏ.
– Làm
gì vậy bố?
– Mày
kiếm không thì bảo!
Lan
đâu biết sổ đỏ là cái gì. Lan đã học lớp bốn. Đang nghỉ hè, Lan chỉ quanh quẩn
ở nhà. Lan lục lọi trong thùng giấy tờ:
– À!
Đây rồi bố!
– Mày
đưa đây cho bố!
Nói
rồi, ông giật lấy cái sổ đỏ trên tay làm Lan suýt té. Thấy Lan dúi người, ông
mắng:
– Gì mà
yếu! Ăn vào chỉ tội tốn cơm!
– …
Ông
chạy vội ra xe, rú ga đi vút. Bóng ông mờ dần, tiếng xe máy cũng loãng dần
trong không trung. Lan đứng nhìn theo bố, lòng đầy thắc mắc ...
Chiều
đến, Lan nhóm bếp nấu một nồi cơm nhỏ. Lan vất vả thổi phồng cả má, mãi lâu lửa
mới bén. Lan thấy thương mẹ. Khói bếp làm Lan cay sè cả mắt. Chao ôi! Lan khóc.
Khóc mãi rồi cũng thôi, Lan quen rồi, khi chực khóc là khóc. Lan khóc suốt, một
ngày ít là vài lần: khóc vì bị mắng, khóc vì mệt, khóc vì nhớ mẹ... Lan khóc
rất nhiều, con tim của Lan cũng nhạy cảm nữa. Nhìn thấy con gà con lạc mẹ, Lan
cũng khóc; thấy bố say xỉn và hay nói nhảm, Lan lại khóc.
Loay
hoay một hồi lâu, nồi cơm cũng cạn. Lan ì ạch bê nồi cơm vần sang cạnh bếp.
Chiếc vung bị trật ra, hơi nóng thổi vào tay, Lan vội vàng thụt lại, nồi cơm
văng xuống, thiếu tí nữa là bỏng. Lan cẩn thận kéo nồi cơm dịch từng tí về phía
đống than hồng đã gạt sẵn. Thấy đã ổn, Lan cắp rổ chạy ra vườn ngắt mấy ngọn
rau muống, cắt nấu canh. Lan nhặt sạch lá vàng rồi lấy con dao giắt ở miên nhà,
với tay lấy thêm cái thớt trên giàn tre xuống. Lan cắt rau.
Lúc trước (ấy là lúc mới tập việc), Lan luống
cuống lắm, cắt rau chỉ sợ đứt tay và Lan cũng từng bị đứt tay. Lan từng nghĩ,
ai đứt tay mới biết người bị đứt tay đau thế nào. Từ khi lên lớp ba, bố đã giao
cho Lan quét dọn nhà cửa và nấu ăn. Bây giờ, Lan đã thành thạo hơn trước nhưng
vẫn còn vụng về lắm. Cơm canh đã xong từ lâu, bố vẫn chưa về. Lan chờ sốt cả
ruột. Có tiếng chuông nhà thờ đổ, Lan nhớ tới giờ kinh tối. Lan ao ước được đi
nhà thờ.
Ngày
trước, mẹ vẫn thường dẫn Lan đi. Hôm nào bố đi làm về muộn, bố chỉ đọc kinh
riêng. Lan thích nhất những dịp lễ Giáng Sinh, Lan được tung tăng đi lễ bên cha
mẹ. Khi ấy, Lan hạnh phúc lắm. Bây giờ, Lan chỉ ước bố về sớm để được bố dẫn
mình đi nhà thờ.
Trời
tối, Lan sợ lắm. Có lần, bố về rất muộn. Lan đến nhà thờ một mình. Lan chạy ù
cho nhanh, vừa đỡ sợ. Lan sợ nhất là con chó của nhà bác Tư. Chỉ cần nghe tiếng
bước chân người, nó đều đuổi theo. Có lần, Lan đã cố xách đôi dép trên tay, lao
nhanh qua cổng nhà bác mà vẫn bị nó dí.
Từ
hôm bị chó cắn, Lan không dám tới nhà thờ một mình. Lan thấy nhớ nhà thờ lắm.
Có những điều giản dị trong cuộc sống, nó rất bình thường ai cũng có thể làm
được, nhưng khi hoàn cảnh không cho phép, bị những ngăn trở mà người ta chẳng hề
muốn, những cái bình dị ấy bỗng trở nên quan trọng. Nó làm cho người ta cứ nhớ,
cứ mong.
Lan
muốn được đọc kinh chung cùng mọi người. Lan thích thú khi được đứng nghiêm trang
lần hạt. Mỗi khi lần hạt, thầy giáo lý viên cho tất cả học trò đứng dậy đọc, để
không còn ai ngủ gật. Lâu ngày, Lan thấy thích đứng đọc kinh hơn ngồi. Lan đứng
thì có thể nhìn Chúa Giêsu rõ hơn.
Tám
giờ rồi, bụng Lan lại réo lên. Không chịu nổi, Lan mới xuống bếp bày cơm canh
ra mâm, rồi ì ạch bê lên nhà trên, đặt lên bàn. Lan chạy vội xuống bếp, lấy cái
lồng bàn đậy lại. Bố khó tính lắm cơ, hay mắng, nhất là chuyện cơm nước. Bụng
cồn cào. Chắc còn lâu bố mới về, nghĩ thế Lan mới ăn cơm. Lan nghiêm trang làm
dấu Thánh Giá rồi đọc kinh. Lan nhớ, mẹ đã tập cho mình bắt kinh ăn cơm từ nhỏ.
Lan sung sướng khi được bố mẹ giao cho nhiệm vụ ấy. Lan nhìn lên Chúa Giêsu và
ước ao mẹ sẽ sớm trở về. Lan sẽ được xướng kinh ăn cơm thật to. Lan sẽ được mẹ
khen. Lan sẽ được đi lễ, đi nhà thờ đọc kinh như ngày trước. Bây giờ, đó chỉ
còn là điều ước…
Lan
ăn cơm với canh rau và Lan thấy rất ngon. Cơm canh nấu từ chiều nên đã nguội
hết cả, nhưng cái bụng đói meo khiến cho người đói ăn cơm nguội cũng thấy ngon.
Lan tự hào vì mình thật đảm đang. Lan tự khen mình. Canh này chắc bố không chê,
Lan nghĩ thế và Lan ăn ngon lành. Bóng đèn nhỏ đang cố gắng tỏa sáng. Ánh sáng vàng cả gian phòng. Gió
lại thổi. Tóc Lan bay. Những con muỗi vo ve dưới chân. Lan gác cái chân lên
ghế, vỗ đen đét vào đùi. “Muỗi nhiều qúa! Sao bố chưa về nhỉ?”, nhưng nói rồi
lại ngáp. Lan đứng dậy, ra cửa ngóng nhưng không thấy gì ngoài những bóng cây
loang lổ trên nền đất. Những tán cây bồng bạc trở mình vì gió tạo nên những
hình thù kì quái. Màu trắng của lá cây dưới ánh trăng khiến cho bất cứ ai cũng
có thể liên tưởng đến những bóng ma. Những bóng điện của nhà hàng xóm chỉ ở mãi
bên kia. Trông chừng xa xôi lắm. Nhà thờ cũng ở bên xóm ấy. Nhà Lan ở bên này,
cách một ngọn đồi nho nhỏ.
Lan đi vội vào nhà. Ở nhà một mình Lan thấy
sợ. Lan sợ ma. Lan không biết ma hình thù như thế nào nhưng Lan sợ ma giống như
bọn trẻ trong xóm vẫn sợ. Sao Lan buồn ngủ thế? Gió thổi, làn gió mát rười
rượi, len lỏi trong từng thớ thịt. Mắt Lan đã chùng xuống và Lan ngủ lúc nào không
hay.
Người
bố về dừng xe giữa sân, mảnh sân nho nhỏ mà ngày nào cả gia đình vẫn cùng nhau
ngồi ngắm trăng, cùng ăn khoai luộc. Ông bước vào nhà, thấy con đang ngủ. Lan
khóc mơ: “Mẹ ơi! Mẹ đâu rồi! Mẹ về với con đi. Mẹ cho con đi nhà thờ đọc
kinh... Con nhớ mẹ nhiều lắm!” Nước mắt
Lan chảy dài. Ông bước vội vào nhà lấy cái áo toan đắp cho con. Ông lại quay
ra, bế Lan vào giường. Ông đứng nhìn con hồi lâu, lòng ông thắt lại. Ông nhớ
thương vợ…
Hai
năm trước, mẹ của Lan đi lấy hàng ở biên giới, cốt kiếm thêm thu nhập cho gia
đình. Mẹ bị người ta lừa rồi bán sang Trung Quốc, từ đó không còn tung tích gì
nữa. Bố Lan cùng mọi người tìm kiếm. Công an cũng vào cuộc nhưng chưa có thêm
manh mối gì. Bố cầu nguyện với Chúa mãi mà
mẹ của Lan vẫn biệt vô âm tín. Bố chán nản, thôi đi lễ, thôi đi nhà thờ.
Những hôm con gái khóc nhiều, đòi đi nhà thờ,
ông mới chở đi. Ông say nhiều hơn tỉnh. Nhiều đêm, nằm một mình, choàng tay chỉ
thấy chiếc gối không, ông hụt hẫng. Nhìn con, ông cố gắng lấy lại tinh thần,
nhưng nỗi trống vắng trong ông cứ lớn dần, dường như không thể lấp đầy. Có lúc,
ông chỉ ước cho bọn buôn người chết cả đi. Một bọn xấu xa. Ông hận cuộc đời.
“Bố ơi! Đừng bỏ con! Con hứa sẽ ngoan, bố cho
con đi nhà thờ bố ... ơi!”, nghe con nói mơ, cuốn sổ đỏ trên tay ông rơi xuống.
Đôi mắt từ nãy giờ đã ầng ậc nước, bây giờ rơi xuống từng giọt nước to. Nó trào
ra khiến ông không thể kìm được. Giống như một mạch nước ngầm chảy trong lòng
đất, khi được con người khơi ra liền vọt trào dòng nước mát lạnh. Ông nếm vị
mặn chát của nước mắt. Ông thấy cuộc đời thật cay đắng. Người ông run lên bần
bật. Ông nhẹ nhàng nhoài người, nằm lên giường, vỗ về con. Ý định cầm cố ngôi
nhà trong ông cũng vụt tan biến, chỉ còn lại cho những ước mơ ngày nào ông ấp ủ
cho tương lai của đứa con yêu. Ông nói trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Ôi con yêu!
Bố xin lỗi con. Bố sẽ nuôi con khôn lớn. Bố sẽ dành tình yêu cho con, không chỉ
phần của bố nhưng của mẹ con nữa”. Ông đưa tay móc trong túi ra một chiếc vé
tàu ghi: Vinh – Sài Gòn, ông chần chừ rồi tự lúc nào chiếc vé tàu đã nát trên
tay ông.
Người
ta thường rất hiếm khi thấy đàn ông khóc nhưng không phải họ không biết khóc.
Có lẽ, họ chỉ khóc trong lòng; bề ngoài chỉ cố tạo cho người ta thấy rằng họ
rất mạnh mẽ. Đôi lúc đàn ông cũng cần phải biết khóc, khóc để nhận ra chính
mình, khóc để nên người hơn.
Ánh
trăng sáng chiếu soi khắp mảnh sân. Một thứ ánh sáng dịu nhẹ, tươi mát. Nó có
thể lấp đầy tình yêu trong tâm hồn con người nhưng cũng có thể tăng nỗi buồn,
cô đơn lên gấp bội. Trong nhà, bóng đèn tròn đang cố gắng tỏa sáng, ánh sáng
vàng đục, luẩn quẩn. Nó giống như một thứ gì đó, phải chăng là sự túng quẫn
trong cuộc đời của những con người bất hạnh. Ông Hoan (bố Lan), đánh xe đi mua
một bóng đèn khác thay vào. Ngôi nhà sáng hẳn lên.
Lan
(bây giờ đã tỉnh) đứng dậy, đi ra ngồi cạnh bố. Lan thấy bố đang đọc kinh. Lan
tròn mắt ngạc nhiên. Đã lâu rồi, Lan không thấy bố đọc kinh. Ông thường lần hạt
như thế. Ông chỉ đọc kinh một mình mà không cho con biết. Chính ông cũng không
hiểu tại sao ông phải giấu. Ông bế con ngồi trên đùi của mình, Lan cố gượng lại
nhưng đôi tay của bố đã giữ chặt. Lan nằm gọn trong vòng tay bố. Lan nghe rõ
từng nhịp tim đang đập vội vã trong ngực bố. Hai bố con ngồi vậy một hồi lâu.
Sao lúc này, Lan thấy bố hiền thế ...
Lan
vuốt đôi má đã sạm đen của bố. Bố nhìn Lan mỉm cười. Nụ cười hiền hậu ấy đã
biến mất từ ngày mẹ đi xa. Lan biết bố rất buồn. Lan chỉ thấy bố cười trong cơn
say, nhưng khi ấy mắt bố lại chảy nước. Lan vẫn luôn tin rằng, Lan sẽ được gặp
lại mẹ. Chắc mẹ nhớ Lan nhiều lắm! Lan nhỏ nhẹ hỏi bố: “Bố ơi! Khi nào mẹ về?”.
Thấy bố im lặng, Lan ngập ngừng nói: “Mẹ sẽ về bố ạ! Con đã cầu nguyện với Mẹ
Maria rồi. Con cũng cầu nguyện với Chúa Giêsu của con nữa. Giáng Sinh năm nay,
chắc là mẹ sẽ về bố nhỉ?”
Ông
lặng thinh, đôi mắt ông gắn chặt lên cây Thánh Giá. Ông tự hỏi: “Chúa có làm
được điều đó không? Hay Ngài vẫn luôn im lặng”. Ông thấy Chúa đã bỏ ông lâu lắm
rồi. Ông không nhìn thấy Ngài. Ngài cũng chỉ im lặng mà không nói. Ông sợ sự im
lặng ấy. Ông thấy con mình thật đáng thương. Nó còn nhỏ đã phải xa mẹ, sớm chịu
nhiều vất vả. Lòng ông lại thổn thức.
Lan
nhắc lại lần nữa. Lan sợ bố chưa nghe thấy. Bố nhẹ nhàng vuốt tóc Lan. Mái tóc
mà ngày trước bố vẫn thường hôn lên mỗi khi Lan ngoan. Ông đánh cược với Chúa.
Điều ông đánh cược chỉ mình ông và Chúa biết. Lan siết chặt đôi tay bé nhỏ của
mình, ôm lấy bố.
Từ
ngày đó, người ta thấy ông đi nhà thờ, đi lễ. Chỉ thi thoảng rồi thường xuyên
hơn. Lan hạnh phúc khi bố dẫn đi lễ, đi nhà thờ. Đôi bàn tay nhỏ xíu của Lan
nằm gọn trong tay bố, ấm áp. Nhưng Lan khao khát có mẹ ở bên. Lan vẫn cầu
nguyện thật nhiều.
Năm
tháng trôi qua, ước mơ của Lan vẫn còn nguyên vẹn. Còn ông, ông vẫn chờ đợi,
chờ đợi mỏi mòn. Nỗi trống vắng trong ông vẫn còn nhưng bù lại ông nhận thấy
đứa con yêu của mình ngày càng lớn lên. Nó ngoan ngoãn, học giỏi. Ông nhận thấy
hạnh phúc bé nhỏ mà ông có được. Ông muốn dồn tâm huyết, tình yêu cho con. Điều
Chúa thử thách ông, hình như phải chờ thời gian giải đáp. Người ta vẫn thấy ông
bình an và như một “con chiên” ngoan ngoãn. Ông đang học bài học cậy trông, phó
thác nơi Chúa. Bài học ấy ông vẫn học ngày ngày và học mãi.
Mã số: 15-043
Hôm
nay, ban thi công sẽ hoàn tất những công đoạn cuối và bàn giao cho chủ ngôi nhà
mới. Bà Dung, chủ căn nhà gọi hai đứa con dọn dẹp đồ đạc để hôm sau chuyển cho
nhanh. Giọng bà mừng rỡ như hối thúc:
– Phi,
Yến ơi! Hôm nay hai đứa dọn dẹp đồ đạc chuẩn bị mai chuyển nhà. Nhớ sắp xếp
riêng từng loại để cậu Hai chất lên ba gác cho dễ.
Nghe
tiếng bà Dung gọi, hai đứa con uể oải ngồi dậy dọn dẹp chăn màn. Gần 9h sáng
rồi, nhưng ở cái xứ lạnh vào mùa đông thì giờ ấy vẫn còn là giờ quấn chăn ngủ
sướng nhất. Bình thường nếu không làm gì, hai đứa muốn dậy lúc nào thùy thích.
Có kêu như tù và thổi bên tai tụi nó cũng chẳng phiền, nhưng hôm nay dậy dọn đồ
qua nhà mới làm tụi nhỏ háo hức. Ăn sáng xong, Phi bắt đầu dọn đồ đạc linh tinh
sắp ra góc, hầu hết là quần áo, chăn mền. Nó vốn kỹ tính, xếp mọi thứ cách ngăn
nắp và đứng chống nạnh nhìn lại một vòng. Nó nhìn vào góc nhỏ và lôi cái va ly
còn mới nhưng có lớp bụi phủ trên bề mặt đang nằm dưới gầm giường. Từ khi về
nước sau chuyến xuất khẩu lao động ở UAE tới giờ, Phi nhét những thứ vụn vặt,
thừa thải vào chiếc va ly này và đẩy xuống xó giường. Hôm nay chuyển nhà, nó vô
tình thấy và lôi ra xem. Phi hất qua hất lại coi cái gì không còn sử dụng nữa
thì vứt bớt. Trong mớ ngổn ngang ấy, Phi thấy tấm hình lòng Chúa thương xót
nhét dưới đáy chiếc va ly. Phi nhặt lên, chùi lớp bụi đóng trên bề mặt, ngắm nghía
đặt sang một bên.
Cách
đây ba năm trước, khi ký hợp đồng và nhận vé máy bay sang UAE làm việc, mẹ Phi
đã đưa tấm hình này và dặn dò cẩn thận:
– Con
qua bên đó làm nhớ giữ đạo nhen con. Qua đó hỏi thăm người ta tìm nhà thờ đi
lễ, mà không biết bên đó có nhà thờ không nữa? Dù sao, con phải nhớ mình có
đạo, không đi lễ được thì phải đọc kinh bù lại. Con nhớ dán tấm ảnh này lên đầu
giường cầu nguyện trước khi đi ngủ nghe chưa.
Phi
cầm tấm ảnh kẹp giữa cuốn Tân Ước cho khỏi nhàu, đặt bên cạnh chiếc va ly. Thực
ra, khi quyết định sang UAE làm việc, Phi suy nghĩ và lo lắng lắm bởi từ nhỏ
tới lớn chưa bao giờ bước chân ra khỏi vùng đất Lâm Đồng. Năm Phi học lớp 8, ba
Phi bán hết mấy sào café lấy tiền nói vô Sài Gòn lập nghiệp. Ông đi từ khi ấy
tới giờ không về nữa. Nghe người ta nói ông làm ăn thua lỗ, cảm thấy mắc lỗi
với vợ con nên không về. Ở nhà, không còn đất trồng café, bà Dung đi làm thuê
làm mướn đủ thứ nuôi con. Ở cái tuổi 13, bất mãn trước cảnh gia đình ly tán ấy,
Phi không đi học nữa. Bỏ học ở nhà, tới ngày mùa làm café, hái trà rồi phụ hồ,
nói chung đủ nghề. Hồi ấy, những đêm trời mưa to, nhìn cảnh nhà dột, một mình
mẹ lui cui lấy cây chống chỗ này, lấy thau hứng nước chỗ nọ, Phi xót xa lắm.
Phi muốn kiếm tiền xây cho mẹ ngôi nhà khang trang, nhưng ở nơi này và thiếu
học vấn thì biết khi nào mới có được. Bước sang tuổi trưởng thành, Phi bạo gan
đăng ký đi xuất khẩu lao động. Riêng mẹ Phi, dù nghèo, bà Dung luôn dạy hai con
nên người đàng hoàng, ít nhất về mặt tâm linh tôn giáo. Có thể nói tài sản quý
giá nhất bà để lại cho Phi và Yến là lòng đạo đức. Ngày Phi ra sân bay lủi thủi
một mình. Mẹ và em Yến định lên Sài Gòn tiễn nhưng Phi hất tay ngăn lại:
– Đi
làm gì, mình con đi được rồi, tiễn đưa mất công, lại tốn tiền.
Thế
rồi Phi xách va ly ra trạm xe Thành Bưởi lên Sài Gòn. Dù nói mạnh miệng vậy
nhưng Phi thấy lòng tê tái. Cứ nghĩ tới cảnh đi hai năm không về, không biết
bên đó thế nào, Phi lại sợ. Đi được khoảng trăm mét thì con bé Yến chạy theo í
ới:
– Anh
Phi, anh quên cái này.
Phi
đứng lại, con bé Yến đưa cho Phi cuốn Tân Ước có kẹp cái hình lòng Chúa thương
xót bên trong. Có lẽ lúc chuẩn bị đồ đạc, Phi hấp tấp làm sót lại. Vội nhét
cuốn Tân Ước và tấm hình vô ngăn trước chiếc va ly rồi Phi kéo đi, nói vọng lại
với con Yến:
– Thôi
em về đi, ở nhà nhớ chăm chỉ học hành và nghe lời mẹ đó.
Sau
hơn mười giờ bay, Phi có mặt trên đất UAE. Chiếc mecxedec 12 chỗ của công ty
chở Phi về khách sạn. Phi nhờ lễ tân khách sạn mua dùm sim điện thoại gọi về
nhà, thông báo đã tới nơi an toàn. Bà Dung, mẹ Phi nói trong điện thoại:
– Tạ
ơn Chúa! Thôi con nghỉ ngơi và ráng làm việc cho tốt con nhé. Nhớ tìm nhà thờ
đi lễ Chúa nhật nhen con!
Khi
còn ở nhà, Phi lên mạng tìm hiểu thấy vài nhà thờ ở nước này. Giờ trong khách
sạn, Phi lục cuốn hướng dẫn và lấy viết ghi lại các số điện thoại của các nhà
thờ mà cuốn sách in phía sau để hướng dẫn cho khách du lịch. Phi lẩm nhẩm trong
miệng:
– Hóa
ra nước này có nhiều nhà thờ nè, nhà thờ thánh An tôn, nhà thờ Maria, nhà thờ
Thánh Giuse…mà mình tiếng Anh không giỏi, không biết trong số các nhà thờ này
cái nào là Công Giáo, cái nào là Tin Lành đây nữa. Thôi kệ, gọi thử một số.
Nhà
thờ Phi chọn gọi là nhà thờ Maria, vì Phi nghĩ, tên Maria chắc là Công Giáo chứ
không phải Tin Lành. Phi bấm số gọi, có tiếng đỗ chuông. Phi hồi hộp. Nhưng khi
đầu dây bên kia nói thì Phi nghe tiếng được tiếng mất vì tiếng Anh khi đó rất
kém. Thất vọng, Phi tắt điện thoại và suy nghĩ tìm cơ hội khác.
Ở đất
nước khoảng 99% người Hồi Giáo, việc tìm
nhà thờ Công Giáo không phải dễ. Sau hai tuần ở khách sạn, công ty buộc người
lao động phải tìm nhà trọ bên ngoài. Hết giờ làm việc, mọi người phải đi hỏi
thăm tìm nhà trọ. Đi cùng đợt với Phi gồm năm người, hai gái ba trai, nhưng chỉ
mình Phi là người Công Giáo. Tìm được căn nhà cho thuê, sau khi thỏa thuận giá
cả và điều kiện, chủ nhà hỏi Phi:
– Anh
theo tôn giáo nào?
Thật
thà, Phi trả lời:
– Công
Giáo.
Thế
là chủ nhà người Ả rập đổi nét mặt. Ông nhìn Phi chằm chằm:
– Không
ký hợp đồng được, tôi không cho người Công Giáo thuê nhà.
Nhìn
vẻ mặt khó chịu của ông ta, Phi sợ lắm. Không biết tại sao họ ghét người Công
Giáo đến thế. Đúng vậy, hầu hết chủ nhà ở đây đều hỏi câu hỏi đối với khách
thuê nhà là “bạn theo tôn giáo nào?”. Mọi tôn giáo khác họ đều đồng ý, chỉ trừ
Kito giáo. Nghĩ xót xa nhưng đành chịu, Phi nhờ bạn bè thuê nhà, rồi đến ở ké.
Dù vậy, tấm hình lòng Chúa thương xót được Phi dán rất cẩn thận và ngay ngắn
trên bức tường, phía đầu giường.
Kế
tiếp theo lời mẹ dặn, Phi tìm nhà thờ. Những ngày nghỉ, Phi đón xe bus khắp các
tuyến đường trong thành phố đi dạo, vừa để mở rộng tầm mắt, vừa để tìm nhà thờ.
Ngồi trên xe bus nhìn hai bên đường, hết đường này tới đường kia Phi vẫn không
thấy cây thánh giá hay tháp chuông nhà thờ nào. Ngược lại, cách khoảng hơn 100m
là một nhà thờ Hồi Giáo to đùng. Phi lẩm nhẩm:
– Lạ
nhỉ, sao không thấy nhà thờ nào ta. Lên mạng thấy có mà, đọc trong cuốn sách du
lịch cũng nói có mà, sao đi bữa giờ không thấy.
Đang
suy nghĩ vẫn vơ thì một người râu ria lồm xồm nhìn Phi, có lẽ ông ta người
Banglades hay Pakistan gì đấy, thấy vẻ mặt Phi ngây ngô, ông tới ngồi sát hỏi:
– Anh
là người Trung Quốc à?
Phi
lắc đầu nói:
– Không,
tôi người Việt Nam.
Ông
già trố mắt nhìn:
– Việt
Nam ở đâu?
Phi
không biết giải thích sao. Thực ra, Phi chẳng rành địa lý. Phi vội trả lời cho
qua chuyện:
– Việt
Nam ở sát Trung Quốc.
Xong
ông ấy hỏi tiếp:
– Ở
Việt Nam có người Hồi Giáo không?
Phi
nhăn trán suy nghĩ. Có bao giờ Phi thấy người Hồi Giáo nào ở Việt Nam đâu. Phi
đành trả lời thật như mình nghĩ:
– Không
có, hồi giờ tôi chưa thấy người Hồi Giáo nào ở Việt Nam.
Không
ngờ câu trả lời đó gây bức xúc cho ông già kia. Ông nạt nộ chửi Phi. Có điều,
khi ổng tức, ổng chửi bằng tiếng địa phương, dù Phi không hiểu. Phi đành im
lặng và xuống hàng ghế phía sau ngồi. Từ đó, Phi không dám nói về tôn giáo giữa
nơi công cộng nữa. Ở Việt Nam, nhiều khi làm dấu thánh giá nơi công cộng còn
thấy ngại huống hồ chi ở đây, mất mạng như chơi.
Sau
sự kiện hôm ấy, Phi vẫn phải tiếp tục tìm nhà thờ nhưng bằng cách khác. Phi ra
các bãi xe, xem từng chiếc. Thấy chiếc nào treo cỗ tràng hạt ở đầu xe là Phi
ngồi chờ để hỏi. Có lần ngồi chờ tới trưa, dưới cái nắng mùa hè ở UAE lên tới
hơn 45 độ C, mà không thấy chủ xe đâu cả, Phi đành bỏ cuộc.
Từ
lúc sang UAE tới giờ, Phi chưa đi lễ, trong lòng luôn áy náy. Dù vậy, Phi tự
nhủ sự việc ngoài ý muốn chắc Chúa không trách. Bỗng một hôm, Phi cùng các bạn
Việt Nam đi tắm biển. Nhìn dưới bãi tắm giữa bao nhiêu người đủ màu da. Cặp vợ
chồng da đen bồng đứa bé làm Phi chú ý nhất. Trên cổ đứa bé đeo sợ dây chuyền
với cây thập giá và ảnh Đức Mẹ. Mắt Phi sáng rực, lấy hai tay quạt nước bơi tới
gần cặp vợ chồng ấy. Sau vài câu chào xã giao, Phi mạnh dạn hỏi về tôn giáo họ:
– Anh
chị phải là người Công Giáo không? Tôi muốn tìm nhà thờ Công Giáo mà không biết
chỗ nào? Tôi thấy con anh chị đeo hình Đức Mẹ nên hỏi. Nếu anh chị biết, làm ơn
chỉ đường cho tôi với.
Vợ
chồng da đen ấy người Ethiopi. Người chồng trao đứa bé cho vợ ẳm để tiện nói
chuyện với Phi. Họ theo đạo Đông Phương chứ không phải Công Giáo. Anh ta còn
giải thích đạo Đông Phương cũng tôn kính Đức Mẹ, rồi anh ta chỉ đường cho Phi:
– Anh
có thể đón taxi, từ đây tới đó khoảng 15 đồng thôi. Hầu hết tài xế taxi ở thành
phố này đều biết nhà thờ thánh Giuse. Tất cả nhà thờ các tôn giáo khác đều nằm
chỗ này.
Hôm
sau Phi đón taxi đi tới nhà thờ thánh Giuse và dâng lễ đầu tiên sau hai tháng
tới UAE, đúng vào dịp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 tháng 8. Tạ ơn Chúa và
Đức Mẹ! Lễ xong, Phi ra đứng trước cổng nhà thờ nhìn vô. Thánh đường chẳng khác
gì ngôi nhà bình thường, không tháp chuông, không thánh giá, chỉ có vỏn vẹn
hàng chữ “Nhà thờ chánh tòa thánh Giuse” trên bờ tường, sát cổng chính. Phi
chép miệng:
– Đúng
là nước Hồi Giáo. Phía bên ngoài không có dấu hiệu gì của nhà thờ làm sao mình
nhận ra chứ.
Phi
ra về nhìn hai bên đường tìm tuyến xe bus, chứ đi taxi hoài sẽ tốn kém. Thế là
từ đó, mỗi tuần Phi đi lễ một lần trên tuyến xe bus 44 hoặc 52. Ở đất nước Hồi
Giáo này, người ta nghỉ thứ sáu và thứ bảy, vì vậy, nhà thờ Công Giáo dâng lễ
Chúa nhật trong cả ba ngày thứ sáu, chiều thứ bảy và Chúa nhật nữa, nên rất
tiện cho mọi người. Sau này khi ở lâu, Phi mới biết cả nước UAE chỉ có hai nhà
thờ Công Giáo. Một là nhà thờ Đức Mẹ Maria ở Dubai, hai là nhà thờ thánh Giuse
ở thủ đô Abu Dhabi nơi Phi đang sống. Còn các nhà thờ Phi thấy trong danh sách
cuốn hướng dẫn du lịch ở khách sạn là các nhà thờ Tin Lành, Đông Phương … gì
đó.
Ở UAE
khi đó khoảng vài ngàn người Việt Nam. Trên Dubai theo Phi biết chỉ có năm
người Công Giáo, còn dưới thủ đô Abu Dhabi này chỉ mình Phi. Mỗi tuần đi lễ
ngày Chúa nhật là cố gắng lắm, đi về mất khoảng ba tiếng, kể cả thời gian chờ xe
bus. Những dịp Giáng Sinh, Phục Sinh, Phi thường gọi điện lên Dubai nhắc các
bạn Công Giáo Việt Nam đi xưng tội trước đại lễ và không quên nhắn tin chúc
mừng trong lễ. Nhớ dịp lễ Chúa Giáng Sinh đầu tiên bên ấy, Phi tan ca lúc 9h
tối, đón xe bus tới nhà thờ và dâng lễ đêm lúc 12h, về tới nhà lúc 3h sáng.
Nghĩ về gia đình và giáo xứ ở Bảo Lộc, Phi mơ tưởng nhiều điều. Lúc này ở nhà
chắc vui lắm, mình được đi lễ với bạn bè, hát ca đoàn, có khi lại được đóng vai
trong hoạt cảnh giáng sinh nữa chứ. Càng nghĩ Phi càng tủi thân. Cái cảm giác
đơn độc lẽ loi trên đường đi làm Phi suy niệm nhiều hơn tới Chúa Hài Nhi trong
máng cỏ lạnh lùng năm xưa. Phi thọc tay vô túi quần thui thủi cười một mình,
cảm thấy hài lòng khi nghĩ về Chúa Hài Nhi, nghĩ về cách thể hiện tình yêu tôn
giáo của những người tha hương. Ở quê mình, phụ nữ thường đi lễ đông hơn, đọc
kinh lâu hơn, tham gia hội đoàn tích cực hơn. Nhưng ở cái xứ này, Phi thấy đàn
ông lại thể hiện tình yêu tôn giáo đặc thù hơn. Có ông quỳ từ cửa nhà thờ đi
bằng hai đầu gối lên tới cung thánh. Có người quỳ từ cổng vô tới hang đá, đài
Đức Mẹ…Phi đứng ngay góc hiên văn phòng nhà xứ, nhìn ngẫm nghĩ:
– Những
người này đạo đức thật đấy, chắc họ không khoa trương đâu vì chỗ này ai biết ai
mà khoa trương! Không ngờ, trên đời này nhiều người đạo đức thật.
Mỗi
ngày Chúa nhật, nhà thờ chánh tòa thánh Giuse có khoảng hơn 20 thánh lễ với
nhiều thứ tiếng. Phi thường chọn lễ tiếng Anh tham dự, dù sao nhìn chữ đọc được
vài từ. Đi lễ có thể đọc tiếng Anh, chứ đi xưng tội thì Phi xin cha giải tội
cho xưng bằng tiếng Việt, chứ Phi có biết tên tội tiếng Anh đâu mà xưng. Hơn
nữa, Phi nghĩ sự thứ tha và lòng thương xót vượt lên trên mọi ngôn ngữ. Có lần,
cha giải tội nghe Phi xưng tội bằng tiếng Việt cũng gật gật. Phi nghĩ trong
bụng:
– Cha
mà hiểu được con chết liền ấy!
Nhưng
Phi không ngờ vị linh mục ấy có lần đã tới Việt Nam. Khi Phi xưng tội xong, cha
nói mấy năm trước cha làm việc ở Hà Nội, nghe giọng cha đoán được. Trời, hóa ra
vậy! Những dịp trước đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, người ta đi xưng tội đông
lắm, hầu hết người Philipin và Ấn Độ. Người bản xứ theo đạo ít lắm. Họ thường
đi lễ vào ngày thứ sáu hàng tuần. Nhìn họ, Phi thán phục:
– Những
người này dám theo đạo ắt họ đã là thánh rồi! Giữa một đất nước với nhiều thử
thách và ngăn cách vậy mà dám theo đạo quả không đơn giản chút nào.
Thời
gian cứ nhẹ nhàng trôi đi. Hợp đồng làm việc hai năm cũng hết. Phi về Việt Nam
trước lễ Phục Sinh. Ngày Phi về, mẹ và bé Yến xuống tận sân bay Tân Sơn Nhất
đón. Thấy Phi khỏe mạnh và bình an, mọi người vui lắm. Ba mẹ con lật đật đón
taxi xuống bến xe về Bảo Lộc luôn cho kịp lễ. Vừa đặt chiếc va ly xuống nhà, bà
Dung nhắc ngay:
– Con
lo đi xưng tội mừng lễ Chúa Phục Sinh nhá.
Phi
vui vẻ đáp lại:
– Dạ,
con nghỉ tí rồi chiều ra nhà thờ xin cha xưng tội, chứ mấy năm nay con xưng tội
các cha không hiểu, giờ con xưng tội chung lại một lần luôn.
Thế
là mọi chuyện dần đi vào quỹ đạo. Phi về Việt Nam, số tiền dành dụm được đủ mở
tiệm tạp hóa nho nhỏ cho mẹ bán và số còn lại đủ làm căn nhà mới. Đem về được
ít tiền, Phi tưởng mình ngon, nhiều khi vênh vênh váo váo với đời. Bạn bè thấy
Phi ở nước ngoài về tưởng dư nhiều tiền lắm, rủ ăn nhậu, chơi hết chỗ này chỗ
kia. Từ ngày về, Phi siêng năng đạo đức chỉ được mấy ngày đầu, sau này chỉ đi
lễ ngày Chúa nhật, mà thường là đợi mẹ nhắc. Căn nhà cũ của Phi nằm trong hẽm
nhỏ sát hông nhà thờ. Sáng sáng mỗi lần nghe tiếng chuông, thay vì đi nhà thờ
như trước kia, Phi lấy chăn quấn ngang đầu ngủ tiếp. Những cảm nghiệm nơi vùng
đất Hồi Giáo xa xôi đã theo những cuộc vui biến đâu mất. Hay có lẽ khi bên UAE,
thấy nguy hiểm quá nên tin tưởng và đạo đức hơn, còn ở giáo xứ quê nhà, thấy
Chúa bình dị quá nên đâm ra xa lạ.
– Tít
tít tit…
Chiếc
điện thoại báo tin nhắn trên facebook làm Phi sực nhớ mình đang dọn đồ. Phi cầm
chiếc điện thoại trợt lên hiện nhiều tin mới. Trong số đó, tin nhà nước Hồi
Giáo IS lan rộng và giết bao nhiêu người, đặc biệt người Công Giáo ở vùng Trung
Đông. Mặt Phi buồn buồn. Phi tắt điện thoại, cầm tấm hình lòng Chúa thương xót
lên ngắm nghía, lau bụi và lắp vào khung ảnh!
Mã số: 15-044
Cứ
mỗi năm vào ngày mùng 4 tết âm lịch, chúng tôi lại họp lớp phổ thông trung học.
Sự thống nhất đó không biết có từ lúc nào. Không ai nhắc ai, tự nhiên tới ngày
ấy là mọi người í ới gọi nhau. Những năm mới ra trường, tinh thần còn phấn
chấn, ai cũng háo hức đi đông đủ, hoặc ít ra gần đủ. Nhưng từ năm thứ năm trở
đi, nhiệt huyết lúc đầu không còn nữa. Với lại, mỗi người mỗi việc mỗi cảnh,
chuyện họp lớp cứ thưa dần, thưa dần. Mấy năm gần đây chỉ độ hơn chục người,
chủ yếu tới ăn uống nói dóc rồi về làm nhiều người không thích liền từ chối
khéo. Năm nay nhân dịp kỷ niệm 15 năm ra trường, mọi người muốn quy tụ đông đủ
để ôn lại chuyện xưa.
Vợ
chồng Hương và Đạt vốn học chung lớp nên không năm nào vắng mặt. Với lại Hương
là lớp phó học tập và Đạt là lớp trưởng thì không lý do gì họ vắng mặt cả. Dạo
này, mỗi lần họp lớp hay ra ngoài chung cả gia đình, họ phải đi hai xe gắn máy
vì hai đứa con đã lớn lắm, không thể đèo chung một xe được nữa. Dắt hai chiếc
xe máy ra cổng chờ Hương khép cửa lại, Đạt chép miệng:
– Thời
gian mới đó mau ghê em nhỉ, bao nhiêu chuyện đổi thay. Năm nay nghe nói đông đủ
lắm em à, tụi con Trân, con Hằng bên Mỹ cũng về đó em, chắc năm nay đông vui và
ý nghĩa.
Sau
khi khép cánh cửa, sọt đôi giày vào, Hương ngoái cổ lại nói với ông bà ngoại
dưới nhà bếp:
– Tụi
con đi đây ba má, có thể chiều tối nhà con mới về. Ba má đừng chờ cơm tụi con
nhen.
Đúng
như suy đoán của họ, năm nay mọi người đi rất đông. Nhiều người 15 năm nay mất
tích, giờ xuất hiện. Hầu hết mọi người mang theo cả chồng, vợ, con cái nên số
lượng tăng lên. Lớp 12A3 năm xưa chỉ 39 người, giờ trên dưới cả trăm. Dù Đạt và
Hương là cán bộ lớp nhưng chuyện họp lớp được mọi người đồng ý giao cho Thy làm
trưởng ban tổ chức, vì nhà Thy rộng rãi, thoải mái, với lại chỉ mình Thy sau
khi ra trường đã bám lại quê nhà lập nghiệp. Thấy vợ chồng Đạt Hương tới, Thy
và mọi người vồn vã:
– Chào
cặp đôi hoàn hảo! Lớp mình chỉ có đôi này hạnh phúc nhất thôi!
Bước
vào nhà, Hương bảo hai con Huy và Huệ:
– Chào
các cô, các chú đi con.
Hai
đứa nhỏ khoanh tay lễ phép chào từng người. Chỉ vài người tụi nó không biết,
còn hầu hết Huy và Huệ quen mặt vì năm nào ba mẹ cũng dắt theo nên không lạ lẫm
nữa. Huy dắt em gặp từng người chào:
– Con
chào cô Trang, chào chú Toàn,….
Còn
hơn nửa tiếng nữa mới tới giờ hẹn như trong thiệp mời nhưng mọi người đến gần
như đông đủ, tụm năm tụm bảy nói chuyện xôm tụ, bắt đầu moi móc tật xấu từng
đứa ra kể, rồi cười hả hê. Cái lớp 12A3 này tất cả đều thân thiện và chơi với
nhau từ thủa nhỏ. 39 con người ấy chỉ ở vọn vẹn trong xã Cam Đức này thôi. Cái
xã khoảng 80% người Công giáo và hơn 30 đứa trong lớp là con chiên thuộc hai
giáo xứ Hòa Nghĩa và Hòa Yên rồi. Thời thập nhiên 90, đâu có nhiều trò giải trí
như bây giờ. Người lớn ai ai cũng khích lệ con cái mình tham gia vô các hội
đoàn giáo xứ hầu có nơi sinh hoạt lành mạnh. Tụi nhỏ khi đó thích lắm, theo
phong trào. Ai không tham gia hội đoàn là tự cô lập mình vì không biết chơi với
ai. Do đó, lớp 12A3 khi ấy, phần lớn con trai vô ban giúp lễ, con gái vô dự tu,
số còn lại vô ca đoàn, con Đức Mẹ, huynh trưởng… Có nhiều đứa ham vui tham dự
đủ hết mọi hội đoàn.
Hồi
ấy, Hương tham gia ca đoàn giáo xứ. Cộng thêm khuôn mặt khả ái nên dịp lễ Giáng
Sinh cô được chọn đóng vai Đức Mẹ trong các buổi hoạt cảnh. Năm nào cũng đóng
vai ấy dần dần trở thành thói quen bất thành văn, hễ nói tới vai Đức Mẹ là lập
tức mọi người nhắc tới Hương. Ngược lại, Đạt trong số ít ỏi không có đạo. Tuy
nhiên, những dịp lễ lớn của người Công giáo, Đạt thường ham vui mon men theo
bạn bè tham dự. Với lại Đạt thích Hương nên không ngần ngại đi coi bạn mình
diễn. Thế rồi, tuổi trẻ cũng qua, phong trào cũng có giai đoạn. Tốt nghiệp phổ
thông trung học xong, mỗi người một hướng. Hương và Đạt đậu đại học và vô Sài
Gòn tiếp tục cho con đường tương lai, rồi họ yêu nhau lúc nào không biết.
Lần
họp lớp đầu tiên, cách đây đúng 15 năm rồi chứ ít ỏi gì. Vậy mà mọi người cứ
tưởng mới xảy ra hôm qua. Lần ấy mọi người rất hăm hở vì mới ra trường, ai cũng
muốn gặp lại nhau để ngồi tám chuyện xứ người. Hôm ấy, Đạt lên nhà đón Hương đi
họp lớp từ sáng sớm. Ai cũng ngạc nhiên vì sắc mặt tái nhợt và uể oải của
Hương. Bạn bè có đứa đoán mò, thân thiết quá nhiều khi nói rất thật, không giữ
kẽ nữa:
– Mày
làm gì mấy tháng nhìn ghê thế, học quá hay yêu quá sao thê thảm vậy. Thằng Đạt
hành lắm hay sao mà giống như một con ma. Gớm quá!
Hôm
ấy chỉ ngồi chơi tới trưa tự nhiên Hương ngất xỉu, bạn bè lấy dầu xoa bóp một
hồi mới tỉnh dậy. Pha cho Hương ly sữa uống xong, Đạt chở Hương về nhà. Hương
vô phòng nằm mê man tới chiều tối thì bà Lan, má cô vô gọi ra ăn cơm:
– Làm
gì nằm cả ngày vậy con. Đi học mấy tháng mà xanh xao quá, tranh thủ về tết vài
hôm ăn uống nghỉ ngơi cho lại sức đi.
Hương
chậm rãi ra sau bếp rửa mặt rồi vô dọn bàn chuẩn bị cơm tối. Giữa bữa, Hương
đặt chén cơm xuống bàn, thút thít nói với ông bà Thương:
– Ba
má, con có…thai rồi.
Nghe
xong, ông Thương run tay đánh rơi chén cơm xuống sàn nhà nghe cái chảng. Ông há
hốc miệng ngồi im một hồi, xong đứng dậy bỏ đũa xuống bàn ra ngoài hiên hút
thuốc. Bà Lan ngồi thờ thẫn hỏi lại con, ấp úng:
– Con,
con nói sao? Con có con…
Hương
gật đầu nhè nhẹ như xác nhận lại thông tin đó chính xác. Hương không dám nhìn
thẳng mặt má. Nàng cúi đầu, nước mắt giàn dụa. Bà Lan kéo sát ghế lại ôm con,
rồi khóc theo. Lúc này ông Thương hút xong điếu thuốc, đi vào nói cách mỉa mai,
kèm theo vẻ tức tối:
– Mới
đầu năm đầu tháng đã nghe tin này rồi, công nhận mày thương ba má thật đấy.
Nói
rồi ông dắt xe nổ máy chạy ra ngoài. Không biết ông đi đâu, chắc tìm người uống
rượu. Ông đi rồi, bà Lan dìu con lên phòng, gặng hỏi:
– Nhưng
ba đứa bé là ai, phải thằng Đạt không?
Hương
lại gật đầu lần nữa và lí nhí trong miệng:
– Giờ
con phải làm sao đây má?
Bà
Lan điếng lòng, không biết giải quyết sao nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh để con
khỏi nghĩ quẫn, bà an ủi:
– Để
má tính rồi nói với ba con. Mà thằng Đạt và nhà nó biết chưa?
Hương
vẫn còn thút thít, lấy tay áo quẹt ngang lau mấy giọt nước mắt:
– Dạ
biết rồi, nhưng, nhưng… ba má ảnh nói không cho ảnh theo đạo của mình. Nếu ba
má đồng ý cho đạo ai nấy giữ thì ông bà mới qua hỏi cưới!
Ba má
Đạt là thầy cô giáo dạy ở trường cấp hai trong xã. Gia đình Đạt chỉ thờ kính
ông bà tổ tiên chứ không theo tôn giáo cụ thể nào. Có điều, ông bà ác cảm với
người Công giáo lắm. Nghe nói, gia đình ông bà di cư từ Huế vào khoảng năm 70.
Thời ấy gia đình nghèo lắm. Người Công giáo trong vùng biết ông bà là người
lương nên hay lui tới nói chuyện và giúp đỡ. Nhưng cái thời buổi ấy, nếu nhận
sự giúp đỡ của nhà thờ thì phải theo đạo. Lúc đó, nhiều hàng xóm ông bà nhận
gạo, rồi theo đạo. Ông bà thuộc tầng lớp người trí thức, sau khi suy nghĩ và
cân nhắc đã quyết định không nhận gạo và cũng không theo đạo. Từ đó, ông bà
ghét đạo luôn. Hễ nhắc tới là ông bà gán cho một từ cứng ngắc: đạo dụ! Có thể
ông bà chấp nhận Hương về làm dâu, nhưng đừng bắt con ông bà phải theo đạo.
Trước
đó mấy năm, khi Hương còn học cấp hai thì cô Khuê, mẹ Đạt, chủ nhiệm lớp Hương.
Bà rất có cảm tình với cô bé dễ thương, lanh lợi và lễ phép này. Bà còn nhớ,
đợt ấy sau lễ Chúa Giáng Sinh, bà cho lớp làm bài kiểm tra một tiết mà không
báo trước. Các học sinh trong lớp đều là người Công giáo. Bà không ác ý cho
bằng muốn thử sự trung thực của các em. Sau khi ra đề, bà đi ra ngoài và dặn
lớp trưởng hết giờ thu bài. Bà đi rồi cả lớp bắt đầu xôn xao và từng đứa một dỡ
tài liệu sao chép. Kết quả đứa nào cũng làm bài được, chỉ có cô lớp trưởng
Hương bỏ giấy trắng. Sau đợt ấy, bà càng ấn tượng cô bé này hơn. Thực ra bà
thích cô con dâu như thế, chỉ tiếc là nó có đạo!
Về
phần bà Lan, má Hương, bà biết gia đình thầy cô Khuê rất tốt, chỉ có tội không
có đạo. Thằng Đạt vừa tốt tính lại chăm chỉ. Nghĩ tới nghĩ lui, bà muốn xiêu
lòng, có điều ông Thương chồng bà, ông ấy nguyên tắc nhiều khi cổ hủ lắm, cộng
thêm cái tính sĩ diện nữa. Bà thở ra có vẻ hụt hẫng:
– Vậy
làm sao ba mày chịu được. Ổng là thành viên trong hội đồng giáo xứ, lại đạo nòi
đạo gốc nữa, cớ gì lại chịu gã con gái cho người bên lương chứ, lại mang bầu
trước nữa. Con dại quá…
Vừa
dứt lời, nghe tiếng xe nổ ngoài sân, bà Lan nói vội với con:
– Chắc
ba mày về đó. Thôi nằm ngủ đi, để má nói với ba thử.
Ông
Thương dắt xe vào nhà, rồi ra ngồi trên bậc tam cấp trước hiên. Bà Lan tới bên
cạnh và nói:
Giờ
ông tính sao, con Hương với thằng Đạt cũng lỡ rồi. Nghe nó nói nếu đạo ai nấy
giữ thì họ sẽ đồng ý cưới đó.
Ông
Thương đoán thoang thoáng tác giả bào thai là thằng Đạt, giờ nghe vợ khẳng định
liền quay phắt lại, cáu gắt:
– Cưới
hỏi gì, cưới gì với đám dân ngoại ấy.
Bà
Lan nhẹ nhàng rỉ tai:
– Thôi
ông à, con mình là con gái, lỗ lãi gì thì nó chịu hết. Nếu làm căng quá, con
mình khổ thôi. Với lại đâu phải chỉ tụi nhỏ có lỗi đâu, tui với ông có phần
trong đó nữa, ông không nghe câu “con hư tại mẹ” à. Có đứa con nào gây lỗi mà
không có phần ít nhiều của cha mẹ trong đó đâu ông! Với lại nhà bên ấy chỉ thờ kính
ông bà tổ tiên, chứ có mê tín cúng kiến gì đâu mà ông lo. Mình căng quá tụi nhỏ
nghĩ quẫn làm bậy thì hối không kịp ông à!
Nghe
tới đó, ông Thương chợt nhớ tới trường hợp mấy năm trước ở xã Cam Thành kế bên,
cũng vì yêu nhau bị cha mẹ cấm đoán nên tụi nhỏ uống thuốc tự tử. Ông giật
mình, rồi xuống nước:
– Bà
nói đúng, mai tôi lên nhà xứ trình cha sở và xin lỗi cộng đoàn, đồng thời bàn
hỏi ý kiến cha xứ xem giải quyết sao cho ổn thỏa. Dù sao, tôi với bà cũng có
lỗi trong đó. Thôi bà vô ngủ trước đi, khuya rồi, tôi hút xong điếu thuốc rồi
vô sau.
Hương
nãy giờ nép sát cánh cửa nghe lõm cuộc nói chuyện của ba má. Cô thầm cảm ơn
Chúa và đấm ngực thấy mình có lỗi quá. Thật ra, nếu không có ơn Chúa soi sáng
thì cô đã làm chuyện thất đức rồi. Khi mới phát hiện mình mang thai vài tuần
đầu, cô toan phá mấy lần. Nhớ lần đầu tiên tới bệnh viện, Hương thẹn thùng
không dám nhìn ai, hất tóc xõa xuống phủ khuôn mặt để người ta không thấy rõ,
dù cô biết đất Sài Gòn này gặp người quen không dễ. Bất ngờ, giọng một người phụ
nữ làm cô giật thót người:
– Chào
cô Maria, cô đi đâu đây? Lâu nay cô khỏe không? Lễ Giáng Sinh vừa rồi không
thấy cô đóng vai Đức Mẹ nữa, hóa ra cô vô Sài Gòn học đại học.
Hương
nhìn lên gượng cười nhưng hơi nhạt, nói dối:
– Dạ,
con đưa bà chị họ đi khám thai định kỳ. Bác cũng đưa ai đi khám à? Mà bác ở
giáo họ nào biết con hay vậy?
Bà
đồng hương hớn hở:
– Bác
ở giáo họ Phêrô. Con không biết bác đúng rồi, vì bác ở sát ranh giới xã Cam Hải
lận. Bác biết con, năm nào con cũng đóng vai Đức Mẹ mà, ai trong xứ chả biết
con chứ. Gặp con ở đây vui quá, thôi con ngồi chờ người thân con nhen. Bác đi
mua cơm đã, con gái bác mới sanh, con trai con à.
Nói
rồi, bà ấy đi một mạch ra cổng. Hương cố mường tượng vẫn không biết bà là ai.
Khi bà đi rồi, cái tên Maria cứ lặp đi lặp lại trong đầu cô, Hương suy nghĩ một
lúc rồi đứng lên đi về. Tuần sau, Hương quay lại bệnh viện này lần nữa với
quyết tâm phá thai cho được. Nghĩ về tương lai phía trước, chuyện học hành, gia
đình, tai tiếng… đủ thứ làm cô rối trí. Càng nghĩ, Hương càng quyết phải từ bỏ
bào thai này. Đến bệnh viện và vào lấy số thứ tự xong, cô ra ngồi ghế chờ như
lần trước. Mệt quá, Hương thiếp đi lúc nào không hay. Trong giấc ngủ chập chờn
ấy, Hương mơ thấy những hình ảnh lúc còn nhỏ, thấy mình hát đáp ca, diễn hoạt
cảnh và phát biểu giữa lớp giáo lý. Các bài giáo lý hôn nhân quan trọng mà cha
phó dạy kèm theo chương trình giáo lý vào đời 3 làm Hương giật mình chợt tỉnh.
Phá thai là tội trọng và bị vạ tuyệt thông tiền kết! Câu đó hồi ấy cha phó cứ
nhắc đi nhắc lại, giờ hiện lên trong đầu Hương cách rành mạch. Hương toát mồ
hôi trán, lấy tay áo khoác chùi vội rồi đứng lên ra dắt xe về, trong lòng lo
sợ. Về tới phòng trọ ngồi suy nghĩ, Hương thật sự bế tắc. Từ 47kg giờ chỉ còn
41kg trong mấy tuần, Hương suy sụp hoàn toàn:
– Nếu
mình không phá thai chắc sẽ chết thôi, chứ thế này không thể sống được.
Vậy
là Hương lại quyết định đến bệnh viện phá thai lần thứ ba. Lần này, Hương quyết
tâm phải mạnh mẽ, dứt khoát. Cô không dám nói cho Đạt ý định này, vì sợ Đạt lèn
èn rồi lỡ chuyện mất. Lương tâm vẫn còn ray rứt vì tội, nhưng Hương tự nhủ đi
xưng tội sẽ xong thôi. Lần này cô quyết định đi thật sớm lấy số đầu tiên. Tờ mờ
sáng, Hương tới bàn lấy số thứ tự và ngồi chờ như những lần trước. Chiếc ghế
lạnh tanh vì tối giờ chưa có ai ngồi. Vừa đặt mông xuống và ngã lưng ra sau thì
có gì cấn cấn, Hương kéo ra coi, mảnh giấy ai đó vô tình nhét lại kẽ ghế. Trên
mảnh giáy nhăn nheo đó có bài thơ với mấy câu làm Hương suy nghĩ:
Mẹ ơi,
Con là người đâu bằng giấy khai sinh
Cũng đâu cần phải đủ ngày đủ tháng
Dù thân thể, tứ chi con thiếu hụt
Nhưng con là người thật sự, mẹ ơi!
…
Mẹ đặt tay sẽ thấy con cử động
Nhắm mắt lại, mẹ thấy rõ con hơn
Bịt đôi tai, mẹ nghe tiếng con cười
Cùng với tiếng năn nài xin được sống!
…
Dòng máu mẹ đang chảy ấm trong con
Con tim con cùng chung rung với mẹ
Xin thương con, một chồi mầm nhỏ bé
Cho con quyền được sống với, mẹ ơi!!!
Những
câu thơ ấy vô tình làm Hương chợt tỉnh. Hương đưa tay sờ lên bụng mình, suy
nghĩ:
– Sao
ba lần mình tới đây đều gặp chướng ngại. Chắc ý Chúa không muốn vậy.
Hương
đứng dậy lủi thủi ra về, bỏ mặc tiếng cửa phòng khám mở ra phía sau với tiếng
gọi: mời người số đầu tiên vào. Cô đi một mạch thẳng về phòng trọ và từ đó
không bao giờ đến nơi này nữa.
…
Mọi
chuyện cứ trôi qua nhẹ nhàng như giấc mơ. Rồi Hương và Đạt lấy nhau, đạo ai nấy
giữ. Khi mới sinh cu Huy, nhà chồng không cho đi rửa tội. Hương đành chịu vì
làm hết cách rồi. Khi đó, người thân và bạn bè chê trách, Hương chỉ im lặng cầu
nguyện, cố gắng làm dâu, làm vợ và làm mẹ cho thật tốt. Hương tới trường đại
học xin bảo lưu điểm để sau này học lại. Rồi cuối cùng sau mấy năm, cô cũng lấy
được bằng đại học và đi làm. Ngoài việc chăm sóc gia đình, Hương dành chút thời
gian ít ỏi tham gia ca đoàn như một lời cầu nguyện liên lỉ. Không ngờ năm năm
sau đó, khi sinh bé Huệ được ba tháng, anh Đạt tới giường nói nhỏ:
– Em
à, anh suy nghĩ kỹ rồi. Lần này tụi mình sẽ cho bé Huệ đi rửa tội.
Mắt
Hương sáng rực:
– Thiệt
hả anh?
Đạt
xoa vai vợ mà nói tiếp:
– Không
chỉ có bé Huệ, anh với cu Huy cũng sẽ rửa tội dịp này luôn. Có điều, em phải
giữ bí mật đừng để ba mẹ anh biết. Sợ ông bà không ưng ý rồi sinh chuyện không
hay.
Hương
mừng quýnh ôm Đạt thật chặt, dòng nước mắt hạnh phúc chảy ướt cả vai chồng:
– Uhm,
em biết rồi. Khi nào cơ hội tới mình sẽ nói cho ba mẹ biết, anh nhen.
Cái
cơ hội mà Hương nói đó gần mười năm sau mới đến. Hôm trước tết này về nhà, thấy
trên bàn có chiếc thiệp mời dự lễ tạ ơn của một tân linh mục từng là học trò cũ
của ba má, Đạt cầm lên đọc đọc, xong hỏi:
– Hôm
bữa ba má có đi dự lễ tạ ơn của cha Sơn không?
Bà
Khuê nhìn chồng đang ngồi đọc báo ở phòng khách, cầm ly nước tới bàn ngồi cạnh
rồi nói:
– Hôm
đó ba má đi, nhiều người tham dự lắm. Hình như đạo Công giáo bây giờ khác với
những năm hồi xưa.
Đạt
cười cười:
– Chắc
cũng vậy thôi má à. Hồi đó có lẽ thời thế hoàn cảnh làm cho người ta ra vậy,
chứ bản chất đạo Công giáo đâu có thay đổi gì đâu. Mà đâu xa, nhà vợ con đấy,
bao nhiêu năm nay làm sui gia, ba má thấy rồi, mọi người sống tốt mà.
Bà
Khuê nhìn Đạt, chậm rãi:
– Thì
biết vậy! Mà má hỏi thật, con ăn ở với con Hương lâu nay không bị lây nhiễm đạo
nó hả?
Đạt
lấy can đảm, cầm ly nước tới đặt trên bàn, rồi ngồi đối diện với ba má, nói:
– Thật
ra con và hai đứa nhỏ đã theo đạo Công giáo được 10 năm rồi, từ khi sinh bé
Huệ, nhưng giấu ba má. Con xin lỗi.
Nói
xong, Đạt ngồi chờ phản ứng ông bà ra sao thì ba Đạt bỏ tờ báo xuống bàn, sửa
cái kính lão trên mắt cho chỉnh lại, nhìn:
– Ba
má đoán ra lâu rồi, thấy tụi nhỏ ăn cơm làm dấu thánh giá là biết mà. Có điều
thấy tụi con hạnh phúc nên ba má nghĩ lại. Giờ thì con an tâm đưa vợ con đi lễ
những ngày Chúa nhật. Ba má không phản đối nữa.
Đạt
liền gọi điện thông báo tin này cho Hương khi nàng đang đi chợ sắm những thứ
cần thiết cho ngày tết. Hương hớn hở trong điện thoại:
– Tạ
ơn Chúa. Để em mua thêm hoa, chiều nhà mình đi lễ tạ ơn và dâng Đức Mẹ.
Giấc
mơ của vợ chồng Hương - Đạt lần nữa được hiện thực hóa từng bước. Hôm nay, cả
gia đình đi họp lớp sau 15 năm, vừa bước vào nghe mọi người nói: Cặp đôi hoàn
hảo! Hương vui thầm trong bụng và ngước lên bàn thờ trong nhà Thy, thầm thĩ lời
tạ ơn.
Nhìn
ra sân vườn, thấy Huy và Huệ đang chơi đùa với tụi nhỏ con cái chúng bạn. Hương
suy tư, lắc lắc đầu, cười cười cảm nghiệm:
– Nếu
ngày ấy, mình đã…thì bây giờ…
Mã số: 15-045
Đó là
một ngày tháng mười thập niên chín mươi, tin tức từ quê nhà làm tôi suy sụp,
ngã quỵ. Con lụt đầu mùa đã quét đi hết tài sản vốn thiếu thốn quê tôi. Tôi
không biết gia đình mình ra sao? Tía má và các em bị gì không? Tôi càng sợ hãi
khi nghĩ về ngôi nhà nhỏ nhoi, ọp ẹp, chông chênh với số lượng thành viên không
nhỏ mà đa số còn nhỏ, nằm chênh vênh trên mé sông Mê Kong thuộc tỉnh Đồng Tháp.
Chỉ cần cơn mưa lớn cũng đủ hất văng cả nhà xuống sông chứ nói chi đến con lũ
quét tràn về. Càng nghĩ càng lo, càng lo càng nghĩ! Tôi đi lẩn quẩn như người
mất hồn, thẫn thờ lang thang khắp phố không biết điểm dừng. Tôi nhìn về tương
lai chỉ thấy màu đen, còn đen hơn cả mây tháng mười, đen hơn vực sâu dòng sông
chảy xiết. Tiếng ai đó trước mặt làm tôi chợt tỉnh:
– Ngồi
sát vô tí em ơi, cho lấy tiền xe luôn em!
Tôi
không biết tại sao và ai đưa tôi lên chuyến xe về quê nhà. Khi tôi tỉnh ra đúng
lúc người phụ xe lấy tiền phí. Tôi lục lọi trong người không có một xu vì đâu
có ý định về quê lúc này. Anh phụ xe thấy tôi luống cuống, hỏi lại:
– Nhanh
lên em, em không mang tiền à?
Tôi
im lặng không dám trả lời, đầu cúi xuống sàn xe cách bẽn lẽn. Mọi người trên xe
ai cũng nhìn tôi, thông cảm hay cười chê, tôi không biết. Tôi chỉ cảm giác mọi
cặp mắt đang dồn về mình. Tôi đứng dậy và nói như đứt tiếng:
– Xin
lỗi anh, em không có tiền. Nếu được, cho em xuống xe chỗ này.
Tôi
nói thế nhưng mong người ta đừng đuổi tôi xuống. Và nếu phải xuống chỗ này, tôi
không biết đi đâu vì còn ít nhất 200km nữa mới tới nhà. Trong lúc tôi đang rối
trí thì bà chủ xe từ trên đi xuống. Bà đứng nhìn tôi lắc đầu lên tiếng cảm
thông:
– Quê
con ở đâu?
Tôi
lí nhí trong miệng không thành tiếng:
– Dạ,
ở Tháp Mười.
Bà
đứng tựa hông vào thành ghế sắp lại xấp tiền cho ngay ngắn, rồi kéo chiếc khẩu
trang xuống sát cằm và nói với anh phụ xe:
– Thôi
được rồi, cho con bé đi đi.
Nghe
vậy, tôi cảm thấy nhẹ cả người. Lúc này, tôi mới dám đưa tay vén mái tóc bù xù
ra phía sau lưng và ngẫng đầu lên một chút. Nhìn lên đầu xe, tượng Đức Mẹ dang
tay và phía trên bên trái là ảnh cha Trương Bửu Diệp mà dân miền tây rất tự
hào, đã an ủi tôi thêm phần nào. Bà chủ cho tôi đi miễn phí vì bà cũng người
Đồng Tháp. Có lẽ bà ở thị xã Cao Lãnh, tôi biết điều này vì thấy địa chỉ ghi ở
thành xe. Cùng người miền tây, chắc bà chứng kiến nhiều cảnh đau thương nơi quê
hương khi mùa lụt về nên dễ dàng nhận ra và thông cảm cho một nạn nhân như tôi.
Tôi thầm biết ơn bà bằng những câu kinh kính mừng thay cho lời cảm ơn. Trước
khi xuống xe, bà còn dúi cho tôi ít tiền mà tôi thật sự nhận ra khi xe đã khuất
xa sau những làn nước tung tóe hòa lẫn với bùn nâu.
Đúng
như tôi dự đoán, mọi thứ trong gia đình trôi theo dòng nước, rất may không mất
ai. Cả nhà chuyển lên khu gò, phía bên hiên nhà thờ giáo xứ để tránh qua mùa
lũ. Mọi người ngồi tum húm trong góc nhìn ra hướng mặt trời mọc chỉ thấy một
màu xam xám của mây mờ. Nhìn thấy tôi lù lù bước vào, tía đưa tay gạt vết bùn
trên trán trong khi ông đang cột lại tấm bạt phía góc lều, và hỏi:
– Sao
mày không ở trên đó học, về đây làm gì?
Tôi
cúi đầu im lặng. Không thèm quay lại nhìn tôi, tía nói tiếp:
– Ngày
mai mày phải đón xe lên đó học lại, mọi chuyện ở nhà tía má lo được rồi.
Tôi
cúi đầu lằm bằm trong miệng:
– Con
sẽ thôi học ở nhà phụ với tía má, các em còn phải đến trường nữa.
Nghe
tôi nói như vậy, tía giật phắt sợi dây đang cột dỡ, quay lại nhìn tôi trừng
trừng:
– Mày
tưởng ở đây giải quyết được à! Ngày mai phải lên đó đi học lại ngay! Lúc này
gia đình chưa cần đồng tiền của mày.
Tôi
biết tía thương tôi lắm, nhưng hôm nay ông nói mấy lời tôi chịu không nổi. Hình
như ông muốn đuổi tôi ra khỏi nhà, hầu tìm vùng đất mới sống mà có tương lai
hơn. Ông cố nghiêm khắc gây áp lực cho tôi. Nhưng làm sao bây giờ, tôi có thể
trở lại trường và đi học được không khi mọi thứ như thế này? Nhớ lại đầu năm,
khi nhận tờ giấy báo nhập học, tôi mừng ít lo nhiều rồi, có điều mọi sự xảy ra
quá nhanh. Khi đó, tôi ngập ngừng không muốn lên thành phố học, nhưng tía đưa
tay chỉ mấy sào ruộng đang mơn mởn, nói:
– Một
nửa dành cho mày ăn học, năm nay được mùa, hy vọng đủ, sang năm tính tiếp. Dù
sao phải cố gắng cho mày học hết bốn năm đại học, chứ ở nhà mần ruộng khổ lắm
con à!
Vậy
mà giờ đây mấy sào ruộng chuẩn bị thu hoạch đã bị nước cuốn về nguồn. Nước lũ
cuốn trôi mấy sào lúa cùng với ước mơ tía má và xóa mờ tương lai tôi. Biết tôi
không muốn trở lại trường, má và các em khóc theo. Thằng Út mới tám tuổi mà
khôn lắm, nó méo mó:
– Chị
phải học để làm cô giáo dạy tụi em chứ. Chị học bốn năm nữa thôi chứ tụi em còn
lâu lắm, với lại trường chúng em sập rồi. Bây giờ tụi em chưa đi học ở nhà phụ
tía má cũng được.
Tôi
nghe sao đắng quá. Hôm sau, tôi buộc phải lên lại Sài Gòn nhưng ý định thôi học
đi kiếm tiền giúp gia đình cứ lẫn quẫn trong đầu. Tôi bán đi phần lớn đồ dùng.
Quần áo mới và một số vật dụng đầu năm mọi người làm quà, tôi đem bán hết.
Phòng trọ và góc học bài giờ đây trống trơn, chỉ còn tờ giấy báo nhập học.
Chính tôi dán nó lên tường thật chặt để giúp có thêm động lực bước đi. Lúc này
nó tróc hai bên góc bay phất phơ trước mặt như muốn cười chế giễu lêu lêu tôi.
Tôi không dám xé nó. Tôi với tay tắt điện hầu không còn nhìn thấy nó nữa, nhưng
nó cứ bay lạch phạch trong đêm tối, làm cho tôi ray rứt hơn.
Sáng
hôm sau, tôi ăn mặc gọn gàng đến trường lần cuối. Tôi đi thẳng tới phòng thầy
trưởng khoa. Nghe người ta nói ông nghiêm khắc, khó tính lắm. Với lại nhìn vẻ
mặt nghiêm nghị và giọng nói chắc nịch, tôi đoán được phần nào. Tôi đi qua đi
lại mấy lần vẫn không dám gõ cửa. Tôi đang bị giằng co dữ dội, chỉ cần sau
tiếng gõ cửa, cuộc đời tôi sẽ khác. Tôi bắt đầu lẩm nhẩm kinh Chúa Thánh Thần
và kinh Sáng Soi mà tim cứ đập thình thịch trong lồng ngực. Việc đọc kinh lúc
ấy hoàn toàn vô thức. Tôi đọc như thói quen vốn có mà tía má đã dạy lúc bé mỗi
khi gặp khó khăn như thi cử, làm bài tập hay thậm chí trước khi uống thuốc. Tôi
ráng đọc kinh thật chậm, cố trấn an và giữ bình tĩnh. Bất chợt, thầy trưởng
khoa nhìn ra thấy tôi lấm la lấm lét thì gọi vào:
– Vô
đây, có chuyện gì vậy con?
Bước vào phòng, tôi lí nhí trong miệng không
thành tiếng:
– Dạ,
con muốn rút hồ sơ.
Ông
nhíu mày, hỏi gằn lại:
– Con
muốn nghỉ học?
Tôi
gật đầu nhè nhẹ, không dám nhìn lên:
– Dạ…
Ông
im lặng một lúc, chỉ mấy chục giây thôi mà tôi thấy lâu lắm. Bất ngờ ông lên
tiếng:
– Vì
sao con lại xin thôi học?
Tôi
đưa tay hất mái tóc lên vì nó cứ phủ xuống trước mặt do chiếc quạt máy trong
phòng, đáp:
– Dạ…
vì hoàn cảnh gia đình.
Ông
trầm ngâm đi qua đi lại:
– Quê
con ở đâu?
Tôi
thú thật, nghèn nghẹn:
– Dạ,
ở huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp.
Ông
lại im lặng, lần này lâu hơn lần trước. Tờ báo viết cảnh lũ lụt quê tôi còn đang
nằm ngửa trên bàn làm việc của ông. Ông nhẹ nhàng lấy điếu thuốc ra châm cách
chậm rãi, hình như tay ông run run lẹm vào ngọn lửa trên đầu chiếc quẹt gas.
Khói thuốc lá bay khắp phòng che đi nửa khuôn mặt ông. Tôi chỉ dám liếc nhìn
ông xuyên qua làn khói thuốc và thấy ông dễ mến hơn nhiều. Ông bất ngờ lên
tiếng:
– Sau
khi nghỉ học, con tính làm gì?
Không
biết tại sao tôi lại trình bày hoàn cảnh mình cho ông nghe cách tỉ mỉ. Sau khi
kể lể xong, tôi chờ nhận lại hồ sơ thì ông bảo đứng đó đợi. Ông đi ra ngoài độ
chừng mười phút rồi bước vào với phong thư trên tay, đưa cho tôi và nói:
– Đây
là tiền nhà trọ và chi phí trong ba tháng tới, còn tiền học phí năm này con
được miễn.
Kèm
theo, ông đưa cho tôi mảnh giấy ghi địa chỉ một nhà sách. Ông bảo tới đó sẽ được
nhận vào làm. Khi đó, tôi chỉ làm theo lời ông như cái máy, đưa tay nhận món
quà, rồi bước ra khỏi phòng với cảm giác tưng tưng không ngôn từ nào diễn tả
được, hình như tôi cũng quên cảm ơn ông. Cảm giác tôi lúc đó đúng với câu người
đời thường nói, đại ơn bất ngôn tạ! Tôi đi thẳng về nhà trọ và tự nhủ khi nào
dành dụm đủ tiền sẽ gửi lại ông. Nhưng dự tính đó mãi mãi là dự tính.
Tôi
đi học lại, chăm chỉ hơn và làm việc đều đặn. Cái nhà sách ông giới thiệu là
nhà sách Công giáo của một nhà dòng nằm gần nhà thờ Đức Bà. Không biết giữa ông
và nhà dòng đó liên hệ gì mà khi tôi tới chỉ cần nói ông giới thiệu là họ nhận
vô làm và đối xử rất tốt, dù tôi chỉ là nhân viên làm thêm. Hằng ngày, tôi quét
bụi, lau chùi dụng cụ thánh, chén thánh, khăn thánh, áo lễ, sách lễ…và quý giá
nhất là có cơ hội đọc hạnh các thánh mỗi giấc trưa khi nhà sách vắng khách.
Cũng
trong năm học đấy, ông dạy chúng tôi môn kỹ năng sư phạm. Vẫn với thái độ
nghiêm nghị, ít nói và nguyên tắc làm cho sinh viên không mấy thiện cảm. Tôi
cảm thấy khó chịu khi ông đòi hỏi khắt khe với mình. Tôi cứ tưởng ông biết hoàn
cảnh đặc biệt của tôi thì sẽ bỏ qua và thông cảm cho những thiếu sót. Không
ngờ, ông làm như chẳng biết gì, lại còn yêu cầu khắt khe với tôi hơn người
khác, làm tôi mấy lần suýt thiếu điểm. Ông không so đo, không nóng nảy nhưng
công bằng và đòi hỏi rất nhiều nơi học sinh. Đối với nhiều giáo viên khác, học
sinh dễ nhớ khi còn trong trường nhưng mau quên khi ra trường. Ngược lại với
ông, học sinh lúc còn trong trường không muốn nhớ tới, nhưng ra trường không
thể quên ơn ông được.
…
Thời
gian thấm thoắt trôi qua, rồi tôi cũng ra trường, đi dạy nhiều năm, chứng kiến
nhiều cảnh gian dối trong thi cử và lạm dụng của nhiều giáo viên. Mới đây, công
an điều tra và phanh phui trong ngành giáo dục, không ít người không có bằng
cấp hoặc chỉ có bằng giả. Và còn số lượng rất lớn giáo viên có bằng thật nhưng
dạy giả, dạy dối mà pháp luật chẳng thể điều tra được. Ngán ngẫm trước nhân
tình thế thái, tôi tìm đến trường học cũ thăm vị thầy đáng kính của mình. Tôi
thật bất ngờ khi nghe người ta nói thầy cũng không đủ tiêu chuẩn dạy đại học,
thầy phải xuống dạy cấp ba, cấp hai rồi cấp một. Bây giờ không biết chính xác
thầy ở đâu, nghe nói giờ thầy đang dạy mầm non, lớp chồi, lớp lá, trường làng
hay lớp giáo lý gì đó cho anh em dân tộc ở vùng cao nguyên.
Tôi
thẫn thờ lê từng bước ngước nhìn trời. Nhà thờ Đức Bà đổ chuông chiều!
Mã số: 15-046
Bùm
…bùm…bùm…
Sau
hàng loạt tiếng súng nổ là tiếng la ó và bụi mờ phía khu rừng già. Ai cũng đoán
chắc có trận xô xát xảy ra giữa nhóm kiểm lâm và những tay anh chị vùng “tam
giác vàng”. Gọi tam giác vàng vì nó giáp ranh giữa ba nước Việt Nam, Lào và
Campuchia, mặc dù cửa khẩu Bờ Y mới là tên chính thức trên giấy tờ hành chính.
Những chuyện đại loại như thế xảy ra ở vùng biên giới cao nguyên như cơm bữa.
Vợ mất chồng, con mất cha, em mất anh… nhiều lắm. Nhưng nếu không đi vào con
đường ấy thì người ta lấy gì sống ở vùng đất khắc nghiệt này. Phần lớn, dân địa
phương đi làm thuê cho chủ có tiền, vì nghèo phải day vào con đường vận chuyển
hàng qua biên giới, gọi tắt là đi buôn lậu. Số còn lại do số phận và hoàn cảnh
đưa đẩy, hầu hết mấy tay anh chị từ các tỉnh lân cận hay những gã trốn lệnh
truy nã lên trú ẩn và tung hoành ở vùng núi rừng này.
Từ
sáng sớm bình minh chưa ló dạng tới lúc xâm xẩm tối khi hoàng hôn đã tắt, đứng
trên núi cao nhìn xuống con đường mòn ở bìa rừng, thỉnh thoảng có chiếc mô tô
xoáy nòng bám sát kẹp chặt những chiếc xe bốn bánh cũ kỹ trao đổi hàng hóa.
Trông cảnh trao đổi hàng, ai cũng phải khiếp sợ và khâm phục. Chiếc xe hơi chỉ
mở cánh cửa đang khép hờ, người ngồi sau mô tô nhảy vào trao đổi hàng và phóng
ra lại giống cảnh trong phim hành động. Con đường mịt mù khói xe và bụi rác như
sau cơn lốc bão. Đôi khi dưới lòng đường tóe lửa vì sự ma sát quá mạnh. Chỉ cần
vấp một chướng ngại hay sơ suất nhỏ thì mọi chuyện kết thúc ngay. Thế nhưng
trước giờ hình như chưa có vụ chết người nào xảy ra do tại nạn này cả. Họ là
những tay lái kỳ cựu, thuộc làu địa thế trên tuyến đường này. Nhiều khi công an
hay kiểm lâm chỉ đứng nhìn chứ không dám rượt đuổi vì họ có gia đình, còn tương
lai nên chẳng dại gì đánh đổi. Trong khi đó, bọn lâm tặc bất cần đời. Nói lâm
tặc nhưng họ không bao giờ ăn trộm hay cướp gì của ai. Họ chỉ khai thác gỗ
trong rừng và buôn lậu hàng hóa qua biên giới.
Nghe
nói tay cầm đầu có biệt danh Hai Xán, một người nhỏ con, đen đen nhưng khá
thông minh. Hắn ta xuất thân từ tỉnh miền Trung nào đấy, hình như trốn chạy án
truy nã mà lọt vào vùng đất này. Với chút võ nghệ, sự thông minh và máu liều
lĩnh, trong thời gian ngắn hắn trở thành người cầm đầu. Dù mang trong mình bản
án hình sự và lệnh truy nã, nhưng thử hỏi ai dám vào tận sào huyệt bắt hắn. Hơn
nữa, hắn thoắt ẩn thoắt hiện chứ đâu ở một chỗ cố định. Nhiều năm nay, ít ai
thấy hắn xuất hiện. Biết đâu hắn đã chết và bọn thuộc hạ mượn danh hắn tung
hoành? Điều này không ai chắc được.
Hôm
đó, có vụ càn quét lớn, nghe đâu đội phòng chống tội phạm từ trung ương về
quyết làm cho ra lẽ. Sau những tiếng nổ xé trời, khu rừng trở lại im phăng
phắc. Mấy thanh niên can đảm bắt đầu mon men tới bìa rừng. Một xác chết nằm đó,
không phải Hai Xán hay một tên trong bọn mà là bác nông dân của làng. Ông Trần
Định Phong, ông chết vì bọn lâm tặc bắn xả uy hiếp công an trong khi tìm đường
trốn chạy. Điều này được công an xác nhận vì trước đó, Hai Xán bị thương và vớ
lấy người đi đường làm bia cho mình. Bây giờ không biết bọn chúng biến đâu rồi.
Vết máu mờ dần, rồi mất hút dưới lớp bụi và lá cây rừng. Mọi thứ trong khu rừng
trở lại như cũ. Các gốc cây khắc thêm vài dấu đạn. Chúng nó bị nhiều lần như
thế nên đứng trơ ra. Số phận cây cối nhiều khi dày sạm hơn số phận con người.
Chúng đã chứng kiến nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu cùng với tiếng khóc than,
những chiếc khăn tang và mùi nhang khói. Hơn nữa, nơi bìa rừng còn là nghĩa
trang không tên cho những con người đa số phận. Vùng này, cây với người là một,
cây nuôi người và người nuôi cây.
Về
phần mình, sau trận đấu súng hôm đó, Hai Xán bị thương rất nặng mà trong khu
rừng này nếu tự mình điều trị khó qua khỏi. Một viên đạn xuyên qua vùng bụng,
máu đổ nhiều. Bọn đàn em vất vả lắm mới lấy được đầu đạn ra chứ không thể chữa
lành vì mất máu quá nhiều. Chúng quyết định cải trang và đưa Hai Xán vào bệnh
viện. Sợ bị phát hiện, tụi đàn em dùng dao rạch thêm chỗ vết thương xóa đi dấu
vết viên đạn gây ra. Nhìn vào, đây giống vụ đâm chém chứ không phải vết thương
do súng. Tụi này tài thật, những chuyện phá phách thế này làm rất gọn gàng và
nhanh nhẹn, dạn tay hơn cả bác sỹ phẩu thuật.
Trong
phòng hồi sức cấp cứu, gần hai ngày sau Hai Xán mới tỉnh hẳn. Khuôn mặt hắn vẫn
còn in vết sợ hãi nhưng không che được vẻ lì lợm. Hắn đưa mắt nhìn trần nhà,
không biết hắn nghĩ gì, quá khứ hay tương lai, người yêu hay người ghét. Thật
ra, bản tính hắn rất hiền lành. Đúng rồi, nhân tri sơ tính bản thiện mà, làm gì
có ai sinh ra không lương thiện bao giờ. Hắn đang nghĩ về quá khứ, về tuổi thơ
và về quê hương. Hắn xuất thân từ tỉnh Bình Định, vùng đất Tây Sơn khắc nghiệt
và đầy kiêu hùng. Khi còn nhỏ, hắn được sống trong môi trường khá tốt, được cộng
đoàn các soeurs nuôi nấng và dạy dỗ. Vì nhà nghèo, các soeurs nhận hắn mà không
cần phải trả chi phí, coi như làm phúc. Hắn biết thân biết phận nên nổ lực và
chịu khó hơn mấy đứa khác trong trường. Hắn học giỏi, lanh lợi, thông minh và
được các soeurs thương lắm. Rồi bỗng nhiên có chuyện tai tiếng xảy ra trong
vùng ấy, mấy đứa con nhà giàu sống chung trường nội trú đỗ thừa hắn gây ra. Với
bản tính trầm lặng và lì lợm của hắn thì có thể lắm, các soeurs bán tín bán
nghi cũng cho rằng hắn là thủ phạm. Hắn không thèm biện minh dù biết ai làm.
Soeur phụ trách la mắng hắn trước mặt mọi người:
- Mấy
soeurs cho con vào đây ăn học để mai này thành người có ích, chứ không phải đi
ăn cắp ăn trộm, đánh nhau, chọc con gái nhà người ta như thế. Con không biết ơn
mà còn lì lợm không chịu ăn năn sửa đổi. Nếu còn lần nữa là đi ra ngoài mà
sống, chứ ở đây mang tiếng mang tăm.
Lúc đó, hắn đứng phắt dậy tính lôi thằng thủ phạm
ra ngay, nhưng không biết vì sao lại im lặng. Hắn đứng im, lầm lì nghe mắng và
chờ nhận hình phạt. Kể từ đó, các soeurs coi thường hắn. Dù hắn học giỏi cũng
chê, hắn ít nói thì gọi thằng câm… Dần dần, hắn thu lại một mình, không muốn
chơi với ai và cũng chẳng buồn đến nhà thờ mỗi buổi sáng như tất cả học sinh
nội trú khác. Một tháng sau, hắn bị tống ra khỏi cộng đoàn, khi đó 14 tuổi. Ra
khỏi cổng cộng đoàn, hắn thọc tay vô túi quần nhìn lại lần nữa, rồi ra đi. Hắn
đi giữa đường không sợ ai, ai chửi thì hắn chường mặt ra cách lì lợm. Về lại
quê, hắn lang thang và khét tiếng với ngón nghề ăn cắp vặt. Biệt danh Hai Xán
dính với hắn từ lúc ấy. Có lẽ hắn hay hành động lúc khoảng hai ba giờ sáng nên
người ta gọi trại ra và đặt cho hắn tên Hai Xán. Ba má và gia đình cảm thấy xấu
hổ nên từ hắn luôn. Xoong nồi, chó gà… hắn bắt rất gọn gàng. Có lần hắn bắt hơn
chục con gà cột chân bỏ vào bao xong xuôi, nhưng sau đó lại ngủ quên tại chuồng
gà, do trước đó đã nhậu say. Sau vụ ấy, hắn bị tóm vào trại giáo dưỡng.
Hơn
hai năm trời vắng bóng, hắn ra trại về quê sống như người gương mẫu. Mọi người
tin rằng hắn sợ cảnh nhà tù nên đổi đời. Bỗng cho tới ngày kia, khi mọi người
sơ hở, hắn vơ cú thật đậm rồi đi luôn. Kể từ đó, người ta không thấy hắn nữa dù
công an phát lệnh truy nã cả nước.
…
Bây
giờ nằm ở bịnh viện hắn đang suy nghĩ. Đàn em hắn canh phòng rất cẩn thận, một
tin tức nhỏ cũng không thoát. Hắn được đàn em nể trọng vì sống tình nghĩa. Điều
này đúng như người ta thường nói, giang hồ có đạo nghĩa giang hồ. Trong bịnh
viện này, hắn đặc biệt để ý cô y tá chăm sóc cho hắn. Nhìn cô y tá, hắn nghĩ về
gia đình êm ấm, mơ mộng và tưởng tượng những điều tốt đẹp nhất. Mỗi lần được cô
y tá thay băng, hắn len lén nhìn chằm chằm mé mé chứ không dám nhìn thẳng. Cô
có khuôn mặt đẹp, đôi mắt hiền và trên ngực đeo chiếc khăn tang. Nhiều lần hắn
muốn bắt chuyện nhưng lại không biết khởi đầu từ đâu và như thế nào. Hắn nhìn
không dám hỏi chiếc tang trên ngực để tưởng nhớ ai…
Vết
thương chóng lành nhưng hắn không muốn xuất viện. Hắn cầu trời cho hắn bị
thương hoài cũng được, miễn đừng chết để có cơ hội gần cô y tá ấy. Thế nhưng
cuộc đời đâu dễ vậy, công an hình như đánh mùi và phát hiện ra hắn. Bọn đàn em
hóng tin được và dàn xếp để hắn trốn khỏi bệnh viện trong khi vết thương chưa
lành hẳn. Đêm hôm ấy, chiếc thang dây được nối từ cửa sổ nhà vệ sinh lầu hai
xuống khu đất trống. Mọi chuyện diễn ra gọn gàng và êm xuôi. Sau khi leo ra
khỏi cổng bệnh viện, hắn nấn ná không muốn đi. Hắn cứ đứng chần chừ giữa màn
đêm nhìn lên cửa phòng trực của cô y tá, đang khi mơ mơ tưởng tưởng thì giọng
một người phụ nữ phía sau làm hắn giật thót người:
- Chào
anh.
Hắn
giật mình quay lại thấy cô y tá đứng sau hắn từ lúc nào. Hắn hốt hoảng muốn té
xỉu, bản tính lì lợm xưa nay biến đâu không biết. Trong đêm tối hun hút, giọng
cô y tá run run như hối thúc:
- Anh
mau đi đi kẻo không kịp.
Nói
xong, cô đưa cho hắn tờ giấy được gấp rất kỹ lưỡng, rồi đi thẳng vào cổng bệnh
viện, mất hút trong bóng tối hàng cây bên đường. Hai Xán cũng biến mất sau đêm
ấy. Đúng như dự đoán, hôm sau công an ập vào kiểm tra bệnh viện nhưng không tìm
thấy dấu vết nào cả. Mọi chuyện dần đi vào quên lãng như một quy luật tự nhiên.
Hai Xán về lại nơi của mình. Những vụ làm ăn trót lọt sau đó đem lại cho hắn
cuộc sống sung túc và đầy đủ hơn, dù vậy hắn vẫn cảm thấy thiếu thiếu thứ gì mà
không tài nào lý giải được.
Tối
hôm nay, bóng trăng sáng vằng vặc xuyên qua khe lá in xuống hiên chòi nhiều
hình thù khó tả. Hắn ngồi đăm chiêu nhìn về phía con đường mòn thăm thẳm trước
mặt. Hắn nhớ tới cô y tá và bắt đầu lục lọi tìm dỡ mảnh giấy ra xem. Đó là tấm
ảnh người đàn ông với khuôn mặt phúc hậu được gói rất kỹ lưỡng, phía sau ghi
tên Trần Định Phong – bị bắn chết vào ngày… tháng… năm…. Hắn bật công tắc đèn
trên chiếc điện thoại di động lên để nhìn cho rõ. Ánh sáng chập chờn dưới bóng
trăng giữa rừng vắng càng dệt thêm vẻ ảm đạm. Tay hắn bắt đầu run lên cầm cập
khi nhìn kỹ tấm hình ấy. Hắn nhớ tới chiếc khăn tang trên ngực cô y tá. Bao
nhiêu suy nghĩ trong đầu hắn chợt hiện ra. Chẳng lẽ, chẳng lẽ…cô y tá là con
của người này sao? Đôi mắt hắn bắt đầu ngấn lệ cay cay. Châm điếu thuốc, hắn
nhìn ra phía bìa rừng bắt đầu suy nghĩ. Tại sao cô y tá ấy lại tha cho kẻ giết
cha mình? Tha thứ cũng được đi, đằng này lại tận tình cứu chữa cho hắn nữa. Hắn
thật sự không hiểu. Hắn không ân hận vì hành động làm chết người, cho bằng
không hiểu sao lại có sự tha thứ vĩ đại như vậy. Hắn lẩm bẩm trong đêm tối:
- Thì
ra, trên đời này vẫn còn có sự tha thứ…
Trong
đêm dài suy nghĩ, hắn thấy cần phải đối diện với cô y tá một lần, ít ra chính
miệng phải tự nói lời thú tội cho lương tâm khỏi ray rứt. Hắn ngồi châm thuốc
tới hai giờ sáng, đúng cái giờ gắn liền với tên tuổi và những hành động tội lỗi
xưa nay. Chợt, hắn đứng phắt dậy với tay lấy chiếc áo khoác, tự cải trang đi
tới bệnh viện. Kéo ghế ngồi trong góc quán café cốc bên đường để nghe ngóng
tình hình. Khi thấy bác bảo vệ đẩy tấm cửa kéo ra, hắn tính tiền café và sấn
tới hỏi:
- Hôm
nay cô y tá đeo chiếc khăn tang có đi làm không bác ?
Bác
bảo vệ ngước mặt lên nhìn hắn, nhíu mày hỏi:
- Cô
mang khăn tang nào, ở đây nhiều người mang khăn tang lắm.
Hắn
ấp úng, mặt hơi cúi xuống một tí:
- Cô
mang khăn tang ở phòng B32, dãy B lầu 2.
Bác
bảo vệ thở dài cách uể oải, hình như bác chưa tỉnh ngủ hẳn, nói giọng ngán ngẫm
đượm vẻ thương hại:
- À,
anh hỏi cô ấy à. Cô ta con ông Trần Định Phong, chết cách đây mấy tháng. Đúng
là cuộc đời khó đoán lắm, cứ tưởng rằng hai cha con họ sẽ yên ổn khi cô ấy tốt
nghiệp cao đẳng y dược về đây làm để có cơ hội chăm sóc cho cha. Không ngờ…!
Bây giờ cô ấy không làm ở đây nữa anh à.
Hai
Xán ngạc nhiên trố mắt hỏi dồn:
- Vậy
bác biết giờ cô ấy ở đâu không?
Bác bảo
vệ cảm thấy bắt đầu khó chịu, lấy tay dụi mắt nhìn chằm chằm:
- Chú
này hay thật, cứ vào hỏi giám đốc bệnh viện ấy, chứ hỏi tôi sao tôi biết. Mà
anh với cô ấy liên hệ như thế nào?
Hai
Xán sửa lại cổ áo:
- Xin
lỗi bác, thật ra con với cô ấy không liên hệ máu mủ gì cả. Cô ấy là ân nhân cứu
mạng nên hôm nay con tìm tới cảm ơn thôi. À, mà cô ấy tên gì bác biết không?
Bác
bảo vệ vừa nói vừa đi tới lấy cây chổi xương dồn mấy cộng rác thành nhúm nhỏ
ngay góc phía trong của cổng chính bệnh viện, gần phòng trực bảo vệ:
- Trần
Định Diệu Linh, tên cô ấy đấy. Anh đừng hỏi gì nữa nhá. Tôi chỉ biết tới đó
thôi à.
Cúi
đầu cảm ơn ông bảo vệ, Hai Xán đi thẳng vào bệnh viện, dụi điếu thuốc đang hút
dở, lên thẳng phòng B32. Hắn gõ cửa và hồi hộp chờ đợi nhưng một người khác mở
cửa nhìn hắn. Người này không đeo khăn tang, thay vào đó là thêu hình cây thập
giá bên ngực trái. Cô hỏi anh với giọng hiền từ và nụ cười dễ mến:
- Có
chuyện gì không anh? Anh tìm ai vậy?
Hai
Xán chưa hết hồi hộp bỗng trở nên thất vọng, tim đập thình thịch trong lòng
ngực nhưng hắn cố hít thật sâu để giữ bình tĩnh. Nhìn cây thập giá thêu bên
ngoài chiếc áo blue, hắn đoán đây là Soeur đang làm việc hay thực tập, hắn quay
lưng tính bỏ đi. Có lẽ những kỷ niệm chua xót thời niên thiếu làm cho hắn dị
ứng mạnh khi đối diện với các nữ tu. Chợt hắn khựng lại, tay nắm chặt đặt trong
túi quần, cố gắng nhẹ nhàng hỏi:
- Cho
tôi hỏi cô y tá Diệu Linh còn làm việc ở đây không vậy?
Người
y tá với cây thập tự trên áo vẫn giữ nụ cười trên miệng:
- Diệu
Linh hả anh? Cô ấy đi rồi, để tôi cho anh địa chỉ nhen, dễ tìm lắm và cách đây
không xa đâu.
Thái
độ cô y tá mới này rất thân thiện và đầy cảm tình khiến Hai Xán lấy lại chút ấn
tượng và thiện cảm hơn. Cô đi thẳng vô phòng lấy tờ giấy viết viết gì đó rồi ra
trao cho hắn:
- Đây
là địa chỉ nơi Diệu Linh đang sống, 45 đường…,
Hai
Xán lí nhí trong miệng lời cảm ơn, đoạn vội vàng bước xuống cầu thang đi tìm
địa chỉ người y tá với hình ảnh chiếc khăn tang cứ ám ảnh trong đầu. Hắn vừa đi
vừa lo. Trái tim hắn đập loạn nhịp. Hắn không chút run sợ khi đối diện công an
hay kẻ thù, nhưng sao giờ hắn lại run trước khi gặp cô gái yếu ớt mỏng manh.
Ngoắc anh xe ôm ngoài cổng bệnh viện lại, hắn nhảy thót lên rồi phóng đi. Ngồi
phía sau anh xe thồ, thỉnh thoảng hắn rút mảnh giấy ghi địa chỉ ra dò số nhà
hai bên đường. Đi khoảng 20 phút, trước mặt hắn hiện lên bức tường lớn, cửa
cao. Hắn nhìn lại địa chỉ đang cầm trên tay. Đúng địa chỉ này rồi! Nhìn quanh
một vòng, ngôi nhà hơi cũ, phía ngoài phủ lớp rong rêu. Hắn đưa tay định bấm
chuông thì vội khựng lại vì hàng chữ trên cổng: “Nhà dòng Mến Thánh Giá….”. Hai
Xán đứng thừ người ra. Hắn ngước nhìn biểu tượng cây Thập Giá trên cổng chính
nhà dòng, khẽ cúi đầu, rồi ra đi.
Từ
đó, không ai nhìn thấy Hai Xán nữa. Vùng đất biên giới tây nguyên giờ đây không
còn nghe tiếng súng nổ nhiều như trước. Sự bình yên trở lại với tiếng chim hót
gió reo trên những khu rừng già thay cho tiếng súng đạn và khóc than.
Mã số: 15-047
Đầu
tháng chín, cửa trường đại học Huế mở toang. Cây xà cừ giữa sân trường rung
rinh khóm lá non như thể chào đón các thành viên mới, mà cũng đồng nghĩa giã từ
sinh viên ra trường. Hôm qua, không một bóng người, lá cây rụng đầy sân. Bác
bảo vệ mất cả ngày dọn dẹp. Từ sáng tới chiều, bác đi đi lại lại trong sân
trường cách vô định. Mới đó chỉ mấy giờ đồng hồ, bộ mặt mới đã đổi thay. Không
khí vắng lặng của mùa hè khép lại và năm học mới sắp bắt đầu. Năm nay sinh viên
đông hơn năm ngoái, đa dạng hơn. Từ thành thị, thôn quê, vùng sâu vùng xa đến
vùng cao đều có sinh viên góp mặt.
Thiên
Phước, cô bé tiểu thư dân thành thị chính gốc. Là “con gái rượu”, cô được cưng
chiều trước cả khi sinh ra. Ba mẹ cô lúc còn trẻ lo kiếm tiền làm giàu, không
nghĩ đến chuyện con cái. Khi tiền tài gia sản ăm ắp túi, ông bà mới quyết định
sinh con. Nhưng lúc này, tìm đứa con còn khó hơn làm giàu gấp mấy lần. Giật
mình nhìn lại, ông bà đã bước qua tuổi tứ tuần. Đối với nhiều phụ nữ, ở độ tuổi
này sinh con không đến nổi khó, nhưng với bà Thanh, mẹ Thiên Phước khi đó,
chuyện ấy khác gì việc “con lạc đà chui qua lỗ kim”. Với lại thêm hai lần bị
sảy thai trước đó làm bà không dám nghĩ tới chuyện có con nữa. Dù vậy, bà luôn
tin tưởng cầu nguyện và hy vọng phép lạ xảy ra như câu chuyện bà Elisabeth
trong Thánh Kinh mà vợ chồng bà nghe mỗi dịp lễ Giáng Sinh về. Để có đứa con,
ông bà bỏ công sức lặn lội hết tiệm thuốc đông cho tới thuốc tây, hết ông thầy
nam cho tới ông thầy bắc, thậm chí nghe nói trong nhà dòng gì đấy ở miền nam có
linh mục đặt tay cầu nguyện để có con, ông bà cũng lân la tìm đến. Các nơi hành
hương, từ tận cùng miền nam nơi mộ cha Trương Bửu Diệp, cho tới các địa danh ở
Vũng Tàu, Phan Thiết, La Vang…ông bà đều ghé tới không sót một nơi. Cuối cùng,
ông bà cũng được cô con gái. Không ai biết được đây là kết quả của thuốc men,
tự nhiên hay siêu nhiên. Dù vậy, ông bà đặt con tên Thiên Phước, thay cho lời
cảm tạ trời cao.
Được
sinh ra trong một gia thế và có điểm xuất phát khá tốt, cộng thêm Thiên Phước
chăm chỉ học hành, nên học lực thuộc tốp khá giỏi. Đôi lúc cô kênh kênh, kiệu
kiệu, kêu kêu… Hôm nay bước vào trường đại học với số điểm thi tuyển tối ưu, cô
càng tự tin và vênh váo hơn. Đầu ngẫng cao, mặt hất lên như đang đi trên mây,
hai chân bồng bềnh trên dãy ngân hà hướng về cõi xa xăm nào đấy. Đang khi cô
còn tưởng tượng thì ngôi trường hiện ra trước mặt. Chậm rãi ngắm ngía, Thiên
Phước bước vào.
Rầm…
Cô
vấp phải vật gì té lăn ra đất. Nhưng với dòng máu kiêu hãnh nơi con gái vùng
đất Kim Long không chịu thua kém ai, cô vội đứng dậy nhìn kỹ chỗ mình vấp ngã.
Thì ra, cô va vào cái càng chiếc Honda thồ của một thanh niên trước cổng
trường. Cô không dám lên tiếng vì nhìn thấy hình dáng kỳ dị của anh chàng xe
thồ. Anh ta không già, trên dưới 20 tuổi thôi nhưng rất kỳ cục, khó coi. Anh có
khuôn mặt hiền nhưng với cái đầu trọc. Tóc không có, lông mày, lông mi đều sạch
nhẵn, giống người ngoài hành tinh trong phim giả tưởng Mỹ được trình chiếu trên
kênh HBO mà cô từng xem. Thiên Phước lặng mình hốt hoảng đứng im. Người thanh
niên nhìn cô chợt lên tiếng:
- Bạn
có sao không vậy? Nếu lỗi của tôi, thành thật xin lỗi bạn. Còn nếu đây không
phải lỗi của tôi thì chúng ta hãy quên chuyện này đi, cảm ơn bạn.
…
Hết
học kỳ một, Thiên Phước đạt kết quả học tập đáng khâm phục. Tuy vậy, kết quả
này vẫn không sánh kịp một người ở khoa công nghệ thông tin. Cô cố tìm hiểu,
hỏi han để biết người đó là ai. Và rồi, cô biết người đó tên Huy, lớn hơn cô
hai tuổi và học trước cô một khóa. Thông tin cô nhận được đơn giản chỉ có vậy.
Thiên Phước cố tưởng tượng và hình dung khuôn mặt, vóc dáng người sinh viên tài
ba ấy. Dù mang trong mình dòng máu công nương kiêu kỳ nhưng Thiên Phước ham học
hỏi và nể trọng bất cứ ai hơn mình. Và rồi trớ trêu thay, nhân vật cô đêm ngày
thầm ngưỡng mộ ấy, chính anh chàng quái nhân đã va chạm đầu năm với cô tại cổng
trường.
Tại
sao lại là anh ta? Thiên Phước cứ nghĩ đi nghĩ lại. Kể từ đó, cô chú ý tới mái
đầu không có tóc. Hình hài kỳ dị ấy dần dần không làm cô sợ nữa, thay vào đó
cảm giác nể trọng và khâm phục. Có lần, cô cố ý đi sát anh khi tan trường, quan
sát thật kỹ con người trầm lặng và dị thường này. Bất chợt, anh quay lại nhìn
thấy cô. Thiên Phước thẹn thùng, lí nhí trong miệng:
- Chào
anh.
Anh
mĩm cười lộ vẻ mặt càng ngộ nghĩnh hơn. Ước chi anh đừng cười chắc làm người ta
bớt sợ. Anh biết dáng vẻ mình làm người khác sợ nên lên tiếng:
- Nếu
làm bạn sợ, thành thật xin lỗi. Còn nếu không, hãy quên chuyện này đi.
Nói
vậy chứ làm sao Thiên Phước quên được, lần đầu gặp nhau may ra còn dễ dàng
quên, nhưng rồi mọi thứ đã đi vào cuộc đời cô như huyền thoại. Còn lần này làm
sao quên được nữa khi chuyện thần thoại ấy được hiện thực hóa trước mắt mình.
Từ đó, hai người biết nhau và trở thành bạn dù không thân lắm. Hằng ngày, Thiên
Phước chủ ý đi học sớm và về muộn hơn để có cơ hội nhìn cái đầu trọc len lỏi
giữa dòng người, dưới bóng cây xanh không che đủ mát. Dù sao, ánh nắng chói
chang còn đỡ hơn tháng ngày mưa gió lạnh lùng. Mái đầu kia sao chịu nỗi những
cơn rét buốt nơi eo đất miền trung này. Nghĩ tới đó, Thiên Phước chạnh lòng
thương hại! Nhiều lần nàng muốn hỏi lý do mà không dám. Mỗi lần gặp Huy, Thiên
Phước cố gắng bắt chuyện nhưng không sao hỏi được, vì cô sợ hay vì lý do gì, có
lẽ cô cũng không biết.
…
Gần
cuối năm học, bài vở nhiều. Thiên Phước chăm chú cho việc học nên không còn
nghĩ nhiều về anh Huy. Mới đó hơn cả tháng hai người không gặp nhau rồi. Hôm
nay tự nhiên cô sực nhớ. Lần trước gặp anh, anh chỉ mĩm cười, nụ cười dài hơn
và buồn hơn, nếp nhăn trên vầng trán thưa dần vì da đầu căng hơn, bóng hơn. Có
vài vết sạm và tàn nhang in rõ nét thâm đen trên da mặt anh. Thiên Phước càng
không dám hỏi.
Mùa
thi đến, mùa hè chuẩn bị mở ra. Kỳ nghỉ và dự định đầy ắp. Cây cổ thụ trong
trường trơ dần đi, có lẽ tuổi cây này nhiều lắm rồi, ít ra cũng hơn tuổi Huy và
Thiên Phước cộng lại. Có tiếng ve dưới đám lá cây. Giai điệu mùa hè xanh làm
cho bao sinh viên rạo rực.
…
Thiên
Phước cảm thấy buồn hơn vì lâu rồi không thấy Huy đến trường. Dù nhiều hôm
Thiên Phước cố ý đi học sớm và về rất muộn vẫn không thấy mái đầu trơ kia. Hôm
nay cô quyết định ở lại chờ. Đúng ngọ vẫn không thấy, trời bắt đầu kéo mây mù.
Rồi cơn mưa đổ xuống với tiếng sấm chớp xé lòng. Ngôi trường vắng lặng. Thiên
Phước bước xuống cầu thang, ngang qua lướt nhìn bảng thông báo mà cả tháng nay
không ghé lại. Cô lê chân từng bước như muốn quỵ ngã khi thấy dòng chữ còn
nguyên “Nguyễn Công Huy - sinh viên ưu tú
của trường, không cha không mẹ, lớn lên trong mái ấm tình thương của các soeurs
ở Phường Đúc và nhờ vòng tay nâng đỡ nhiều người- mắc bệnh ung thư tụy ở thời
kỳ cuối, tóc rụng vì phải hóa trị nhiều lần. Xin mọi người giúp đỡ…”. Thiên
Phước không thể đọc được nữa. Bầu trời tối sầm trước mặt cô và cơn mưa như
trút. Cô bước đi giữa mưa lạnh như người vô hồn và không biết gì cho tới khi
tỉnh dậy thấy đang nằm trong bệnh viện.
Bà
Thanh, mẹ cô, một người đàn bà đứng tuổi, ngồi bên cạnh con gái trong phòng hồi
sức không hiểu tại sao. Bà cố kể cho con nghe chuyện này chuyện kia giúp con
thư thả đầu óc. Bất ngờ bà hỏi Thiên Phước:
- Con
biết tại sao con tên Thiên Phước không?
Thiên
Phước kéo chiếc gối đang kê dưới lưng lên, rướn người ngồi thẳng dậy, đáp lại:
- Dạ
có. Mẹ nói về nguồn gốc tên con nhiều lần rồi. Mẹ còn nói tên đó không chỉ tên
gọi mà còn là sứ mạng của con nữa, đúng không ạ?
Bà
Thanh kéo giỏ xách ở đầu giường lại, lấy chiếc lược chải mái tóc cho con gái.
Vừa chải tóc vừa sửa cổ áo của con cho ngay ngắn, bà nhắc con:
- Ừ,
con biết thế là tốt. Giờ càng lớn, con phải sống sao cho đúng với ý nghĩa tên
đó nghe chưa.
Thiên
Phước gật đầu nhè nhè và dạ cách lí nhí trong miệng, chợt cô hỏi lại mẹ:
- Dạo
này công việc ba mẹ thế nào? Con thật xin lỗi vì trước giờ không quan tâm đến
ba mẹ.
Bà
Thanh nhẹ nhàng cầm tay xuýt xoa kể cho cô nghe về cậu sinh viên trọc đầu hay
chở đồ và giao hàng cho bà mà dạo này không thấy, điện thoại cũng không liên
lạc được. Cửa hàng bánh kẹo của bà khá lớn ở sát chợ Đông Ba. Hầu hết điểm sỉ
các tỉnh lân cận đều đến đây lấy hàng. Mọi công việc làm ăn giờ giao lại cho
đứa cháu họ quản lý. Dù vậy, bà không thể ngồi yên được nên hay ra quan sát
nhân viên làm việc. Bà không rành máy móc cũng không sành sổ sách tính toán,
nhưng ngược lại, bà rất hiểu tính cách từng nhân viên. Có lẽ vậy bà đã thành
công trong việc dùng người kinh doanh ở thời hiện đại. Trong số nhân viên làm
cho bà, ai muốn học thêm hay có sáng kiến gì mới mẻ, bà đều trân trọng ghi nhận
và giúp đỡ tận tình. Bà thường nhắc nhân viên làm việc phải theo tinh thần Kito
giáo, lấy đức ái làm đầu, nói theo người đời là phải có tâm.
Bà
Thanh tiếp tục xoa tay con gái và nói như độc thoại:
- Trước
đây, cứ mỗi lần theo xe chở hàng ra ngoài Quảng Trị là cậu ấy gọi điện cho mẹ
xin phép ghé La Vang cầu nguyện. Tội nghiệp cậu ấy.
Nghe
tới đó, Thiên Phước thấy lòng thắt lại. Thì ra, mẹ hay nói bóng nói gió về anh
ấy nhằm làm bài học cho mình nhưng có khi nào cô để ý. Giờ nghĩ về anh Huy,
Thiên Phước chỉ cầu mong phép lạ xảy ra, phép lạ từ Trời cao, của y khoa và
lòng nhân ái. Thiên Phước hy vọng gặp lại người bạn kỳ diệu này. Một ý nghĩ
trong đầu cô chợt lóe lên. Năm nay, thay vì đi Nha Trang hay Đà Lạt trong dịp
hè như dự tính, Thiên Phước quyết định đăng ký khóa linh thao 10 ngày tại La
Vang để làm điều gì đó ý nghĩa hơn.
…
Trong
thời gian linh thao, lúc rảnh rỗi Thiên Phước đan tặng Huy chiếc mũ len, và số
tiền còn lại giúp Huy phần nào đối diện với căn bệnh hiểm nghèo. Cũng trong
khóa linh thao, Thiên Phước dành thời gian nghiền ngẫm cái tên mình. Tại sao
người tên Hận, tên Thù… Có người lại tên Huy, tên Dương…? Cách đặt tên ảnh
hưởng gì tới người đặt tên và người được đặt tên hay không? Thiên Phước thầm tạ
ơn Trời, cảm ơn ba mẹ và cuộc đời. Khóa linh thao khép lại đồng nghĩa Thiên Phước
trưởng thành rất nhiều.
Mùa
hè kết thúc và ngày đầu tiên đến trường cho năm học thứ hai, Thiên Phước đi học
sớm và về thật muộn. Mắt nàng sáng rực khi nhìn thấy mái đầu trơ phía sau dòng
người tan trường. Thiên Phước vội chạy nhanh ra cổng. Trên tay cô, chiếc mũ len
tự làm trong dịp linh thao mùa hè cùng với món tiền tiết kiệm với cả tấm lòng.
Thiên Phước chạy thật nhanh và đuổi kịp. Người kia quay lại, cũng mái đầu trơ,
cũng khuôn mặt kỳ dị, cũng dáng vẻ hiền từ, thông minh, cũng nụ cười dễ gây sợ
hãi….nhưng đó không phải là Huy. Nét hớn hở trên mặt cô chợt tắt ngấn. Cô ấp a
ấp úng nghèn nghẹn trong cổ họng không thành tiếng:
- Anh,
anh…! Lại một người nữa giống như anh…
Thiên
Phước nhẹ nhàng đặt món quà vào tay người ấy và lặng lẽ bước đi. Đường phố Huế
mộng mơ như vốn có!
Mã số: 15-048
Nó
trở nên lạnh lùng, đầy căm hận với người cha của nó. Sau cái chết của má, dường
như trái tim nó đã khuyết đi một nữa, tâm hồn nó lạnh dần đi vì không còn tình
thương của má. Thay vào đó là những nỗi u buồn cũng như sự mất mát.
Nhà
nó nghèo lắm, thuộc cái họ đạo nghèo nhất trong giáo xứ mà Thánh Giacôbê là
Đấng bảo trợ. Dường như những gia đình
trong giáo họ ấy không nhà nào có thể khá lên được, nhà nó cũng không ngoại lệ.
Vì vậy, nó chưa bao giờ hưởng được một điều gọi là hạnh phúc trọn vẹn.
Nó
tên Nguyễn Cảnh Thiện, nhưng lại được gán cho cái biệt danh là “Cảnh ác”. Xuất
thân là gia đình Công Giáo nhưng cha mẹ luôn bê tha việc đạo đức, dần sau cũng
ảnh hưởng đến nó. Một Soeur
trong giáo xứ rất quý nó, thường xuyên thúc bách nó trong việc đạo đức
và các công tác nhà xứ. Những lời Soeur căn dặn về các việc đạo đức nó luôn chu
toàn một cách đều đặn. Giáng Sinh năm ấy nó nhận được một món quà từ Soeur là
một vòng chuỗi đeo tay. Nó lấy làm vui sướng lắm, vì đây là món quà Giáng Sinh
đầu tiên trong đời.
***
Một
biến cố đã đẩy cuộc đời nó sang ngã rẻ mới. Hôm đó lễ Thánh Lucia tử đạo, nó đi
lễ sáng như bao ngày, sau đó đi đá banh với chúng bạn. Vừa về tới nhà nó nghe
tiếng la hét:
- A…á…đau
quá! Chúa ơi!...A…
Từng
tiếng bốp bốp vang lên bên tai nó, má nó khóc thảm.
- Mày
là con khốn…Mẹ mày! Tau đập cho mày chết….Khốn kiếp…
Nó
đứng lặng người không tin vào mắt mình. Toàn thân má nó đầy máu và vết bầm. Ba
nó dơ tay đánh tiếp má nó. Nó chạy vào, đỡ cho má nó một cái tát như trời giáng
nhưng mà chẳng thấy đau đớn gì. Nó ôm chầm lấy má nó.
- Tại
sao ông đánh má tui?
- Thằng
kia…Mày hổn à.
Nó
lãnh trọn tiếp cái tát tai. Nó đứng lên, định đánh lại ông ta, nhưng má cản nó.
- Đừng
con..đừng! Má xin con…tội bất hiếu đó con, Thiện à!...Má không sao đâu.
Nó
quay về phía má. Ông ta đá thẳng ngang hông, nó đau nhói, má nó cũng đứt ruột.
- Mày
không phải con tao…Mày là đứa con hoang của con đàn bà này…Hai mẹ con mày…
Ông
ta gằn mặt, chỉ thẳng vào hai má con nó, nhưng chẳng nói được gì. Nó đứng dậy,
nhìn ông ta với cặp mắt căm hận.
- Ông
nói gì? Ông tưởng ông là ai? Suốt ngày ông chỉ ăn nhậu về đánh má tui, đập hết
đồ đạc, đốt hết sách vở tui và áo quần má con tui nữa, ông còn là con người
không?
Có lẽ
nó buột miệng, không kiềm chế được cái tôi
tuổi mới lớn nên mới hành xử như vậy.
- A..Thằng
mất dạy…nuôi mày ăn học rồi nói chuyện với bố mày như vậy à.
Ông
ta lao vào đánh nó, nó vùng lên, quyết đánh lại, không chịu thua, dù biết đó là
tội bất hiếu. Ông ta với lấy con dao đòi đâm chết hai má con nó.
- Tao
giết tụi mày…
Nói
rồi, ông cầm con dao đâm thẳng vào nó nhưng má đã đỡ cho nó nhát dao ấy.
Chính
giây phút ấy “Thiện” đã thành “Ác” thật sự. Má nó ngã xuống, hai hàng nước mắt
nó chảy dài. Thẩn người, ba nó kinh hãi, chạy đi; bỏ lại nó và má nằm trên sàn.
Nó ôm xác má nó mà khóc nức nở. Thét lên như kẻ điên dại, ngồi bên má suốt mấy
tiếng, dường như để tìm, giữ lại chút gì đó lần cuối trong đời ở bên má. Nó cảm
nhận tim nó vụn ra từng mảnh, đau đớn đến tột cùng vì đó là người nó yêu thương
nhất trên đời.
Đám
tang má nó diễn ra nhanh chóng, nó tự hứa với lòng mình chẳng bao giờ tha thứ
cho ông ta. Quan tài má nó được đưa xuống huyệt sâu, nó không khóc…, phải chăng
nó không còn nước mắt để khóc. Rồi, nó bỏ học lên Sài Gòn, và chẳng còn ai thấy
nó nữa.
***
Đánh
nhau, trộm cắp, móc túi, đi đánh giày là những gì nó đã làm trên mãnh đất Sài
Gòn. Một hôm, đang đánh giày trước một quán ăn, nó chợt nhìn thấy một người đưa
tay làm dấu Thánh Gía trước khi ăn. Bỗng dưng trong đầu nó thoáng qua nhiều suy
nghĩ, nó ý thức lại rằng mình là người Công Giáo.
Những
kỉ niệm một thời ùa về, nhớ những lúc đến nhà thờ, nhớ má, nhớ quý Soeur, bạn
bè; nó đánh vội chiếc giày còn đang dang dở. Nó chạy đến nhà thờ, tìm lại những
gì mà nó đang nghĩ, nó bước vào Thánh Đường; dường như nó cảm nhận được vẻ đẹp
thực sự của ngôi nhà Chúa mà bấy lâu nay nó không để ý tới. Nó nhìn Thánh Giá
hồi lâu, nó nghĩ Chúa đang nhìn nó. Sực nhớ đến món quà Soeur đã tặng,nó lục
tìm trong hộp đánh giày, vẫn còn đó. Và rồi, nó muốn trở lại như ngày xưa…muốn
….muốn lắm! Có lẽ Chúa thương những con người như nó, nó cũng chán cảnh kiếm
sống này lắm rồi , bữa đói- bữa no, những trận đòn khi đánh nhau, ngủ dưới gầm
cầu, tất cả như là Thánh Giá của nó vậy.
Bước
ra khỏi nhà thờ, nó gặp Cha quản xứ, Cha hỏi nó vài câu và biết nó là người
Công giáo. Nó xin Cha giải tội, bước đến Tòa cảm giác thật nặng nề, nó không đủ
tự tin để thú tội. Lấy hết can đảm, nó bước đến và xưng tội với Chúa, nó giải
bày hết mọi sự….Chắc hẳn nó cảm nhận được tình thương của Chúa, từ trong sâu
thẳm tâm hồn nó như có tiếng nói: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 15,12). Nó đã trút được những khối đá nặng trong lòng bấy
lâu nay.
***
Nó về
lại quê nhà trong ngày giỗ lần thứ 5 của má nó, quỳ trước di ảnh của má, nó đọc
vài kinh và hứa sẽ làm lại cuộc đời. Bỗng có người báo ba nó rằng: “gần xong
rồi”, người mà nó thù hận bấy lâu nay. Tuy ông chưa mãn thời hạn tù nhưng vì ôm
lấy trong người căn bệnh ung thư giai đoạn cuối đang nằm trong bệnh viện. Nó
dằn lòng hồi lâu, rồi quyết định làm việc tốt cuối cùng dành cho ba nó. Một
tháng gần ba nó, nó không nói gì, mặc cho ông hỏi nó điều gì. Phút hấp hối đến
với ba nó
- Ba
có lỗi với má và con nhiều, ba phải hối hận đến hết đời trong tù, ba không mong
con tha thứ nhưng xin con hãy gọi ta một tiếng “ Ba” .
Nó làm ngơ trước lời của ba nó, nhưng nó cũng
không nở để ông ấy đi không bình an.
- Ba.
Tiếng
gọi cuối cùng của nó mà ông có thể nghe được trước khi nhắm mắt.
Nó đã
không giữ được lời hứa của mình, đã tha thứ cho ông ấy nhưng điều ấy giúp nó có
thể nhẹ lòng và bình an trên con đường mà nó sắp chọn, mở ra cuộc đời nó một
trang mới, tốt đẹp hơn trong tình yêu đầy quan phòng của Chúa. Nó lo chu tất
mọi chuyện cho Ba, đi học lại lớp bổ túc văn hóa. Nó trở lại Sài Gòn, xin nhập
dòng và khoác lên mình chiếc áo nâu khó nghèo của Phanxicô.
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc thi lần thứ ba - 2015
GIẢI
VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn
thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với
giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây
bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định
như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc
thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ
sáu (2018) dành cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao giải
tổng kết.
2.
Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui
Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt
giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự
tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3.
Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng
tác. Phải là sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi
ở bất cứ đâu.
4.
Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát
hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi
xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề
tài: Truyện cần mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân
Chúa và loan báo Tin mừng cho người chưa biết Chúa.
6. Mỗi
năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có thể gửi chung một lần
hoặc nhiều lần.
7.
Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8.
Đầu bài dự thi phải ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm
nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù
đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các
chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9.
Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau
đều không được chấp nhận.
10.
Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
11.
Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được
đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12.
Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng,
theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13.
Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14.
Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15.
Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần
tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16.
Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17.
Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ
cấu giải thưởng
Mỗi
năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một
giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai
giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba
giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15
giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển
tập truyện ngắn riêng
Ngoài
phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có
giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200
trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những
tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và
không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ trao giải 21-9 mà
không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải thưởng, nhưng vẫn
được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1.
Bình chọn
Các
truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời
độc giả tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng
đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng
nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao
giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2.
Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những
độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin
ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe
về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban
Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc
hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP
Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com – Điện thoại: 0935-424-449.
Cập nhật
Qui Nhơn, ngày 23-9-2014
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn