GIẢI VIẾT VĂN
ĐƯỜNG TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 06
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Chưa có ai làm
một bản thống kê chính xác về độ tuổi các tác giả văn học Công giáo Việt Nam
hiện nay, cả trong và ngoài nước. Tuy thế, chỉ cần nhẩm tính từ 3 website lớn:
Vietcatholic, Thanhlinh.net và Conggiaovietnam đủ thấy hầu hết các tác giả đều
đã trên 50, nếu không nói là trên 55 tuổi. Số tác giả dưới độ tuổi ấy, cả nơi
giáo dân lẫn nơi giới tu sĩ, rất hiếm hoi. Không riêng khả năng sử dụng tiếng
Việt nơi thế hệ thứ ba và thứ tư của đồng bào người Việt hải ngoại bị giảm sút,
ngay cả nơi các bạn trẻ trong nước cũng thế, do đó số người thích thú với việc
viết văn không còn mấy. Trước sứ mạng loan báo ơn cứu rỗi cho đồng bào, tình
trạng này rất đáng âu lo. Nếu không tìm kiếm, cổ động và đào tạo, ít lâu nữa
chúng ta sẽ không còn những người loan báo Tin mừng cách hữu hiệu qua văn
chương nghệ thuật và các phương tiện truyền thông. Đó là lý do tại sao Ban mục
vụ Văn hóa và Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn nhận thấy cần phải đầu tư cho một
giải thưởng truyện ngắn kéo dài 6 năm mang tên: Giải Viết Văn Đường Trường.
Sau nửa chặng
đường, số lượng và độ tuổi các tác giả dự thi năm thứ ba (2015) đã đem lại một
niềm hy vọng lớn cho Ban Tổ chức. Trong số 95 tác giả dự thi, có 2 người chưa
bổ sung thông tin về năm sinh, còn lại 41 người ở độ tuổi 26-40 và 52 người ở
độ tuổi 16-25. Ước mong quý độc giả, nhất là những vị giàu khả năng và tấm
lòng, rộng tay hỗ trợ về tài chính, để càng ngày cuộc thi càng đem lại nhiều
kết quả, hứa hẹn cho một tương lai khởi sắc của Giáo hội Việt Nam.
Kết quả cuộc
thi năm nay sẽ được công bố trong lễ trao giải được tổ chức tại Chủng viện Qui
Nhơn tối Chúa nhật 20-9-2015. Tất cả các tác giả có bài vào chung khảo đều được
mời tham dự ngày họp mặt các tác giả văn thơ Công giáo lần thứ IV, từ chiều
19-9 đến tối 20-9-2015. Chúng tôi sẽ gửi thư mời riêng đến từng người.
Xin mời quý độc giả tiếp tục theo
dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào
xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả
đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm, đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự
họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình
chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp
theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính
theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.
Cũng mong quí độc giả nào phát hiện
có truyện dự thi đã sao chép từ một truyện khác, xin gởi thông tin về cho Ban
tổ chức qua email: gopnhattho@yahoo.com – Khi có đầy đủ bằng chứng xác thực, chúng tôi sẽ loại
bài đó và cả những bài khác của cùng tác giả ra khỏi cuộc thi.
Xin chân thành cám ơn các trang
truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý
tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc
thi. Chúc tất cả một Mùa Phục Sinh đầy ơn phước Chúa.
Qui Nhơn, ngày 08-04-2015
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã
số: 15-065
Tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu ngành kĩ thuật công
trình xây dựng, anh xin được một công việc ngon lành cho một công ty xây dựng
có tiếng. Anh được phân công làm giám sát hai công trình lớn ở thành phố, những
tưởng đó là cơ hội cho anh phát triển sự nghiệp, thì đó lại là nguyên do khiến
anh bị hạ cấp, bị đưa về làm giám sát cho một công trình nhỏ vùng quê ven đô
này. Cái nguyên cớ cũng dễ hiểu, anh “non nghề” nên không phát hiện được các
mánh lới của các đội thợ chuyên nghề “rút ruột” công trình, khi phát hiện ra,
anh tố cáo thì bị những sếp đã nuốt đầy bụng kia chèn ép, lập mưu hại anh, và
thế là anh…bay. Lần cuối đi kiểm tra công trình, anh nghe được người ta nói với
anh rằng: “Không bị đuổi thẳng đã là may đời rồi đấy, ngon hả, ăn không biết
đường mà ăn”. Anh thở dài, buồn, tức!
***
Ngày đầu về công trình
mới này, anh đi kiểm tra tất cả các hạng mục đã thi công trước đó để nắm bắt
tình hình ở công trình mới này. Anh ngạc nhiên phát hiện ra rằng tất cả các
hạng mục đều đạt tiêu chuẩn thiết kế. Quái lạ, chẳng lẽ còn có chiêu ăn bớt nào
cao tay đến thế? Câu hỏi cứ ám ảnh anh, khiến anh quyết tâm “điều tra” cho kì
được.
Suốt giờ lao động, anh có
mặt tại công trường, tất cả các phần việc đều nằm trong tầm ngắm của anh, chỉ
cần một dấu hiệu nhỏ thôi là anh sẽ phát hiện ngay. “Tôi đây tinh đời rồi,
không còn dại nữa đâu, tôi mà tìm ra thì các người biết tay tôi”, anh nghĩ như
thế suốt buổi. Một tuần, hai tuần, ba tuần …rồi một tháng, hai tháng trôi qua,
anh vẫn chẳng nhận thấy bất kì một dấu hiệu khả nghi nào hết. Trái lại, anh còn
nhận ra là đội thợ này làm việc rất chăm, rất vui vẻ và đoàn kết với nhau, cứ
như thể họ đang xây nhà cho chính họ ở không bằng.
Không tìm được chứng cớ
trực tiếp, anh nghĩ ra kế sách để lừa tụi này vào tròng. Anh kéo riêng người
trưởng cai ra một góc kín, lịch sự mời ông một điếu thuốc rồi tỉ tê câu chuyện.
Biết gia cảnh của cả đội thợ đều là những người vùng quê nghèo, anh tỏ vẻ cảm
thông. Rồi anh vào đề: “Anh trưởng cai này, thật ra, anh em mình đều khó khăn
cả, nếu chỉ chờ vào đồng lương thì không đủ sống, với lại công trình này cũng
là của nhà nước, thế nên nếu các anh muốn có chút ít để mà uống cốc bia, thi
thoảng gọi là cải thiện đời sống thì cứ khéo mà làm, chỉ cần các anh đừng quên
phần em là được rồi”. Đang ngậm điếu thuốc trên miệng, người đàn ông dừng lại,
từ từ bỏ điếu thuốc xuống, chăm chú nhìn anh, vẻ mặt rất lạ. Ánh mắt đó làm anh
lúng túng, không biết cái nhìn này là ý gì, anh hồi hộp chờ bên kia lên tiếng.
Khẽ thở dài, người đàn ông có mái tóc hoa râm buông nhẹ: “Anh kĩ sư này, tôi
nói thật, anh thông cảm, tôi hiểu là cái thời này chuyện ăn rút, ăn trộm, ăn
cắp nó như là đương nhiên. Tôi cũng không chê trách hay coi thường anh, nhưng
tôi phải nói thẳng với anh là từ ngày tôi đi làm xây dựng tới nay, khó nhọc,
khốn khổ nhiều, nhưng thợ của tôi chưa bao giờ tôi cho phép họ làm những điều
trái lương tâm như thế đâu anh ạ. Anh thông cảm, chúng tôi là người Công Giáo”.
Anh như bị dội gáo nước lạnh vào mặt, bất chợt, anh đứng ngây người, không biết
nói thế nào nữa, điếu thuốc lá trên miệng anh không kịp bỏ ra, anh luống cuống.
Người đàn ông hút thêm một hơi thuốc rồi vứt xuống nền đất, đưa chiếc ủng dẫm
cho tắt khói rồi bước qua mặt anh, bỏ đi. Anh hoàn hồn, rút điếu thuốc ra, ném
nhẹ xuống đất. “Mẹ kiếp, hắn dám xúc phạm mình như thế này à? Nhục. Nhưng mà có
khi nào hắn nói thật không?”… Nghĩ ngợi một lúc, anh bỏ đi, không quên dẫm mạnh
lên điếu thuốc còn đang khói. “Được rồi, ông sẽ vạch mặt tụi mày ra”.
Những tối sau đó, anh cất
công lên công trình, ngồi gọn trong một góc của gian phòng bảo vệ chẳng khi nào
có người, ngay đầu công trình. Anh tin chắc rằng đám thợ kia vẫn có cách nào đó
lấy trộm vật liệu trong kho đem bán ban đêm, muốn ăn mà không muốn chia cho
mình, vậy nên anh ngồi rình ở đó, hy vọng sẽ bắt được quả tang. Hơn một tuần,
anh không bỏ tối nào. Anh thấy mệt mỏi vì thiếu ngủ. Mấy ngày sau anh không lên
công trường…
Nằm trên giường, anh cứ
miên man suy nghĩ về ba từ Đạo Công Giáo mà người đàn ông kia đã nhắc tới. Anh
nhớ lại hồi học đại học, anh cũng có một người bạn xưng là người Công Giáo. Anh
bạn này cũng khác biệt: không nói bậy bạ, không đàn đúm karaoke hay chơi games
cùng đám bạn, không chịu đóng tiền “đút” giáo viên bao giờ, dù nhiều lần bị
giáo viên trù cho điểm thấp. Anh càng nghĩ càng thấy lạ. Hồi đó, cả lớp anh đều
cho là anh bạn đó có vấn đề, cổ hủ, không thức thời, ngu. Riêng anh thì chỉ
thấy lạ thôi, anh không ghét anh bạn đó, vì anh ta là một người tử tế, lịch sự,
hài hòa và vui vẻ. Hình như cách đây không lâu, anh vô tình lướt Facebook thấy
anh bạn đó đăng một tấm ảnh mà anh cùng vài người khác mặc một bộ đồ đen dài từ
cổ xuống chân. Anh đọc một lượt các bình luận, cứ thấy người ta chúc mừng và
gọi anh bạn đó là “thầy”. Còn một điều nữa cứ vẩn vơ trong tâm trí anh, đó là
những buổi đi “rình” đám thợ, anh phát hiện ra là mỗi tối, cả đám thợ tập trung
lại rồi cùng rầm rì đọc đi đọc lại mấy câu “thần chú” nhà đạo thì phải. Gì đó
mà anh chỉ nghe được mấy câu “kính mừng Ma…” gì đó, và nhiều nhất là từ “a-men”
thì phải. Lạ thật, đám thợ này không biết chơi bài bạc về đêm như các đám thợ
khác mà anh đã từng làm việc cùng. “Niệm chú” xong, tắt điện, ngủ. Nghe nhiều,
anh không thuộc nhưng anh biết lúc nào sẽ đọc câu “a-men”, nhiều lần, vô thức
anh cũng buột miệng “a-men” theo nhịp của những lời đám thợ đọc. Xem ra đội thợ
này là người tốt thật!
Trưa ngày thứ ba, anh
nhận được cuộc gọi của người trưởng cai đoàn thợ hỏi về một số vấn đề kĩ thuật.
Anh thấy mình thật sự mệt nhừ, chân tay rã rời, miệng khô khốc, nhạt tệch. Ừm,
mấy ngày nay anh chỉ ăn mì gói thôi mà.
Cộc. . cộc. . cộc…, tiếng
gõ cửa khá mạnh đưa anh ra khỏi cơn mơ màng. Ai mà lại đến thăm mình nhỉ, từ
ngày về đây có quen ai đâu. Anh tính dậy mở cửa, nhưng không ổn rồi, hình như
đôi chân đang đặt trên giường là của ai đó, không phải của anh nữa. “Anh kĩ sư
có nhà không vậy?”, có tiếng người đàn ông cất lên. “Vào đi ạ”, anh cố cất
giọng, the thé. Hình như nó không đạt “vô-lum” như anh mong đợi. Cánh cửa từ từ
mở, ánh sáng bên ngoài làm anh lóa mắt, lúc người khách tới gần giường mình anh
mới nhận ra đó là một người đàn ông có mái tóc hoa râm: Ông trưởng cai! Anh
tính cố ngồi dậy thì người đàn ông đã vội giữ vai anh lại: “Chú cứ nằm nghỉ đi,
lúc trưa, nghe giọng chú anh đã đoán là chú không khỏe rồi, nhưng không ngờ chú
lại nặng thế này. Thế mà cũng chẳng cho anh biết tình hình gì cả”. Anh cười
gượng gạo, hỏi một câu không ăn nhập gì: “Mấy giờ rồi anh?” – “Ba giờ hơn rồi,
chú bị sốt cao đấy, nằm nghỉ, chờ anh một chút, anh chạy ra chợ kiếm cho chú
bát cháo với mấy liều thuốc”. Người đàn ông bỏ đi vội tới mức làm anh chưa kịp
nghĩ ra phải nói thế nào với người đàn ông. Cánh cửa khép lại, tiếng xe máy nổ
nhỏ dần… Đầu óc anh lại ngập tràn những ý nghĩ mông lung: sao anh trưởng cai
này lại tốt thế nhỉ? Mà mình có cho ai ở đội thợ biết địa chỉ đâu…. Anh ấy tốt
thế, vậy mà mình lại nghĩ xấu cho họ như thế, tội thật. Mà bây giờ biết nói thế
nào với anh ấy đây… Chập chờn hình ảnh mẹ anh hiện về trong tâm trí, mẹ đến
gần, đặt tay lên trán anh, kéo cái chăn mỏng đắp cho anh những ngày anh ốm. Anh
cảm nhận sự ấm áp và mềm mại của bàn tay mẹ anh… “Dậy ăn chút cháo cho khỏe chú
kĩ sư ơi. ” Giọng người đàn ông làm anh tỉnh giấc, nhận ra đó không phải bàn
tay mẹ anh, nhưng là chiếc khăn ấm ai đó mới đặt trên trán anh. Anh ngoan ngoãn
nuốt từng thìa cháo mà người đàn ông đưa vào miệng anh. Lạ thật, anh không phản
kháng, không thắc mắc… Tình thương là cái gì đó đi qua được tất cả các rào cản
vững chắc nhất của con người!
Chiều hôm đó, anh đã bộc
bạch tất cả những ý nghĩ, cả những hành động của anh nhằm “vạch trần” đội thợ
của người đàn ông. Người đàn ông nhìn anh chăm chú lắng nghe, thi thoảng lại
mỉm cười, lắc nhẹ cái đầu, nhìn bâng quơ ra phía cửa sổ… Khi anh nói lời xin
lỗi, như để kết thúc mạch kể chuyện, hay đúng hơn là màn thú tội của mình,
người đàn ông cười, nhìn lên trần nhà: “Tôi chẳng trách chú đâu, thời buổi này,
tin tưởng nhau là một cái gì đó quá xa xỉ, kiếm đâu được mấy người đáng tin!
Chú nghi ngờ chúng tôi cũng là hợp lí thôi mà”. Anh buột miệng: “Nếu ở đâu cũng
là thợ xây Công Giáo cả thì tụi em đỡ khổ!”. Người đàn ông cười vang: “Này, anh
nhắc chú là không phải người nào mang danh có đạo cũng đều đáng tin cả đâu”.
Anh đăm chiêu, vẻ mặt ngơ ngác. Người đàn ông hiểu được thắc mắc của anh, tiếp:
“Thật sự là có nhiều người theo đạo Công Giáo, nhưng họ không sống đúng theo
đạo dạy chú ạ. Cũng vì những người đó mà người ta nghĩ xấu cho đạo Công Giáo
của anh nhiều lắm”. Người đàn ông buông một tiếng thở dài, vẻ mặt buồn, nghĩ
ngợi gì đó xa xa…
Tối đó, căn phòng trọ của
anh tắt điện khá sớm, nhưng trong phòng vẳng nghe tiếng hai người đàn ông nói
chuyện, một người trẻ, một người trung tuổi. Họ nói với nhau gì đó, lâu lắm,
chẳng biết nữa, chỉ nghe loáng thoáng vài từ: Đạo Công Giáo…Giêsu…Maria…
Hết giờ làm trưa hôm sau,
người đàn ông mang đến hai xuất cơm hộp, kèm theo một quyển sách nhỏ, nói với
người thanh niên: “Đây, chú ở nhà, có thời gian rảnh thì đọc cuốn này, Thánh
Kinh đấy, đọc mà biết rõ về Đức Giêsu hơn, khỏi thắc mắc”.
Những ngày sau đó, anh
đọc nghiền ngẫm từng đoạn ghi trong cuốn mà anh bắt đầu tin là Sách Thánh. Rồi
anh lên Facebook, cố tìm lại địa chỉ của người bạn Công Giáo xưa, sau nhiều lần
ngần ngại, cuối cùng, một tin nhắn đã được gửi đi kèm theo với một “yêu cầu kết
bạn”. Mọi sự cứ đẩy đưa, từ lúc nào, anh đã bị các giờ “niệm chú” của đoàn thợ
cuốn hút, anh hiểu ra đó là lúc người Công Giáo cầu nguyện với người Mẹ của
mình ở trên trời: Mẹ Maria.
Bip…bip…tiếng âm báo điện
thoại làm cho hai người đàn ông đang bàn việc dừng lại. Người trẻ hơn rút điện
thoại lên, xem giờ, cười: “Thôi, tới giờ em học giáo lý “online” với người thầy
bạn của em rồi, anh cứ tiếp tục làm như vậy đi nhé”. Người đàn ông có mái tóc
hoa râm cười, vỗ vai: “Được rồi, chú học cho tốt nhé!”.
Dòng đời cứ trôi, những
đàn chim sẻ vẫn bay lên, đáp xuống trên triền đê của ngôi làng vên đô, những
người công nhân cứ ngày ngày miệt mài, tiếng kinh nguyện vẫn đêm đêm vang vẳng;
cảnh sắc đất trời cứ ngày ngày thay đổi một cách vô tình. Và, thế giới của người
thanh niên kia cũng thay đổi. Anh thay đổi suy nghĩ của mình về ý nghĩa cuộc
đời, về mục đích của đời người, của sự hiện diện của anh trên cõi đời này, của
việc anh bị “đày” về công trình nhỏ này… Anh như sống một đời sống khác, một
đời sống có sự hiện diện của một người có tên là Giêsu.
***
Người thanh niên mặc
chiếc áo đen từ cổ tới chân ngồi chấp tay, nhắm nhẹ đôi mắt trước chiếc máy
tính đang mở trang Facebook. Có giọt nước mắt đang luồn lách qua mí mắt anh.
Trên màn hình vẫn còn hiện vài tin nhắn đến: “Thầy bạn ơi, hôm nay, cha xứ đã
kiểm tra giáo lý của mình rồi, cha hỏi “Con biết gì về đạo Công Giáo mà con
định theo?”, mình trả lời không ấp úng: “Với con, Chúa là một người rất mực
thương con và mọi người. Chúa từ trên trời xuống làm người để giải thoát con
người và cho con người được biết về chính Thiên Chúa. Con nghĩ, nếu hôm nay
Chúa Giêsu mà xuống thế làm người nữa, có lẽ Chúa sẽ là một người thợ xây hiền
lành. Chính Chúa đã cho con biết được ý nghĩa đời con: Chúa muốn con sống hạnh
phúc, Chúa yêu thương con cha ạ. ” – “Thế con nghĩ sao về các điều phải giữ khi
theo đạo?”, cha hỏi tiếp. Mình đã cười và nói thế này nè: Giống như những người
thợ xây phải nghe theo các chỉ dẫn của con, là một kĩ sư, để có được một công
trình tốt đẹp, thì con nghe theo các chỉ dẫn của Chúa để đời con được tốt đẹp,
được hạnh phúc. Với lại, Chúa dạy toàn những điều tốt đẹp, cớ sao mình không
làm cha. Cha hỏi câu cuối: “Thế con đã nhờ người đỡ đầu cho con chưa vậy?”.
Mình trả lời ngay: Dạ, anh trưởng cai đoàn thợ sẽ đỡ đầu cho con, có được
không, thưa cha?. . . . ” Dòng nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt phúc hậu đang
đầy vẻ hạnh phúc của người thầy tu mặc chiếc áo đen dài từ cổ tới chân…
Chuông nhà thờ đổ…. . Lễ
đêm Phục Sinh…
***
Tôi kết thúc câu chuyện ở
đây. Có người nói tại sao không viết tiếp cho câu chuyện có kết. Tùy bạn thôi!
Có người sẽ cho anh kĩ sư trở thành một Kitô hữu tốt, người khác muốn cho anh
đi tu, làm linh mục… Tùy bạn thôi! Với tôi, đến với Chúa, đi theo Chúa là một
hành trình. Còn cái nhan đề, sao nó cũng lấp lửng, không trọn vẹn. Cũng tùy bạn
thôi! Bạn có thể thêm vào đó là đường vào đạo, đường vào hạnh phúc, đường vào
thiên đàng… Tôi muốn kết lại câu chuyện như vậy để mỗi người cũng đi tìm, đi
tìm chính mình, đi tìm người anh em, đi tìm Chúa, đi tìm “Đường vào”…. Người kĩ
sư đó là ai? Có thể bạn đã gặp đâu đó trên đường đời, có thể là chính bạn!
Người đàn ông có mái tóc hoa râm kia là ai? Tôi mong đó là sếp bạn, là người
thân của bạn, là tôi, là chính bạn! Người thầy tu mặc chiếc áo dòng đen kia là
ai? Bạn hãy đi tìm những câu trả lời trong chính cuộc sống mình. Riêng với ai
là người Kitô hữu, tôi mong họ đều là những người thợ trong đội thợ xây kia!
Mã
số: 15-066
Tiếng chuông nhà nguyện vang lên, nó cùng các chị em dự tu bước
vào thánh đường, quỳ trước tôn nhan Chúa và bắt đầu cầu nguyện. Giờ phút linh
thiêng nhất sau một tháng học tập mệt mỏi chính là lúc này. Chị em mỗi đứa một
nơi cứ tới ngày này của tháng lại tụ họp bên nhau, và hơn hết là được cùng nhau
ngắm Mình Thánh Chúa, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng Người. Không khí
thinh lặng tĩnh mịch đến lạ thường, thoang thoảng đâu đó mùi hương trầm hòa
quyện với bao sắc hoa trang trí trên cung thánh, tất cả tạo nên một thiên đường
hạnh phúc. Nó mơ hồ trong khoảng không gian vô định, chợt nghe có tiếng ai đó
gọi: “Hãy bước đến cùng Ta”, và văng vẳng bên tai: “Hãy quay trở lại”. Quay đầu
nhìn về hai hướng, nó mông lung dừng bước lựa chọn. . .
***
Hai năm cho một mối tình đầu, nó tình cờ quen hắn trên facebook
vào đầu năm thứ 2 của thời sinh viên. Câu chuyện bắt đầu bằng một lời khen qua
mạng: “Nhìn bạn nhỏ nhắn dễ thương nhỉ”. “Miếng ngọt lọt tới tai”, thế là nó và
hắn bắt đầu quen nhau. Nó không ngần ngại nói với hắn mình là một dự tu và mãi
mãi sẽ theo Chúa nhưng hắn chấp nhận tất cả. Một tháng, hai tháng nó và hắn chỉ
là bạn với đôi dòng tin nhắn hỏi thăm sức khỏe, học tập. Ba tháng, bốn tháng
lại là anh em với hàng chục tin nhắn báo hiệu cho tình yêu bắt đầu nảy nở như
nụ hoa dần hé mở. Tình cảm ấy lúc đầu chỉ là thử yêu nhưng ngày một lớn dần,
đôi bạn tâm giao tình cờ ngày nào không ngẫu nhiên mà yêu nhau dù rằng mỗi đứa
mỗi nơi, mọi vui buồn trong cuộc sống hàng ngày đều được san sẻ cùng nhau,
chính điều đó đã gắn kết nó và hắn với nhau. Khoảng thời gian ấy nó chỉ nghĩ
đến hắn để rồi tự biện hộ cho bản thân: “Hãy thử yêu để vững chắc hơn trên con
đường tu trì sau này”.
Ngày ấy, cái “tôi” của nó quá lớn để chấp nhận mình yếu đuối. Nó
tự tin cho rằng mình sẽ không dễ gì sa ngã như những người khác. Họ không làm
được nhưng mình sẽ làm được. Trong ý nghĩ non nớt của nó: “Yêu để sau này không
phải vấp ngã, yêu để mạnh mẽ hơn trong tình yêu Chúa”, mà quên rằng đó có thể
là khởi đầu cám dỗ của ma quỷ. Thế nhưng Chúa lại ưu ái cho nó, nó may mắn vì
gặp được hắn - một anh chàng đạo gốc rất sốt sắng, lại thấu tình đạt lý, hiền
lành và tốt bụng. Dù biết nó có ý định đi tu nhưng vẫn chấp nhận yêu đến khi nó
đưa ra quyết định cuối cùng, tình yêu trong sáng ấy càng làm nó bấp bênh hơn.
Hai năm yêu nhau chỉ vỏn
vẹn hai lần gặp gỡ, tuy xa mặt nhưng không cách lòng. Mỗi lần gặp nhau là một
lần để quan tâm nhau hơn, đó thật sự là những ngày tháng hạnh phúc nhất. Trải
qua những giận hờn, trách móc nó lại càng thấm thía cái cảm giác yêu, hiểu và
thông cảm cho nhau nhưng trên hết tình yêu Chúa vẫn luôn định hướng nó. Sở dĩ
nó giấu vì không muốn mọi người hiểu sai tình yêu của nó, cho nó là kẻ làm tôi
hai chủ. Nhưng nào ngờ “kim trong bọc rồi cũng có ngày lòi ra” . . .
- Sao mày lại sống giả tạo như thế hả con kia?- Chị Hai nghiến
răng hét vào mặt nó.
- Mày dối trên lừa dưới thế mà tu với chả không. Đồ hai mặt!
Lời nói như xé từng thớ thịt nó. Tim nó như ngừng đập, đau đớn
đến tột cùng, hai hàng nước mắt lăn dài trên má, tay chân bủn rủn vì lo sợ một
điều gì đó sắp xảy đến, cổ họng nghẹn ứ không nói nên lời. Chị nó vẫn tiếp tục.
. .
- Mày như thế mà bày đặt đi lễ, đọc kinh… Cái thứ giả dối!- Chị
nó thốt ra những lời mỉa mai chua chát mà không biết rằng lòng nó đau gấp ngàn
lần.
Nó đã cố giấu mọi người suốt hai năm qua, nhưng chị nó lại vô
tình đọc được tin nhắn điện thoại lúc nó không có ở nhà. Tất cả như hình phạt
cho cái tội giả dối. Nó rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Phải chăng đây là cách để
nó chấm dứt tất cả. Nhưng không… Nó thững người lại, nó không thể làm thế ngay
lúc này, vì hắn đang phải trải qua kì thi học kì. Nó đắn đo và rồi cố nuốt nước
mắt chịu đựng trước những lời nói cố chấp bắt tội của chị nó. Đêm nào nó cũng
khóc, khóc để vơi đi tất cả, khóc để lòng nhẹ nhõm hơn, khóc để ngày mai bước
tiếp. Ai cũng cho đó là sai trái và giả dối nhưng nào có ai hiểu, biết đâu đó
có thể là thử thách Chúa đặt ra cho nó vì nó cũng đâu muốn thế, cứ như một định
mệnh đến rồi đi âm thầm lặng lẽ quấn lấy nó. Bên trong thâm tâm, nó nghĩ rằng
tất cả là thử thách của Chúa chứ không phải là cám dỗ đời thường vì những lúc
tưởng chừng như vấp ngã Chúa lại thức tỉnh nó, giúp nó trưởng thành hơn trong
suy nghĩ, lời nói và hành động mà chỉ mình nó biết.
Thời gian thấm thoát trôi qua mang theo tình yêu lớn dần cùng
năm tháng. Năm cuối của đời sinh viên, mỗi lần gặp, Soeur giáo lại hỏi về dự
định sắp tới của nó. Nó phân vân, do dự hẹn soeur vào tháng sau dù biết mình
đang muốn hướng về bên nào nhưng nghĩ đến hắn nó lại muốn vẹn cả đôi đường. Cứ
như thế, thời hạn tìm hiểu ơn gọi ba năm cũng đã gần hết, các chị em ai cũng đã
đưa ra quyết định của mình, chỉ có mình nó lúc nào cũng lo toan với mớ suy nghĩ
hỗn độn. Nó chần chừ vì sợ mình sẽ đi sai ơn gọi của Chúa, nó lo lắng vì sợ hắn
sẽ không thể vượt qua nổi vì tình yêu mà hắn dành cho nó có lẽ là quá lớn (nó
cảm nhận điều đó). Lúc nào nó cũng lẩm bẩm: “Lạy Chúa, nếu là thử thách Chúa
muốn con vượt qua thì xin Chúa hãy soi sáng, để con đưa ra quyết định đúng đắn
theo như ý Chúa muốn”.
Thỉnh thoảng dòng tin nhắn lại đến: “Anh sợ sẽ mất em. Đêm nào
anh cũng mơ thấy mình xa nhau. Dù biết mình phải tôn trọng quyết định của em
nhưng giờ này với anh em là tất cả. Anh sẽ chết mất nếu không còn em bên anh”.
Lòng nó như thắt lại, cảm giác lạnh đến thấu xương.
Và thỉnh thoảng cha xứ lại bảo: “Đi tu đi con. Đời sống tu sẽ
rất tốt cho con. Cha thấy con có ơn gọi đó”. Mỗi khi gặp, soeur giáo lại hỏi: “Sao
rồi con? Quyết định nhanh để soeur còn chuẩn bị đồ nhập dòng chứ. Ai cũng xong
cả rồi còn chờ mỗi mình con thôi” . Tất cả cứ quanh quẩn trong đầu nó: “Làm sao
để trọn vẹn cả đôi đường, Chúa ơi?”. Nhiều lúc nó muốn phát điên lên…và ước đó
chỉ là cơn ác mộng…
***
“Chúa ở cùng chị em”, câu chúc lành của cha linh hướng vang khắp
nhà nguyện làm nó giật thót người. Thì ra nó đã quỳ như thế cả buổi, giờ kinh
đã xong, giờ chầu cũng đã đến hồi kết thúc. Nó bối rối đứng dậy trước hàng chục
ánh mắt hướng về nó tự lúc nào, mặt nó đỏ bừng, đôi chân chùng xuống vì tê
buốt, hai hàng nước mắt vẫn còn đó. Hướng lên Thánh Thể Chúa nó bỗng thấy lòng
thanh thản, thì ra nó thuộc về nơi này. Tất cả mọi thứ đều trở nên tươi mới
giống như lòng nó ngay giờ phút này. Dường như tình yêu đôi lứa mong manh trong
nó đã nhường chỗ cho tình yêu Thiên Chúa vô bờ. Một luồng gió nhẹ khẽ len lỏi
qua ô cửa kính loang khắp nhà nguyện, không khí thật ấm áp nồng nàn. Nó chợt
nhận ra hình như xuân đã về, câu lời Chúa lộc xuân mà nó vô tình hay hữu ý hái
được sáng mồng một tết lại thánh thót vang cả không trung: “Chúa chính là gia
nghiệp và là phần phúc của con” ( Tv 15 ). Nó thầm xin Chúa luôn đồng hành giúp
đỡ người ấy vượt qua mọi khó khăn, đau khổ và nhanh chân bước lại gần soeur
giáo thỏ thẻ bên tai người: “Soeur ơi! Con đi tu nha”. Một chân trời mới mở ra
trước mắt nó với những niềm vui hay nỗi buồn mà chỉ có Chúa biết. Cảm tạ Hồng
Ân Chúa. Nó nhận ra tình yêu trần gian rồi sẽ có lúc tàn, chỉ có tình yêu Thiên
Chúa là vĩnh hằng mãi mãi.
Mã
số: 15-067
Trời
đã tờ mờ sáng, sau khi dìu Tâm vào phòng, chị mỏi mệt lảo đảo bước ra. Ngó bâng
quơ vô định hồi lâu, chị thọc tay vào túi áo lôi ra tờ giấy xét nghiệm được gấp
làm đôi, chị muốn xem lại nó lần nữa. “Nhỡ bác sĩ nhìn nhầm thì sao?”, cái suy
nghĩ ấy thoáng xuất hiện gợi lên trong chị chút hy vọng mong manh thật. Cầm tờ
giấy, tay chị run run ớn lạnh bởi nó như bản án tử mà hôm qua chị nhận được từ
tay bác sĩ. Chị vẫn chưa tin những gì đang xảy ra, phải chăng tất cả là một cơn
ác mộng, và trong cơn ác mộng đó, chị sắp phải mất đứa con độc nhất của mình.
Chân tay chị bủn rủn, mềm dần ra, và khi cảm thấy không còn khả năng trụ vững
nữa, chị thả mình rơi bịch xuống nền nhà. Tờ giấy xét nghiệm chị vẫn nắm chặt ở
tay. Sự hoang mang dần dà xâm chiếm lấy chị không một chút thương tiếc. Nhưng
lúc này chị phải mạnh mẽ, chị tự nhủ với mình như vậy, chị phải mạnh mẽ vì Tâm,
chị phải kiên cường vì Tâm. Chị ước tờ giấy xét nghiệm này là của chị chứ không
phải của bất cứ ai trong ngôi nhà bé nhỏ này. Mà còn có ai nữa đâu, ba Tâm bị
tai nạn và mất khi Tâm đang bập bẹ gọi ba, chị ở vậy nuôi Tâm cho trọn nghĩa,
căn nhà nhỏ có lẽ sẽ thêm hiu quạnh nếu một mai thiếu Tâm.
Liếc nhìn qua chồng sách vở vừa được Tâm bao
bọc dán nhãn cẩn thận mấy hôm trước mà nước mắt chị cứ ứa ra, lem nhòa. Không
phải chị tiếc vì phải bán tháo đàn gà để mua mới chúng, nhưng chị khóc vì nghĩ
tới niềm vui không được trọn vẹn của Tâm, còn cái cặp mới để trên kệ là phần
thưởng cho những nổ lực học tập của Tâm. Chị biết Tâm không đua đòi theo chúng
bạn nhưng chị không muốn vì nghèo mà Tâm phải thiếu thốn những gì cần thiết cho
việc học. Chị vẫn chưa quên ánh mắt tươi vui, hạnh phúc cùng những nụ cười giòn
tan của Tâm khi nhận được chiếc cặp mới.
-Cặp này đẹp quá, mẹ mua cho con hả mẹ?
-Ừm, mẹ mua cho con. Mẹ thấy cặp con cũ quá rồi, cái quai mẹ may
lại mấy lần mà cũng bứt ra rồi còn gì. Con thấy cặp mới sao, con thích màu này
phải không?- Chị nở nụ cười hiền, âu yếm áp cái cặp vào ngực Tâm. Mùi nhựa mới
và hình dáng thời trang của chiếc cặp như luồng gió xuân mát rượi quấn quýt vây
kín lấy Tâm khiến Tâm không khỏi thích thú reo lên sung sướng: “Thiệt hả mẹ, ôi
sướng quá! Đẹp quá!”._Chị cũng cười tít cả mắt theo Tâm, chị không ngờ Tâm lại
thích thú đến thế, nếu chị biết Tâm thích như vậy thì chị đã mua sớm hơn.
Chợt Tâm ngước lên chị, phân vân hỏi:
-Nhưng mẹ ơi! Cái này đắt không vậy mẹ?
-Không, cũng rẽ thôi con.- Chị biết Tâm đang lo chị không có
tiền, mấy ngày nay chị cứ loay hoay, chạy ngược chạy xuôi mượn tiền đóng học
phí cho Tâm, chẳng may Tâm nghe được…Chị áy náy, Tâm buồn. Tâm nhìn chị, ánh
mắt đượm buồn và có chút gì đó khó xử, chị có thể dễ dàng nhận ra điều đó trong
ánh mắt trong sáng của Tâm.
- Con đeo cặp cũ không sao mẹ ạ, nó vẫn còn tốt lắm mà.
- Mẹ thấy nó cũ quá, hình như mẹ mua nó cho con cũng đã bốn năm
rồi còn gì! Con cố gắng học thật giỏi là mẹ vui rồi.- Chị cúi xuống hôn lên
trán Tâm khích lệ. Trong chị bỗng dậy lên bao niềm hạnh phúc khó tả. Với chị,
đó là một hồng ân tuyệt vời Chúa ban cho chị. Tâm ôm chiếc cặp vào ngực xoa xoa
như để thỏa niềm vui thích, miệng lia thia cười nói: “Dạ, con cám ơn mẹ, con sẽ
cố gắng hết sức!”.
Nhưng hôm nay lại khác, vẫn cái không gian này, vậy mà chị lại
có cảm giác nó như một khối bê tông khổng lồ đang ra sức nhấn chìm chị xuống
đầm lầy, chị thấy ngột ngạt và muốn nổ tung ra. Tiếng rên rĩ khe khẽ của Tâm
vọng ra từ căn phòng như từng lát dao cứa vào tim chị, chị thấy tim của chị đau
thật đau, chị muốn chạy thật nhanh vào phòng để ôm lấy Tâm mà khóc. Nhưng chị
không muốn Tâm biết những gì chị đang biết, chị đành nắm chặt bàn tay đấm thình
thịch vào ngực mình cho vơi đi nỗi đau. Từ hồi đêm tới giờ, chị không chợp mắt,
trên chuyến xe từ Sài Gòn trở về Quảng Sơn, chị không nhớ mình đã khóc bao
nhiêu lần nữa, nước mắt chị cứ ứa ra mỗi lần Tâm đau nhức. Những đoạn đường gồ
ghề là những cực hình đối với Tâm, mỗi lần như thế, Tâm đều co rúm lại vì đau,
lâu lâu Tâm lại quay sang chị thì thào: “Mẹ ơi, con đau quá”, khiến lòng chị
không khỏi xót xa. Chị ôm lấy Tâm vào lòng mà khóc, chị ôm lấy Tâm như một bản
năng, mắt chị nhắm nghiền lại để không thấy những gì đang xảy ra, để cố gạt đi
những cảnh tượng khủng khiếp sắp đến, và để trong đầu chị lúc này không thể
nghĩ gì khác ngoài việc ở gần Tâm. Những lời bác sĩ cứ vang lên trong đầu chị,
“Xin chị bình tĩnh… Chúng tôi rất tiếc khi biết bệnh tình của con chị… Cháu bị
ưng thư máu giai đoạn cuối…”. Chúng như lũ ruồi đáng ghét đang bay loanh quanh
dày đặc khắp nơi, chúng phát ra những tiếng vo ve thật ù tai nhức óc, chúng
khiến chị muốn hét lên những lời than phiền trách móc: “Đáng ghét… Thật đáng
ghét… Cút đi!”.
***
Bên ngoài, mặt trời đã
nhô lên cao khỏi rặng núi phía xa, ánh sáng len lỏi xuyên qua cánh cửa dọi vào
ngay chổ chị. Chị ngồi bật dậy, tự nhủ với lòng mình là phải mạnh mẽ, mà không,
chị phải thật mạnh mẽ mới được. Ngoài thời gian chị ở bên cạnh Tâm, công việc
của chị là sắc thuốc, sáng- trưa- tối, nghe ai mách thầy nào thuốc nào là chị
không ngại đường xa, vay mượn tiền bạc để mua về, nhưng những mảng tím trên da
và những cơn đau nhức của Tâm thì ngày một nhiều hơn. Thoáng đó mà đã năm ngày
từ khi chị và Tâm từ Sài Gòn trở về. Tối hôm đó, đang loay hoay sắc thuốc dưới
bếp thì chị cứ có cảm giác hồi hộp, tim chị đập vào thành ngực nghe bình bịch…
Linh cảm khiến chị nghĩ ngay đến Tâm: “Chẳng lẽ… chẳng lẽ…Tâm…”. “KHÔNG”- Chị
thốt lên một tiếng rồi vội chạy lên nhà trên, chị càng cố chạy thật nhanh thì
chân chị càng xoắn quíu lại. Chạm mép cửa, chị đứng khựng lại khi thấy Tâm đang
nằm dài trên chiếc đi-văng đưa mắt hướng về phía chị.
-Gì mà mẹ chạy ghê thế?- Ánh mắt đầy thắc mắc, Tâm hỏi.
Thở hổn hển, chị ấp úng, sự lung túng lộ rõ qua đôi tay quơ quơ
vô phương trước mặt chị.
-À, có chuyện gì đâu, mẹ
để quên…. quên bịch thuốc bắc ở trong phòng nên vào lấy ấy mà! Mà con đang xem
gì đó, sao không vào phòng mà nằm, nằm đây cảm lạnh bây giờ!
-Dạ, nằm ở đây thoáng hơn, với lại tối nay có chương trình này
hay lắm! À, mà mẹ đang nấu gì dưới bếp vậy mẹ?
- Mẹ sắc ít thuốc cho con.- Vừa nói chị vừa bước đến ngồi xuống
cạnh Tâm, rồi cúi người hôn nhẹ lên trán Tâm, giọng nhẹ nhàng: “Con cố uống
thuốc để mau khỏi bệnh nghen!”.
- Mẹ ơi, bác sĩ nói con bị gì vậy mẹ?
Tâm lại hỏi làm chị có
chút bối rối. Mấy ngày nay, Tâm cứ hỏi lui hỏi tới mỗi câu hỏi này và chị cũng
trả lời đúng như những gì đã chuẩn bị trước, nhưng thấy Tâm cứ hỏi hoài, chị
đâm ra lo: “Không có gì đâu con, chỉ bị dị ứng thôi, chịu khó uống thuốc sẽ
khỏi à”.- Chị cầm lấy đôi bàn tay của Tâm đặt lên tay chị, xoa xoa nắn nắn,
dưới ánh sáng mờ mờ của bóng đèn điện, chị vẫn có thể thấy rõ những mảng tím in
rõ trên cánh tay Tâm.
- Con còn đau lắm không con?- Chị nhỏ nhẹ hỏi.
Tâm thoáng nhìn lên chị, chậm rãi đáp: “Dạ còn, nhưng con thấy
khá hơn nhiều rồi, mẹ đừng lo. Mà mẹ ơi…”
- Gì vậy con?
Tâm ngập ngừng hồi lâu, vẻ ngại ngùng nhưng rồi cũng nhìn thẳng
vào mắt chị: “Con yêu mẹ, con yêu mẹ nhất!”. Chị nghe Tâm nói mà lòng thổn thức
bồi hồi, chúng như cơn gió phút chốc thổi bay những sầu khổ, lo lắng đang ứ đọng
trong chị, cái cảm giác đó đối với chị ngay khoảng thời gian này là một điều xa
xỉ. Chị thấy mắt mình cay cay vì hạnh phúc, chị nâng bàn tay Tâm lên áp vào má
chị, ánh mắt đong đầy yêu thương. Nụ cười nở tươi trên môi chị thật tự nhiên
như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời.
- Mẹ cũng yêu con, cục cưng của mẹ! Con là tất cả của mẹ thì sao
mẹ không lo cho con được chứ…. khờ quá!- Vừa nói chị vừa nhếch nhếch vào má
Tâm.
Chị toan nhỏm người đứng dậy thì Tâm kéo ghì chị lại, nhìn thẳng
vào mắt chị: “Mẹ ơi, tối nay con chưa đi đâu. Hồi trưa con thấy Chúa, Ngài nói
hai ngày nữa Ngài mới gọi con mẹ ạ!”- Chị chợt rùng mình, bần thần tròn hai mắt
ngỡ ngàng xen chút sợ hãi, lòng tự hỏi có phải Tâm đang ở trước mặt chị không,
ánh mắt của Tâm, ánh mắt đó như đang xuyên thấu vào tâm khảm chị và đang đọc
thấy nỗi sợ hãi của chị. Chị lúng túng nói giật lại:
- Con nói bậy gì thế?- Chị hằn giọng xuống để bớt run nhưng hơi
thở vẫn bị đứt quảng, chị gắt: “Mẹ cấm con không được nói vậy nữa, nghe không!”.
Tâm như cảm nhận được tâm trạng của chị, liền nhanh nhảu cười hì
hì: “Con chỉ đùa thôi, mẹ đừng giận con nha mẹ, mà không phải mẹ đang sắc thuốc
à?”.
- Ôi, mẹ quên mất, chắc là cạn nước dưới rồi, con chờ mẹ chút!
Chị đặt nhẹ tay Tâm xuống, kéo chăn phủ lên, rồi đứng phắt dậy
chạy ùa xuống bếp, dường như những ngày qua, chị không còn biết đi bộ là gì
nữa, thay vào đó là những bước chân sãi thật dài, thật nhanh…
***
Bếp lửa đã tàn, chỉ còn lại đôi ba hòn than hồng được phủ kín
bởi một lớp tro xám đục, đâu đó cơn gió nhẹ thổi qua làm chúng đỏ hồng lên rồi
lại lịm dần đi dưới lớp tro ngày một dày thêm, mỗi lần như thế càng khiến chúng
trông yếu ớt hơn trước. Đứng trước nồi thuốc, chị bỗng cảm thấy có một sự trống
trải vô hình nào đó đang cấu xé tâm hồn chị ghê gớm, khóe mắt chị cay cay và
rồi… Chị bắt đầu khóc, chị khóc như chưa từng được khóc, những giọt nước mắt
này có lẽ đã bị nén quá lâu trong đôi mắt ngày một thâm quầng của chị, nó nóng
ran muốn phỏng cả da mặt. Mấy ngày qua, trước mặt Tâm, chị luôn cố giấu đi sự
lo lắng, giấu đi nỗi đau sắp mất Tâm. Nhưng giờ, chị có cảm tưởng Tâm biết rõ
mọi thứ. Và nếu như thế, Tâm làm sao chịu nổi? Cái ý nghĩ quái quỷ đó băm dằm
những hy vọng nhỏ nhoi còn sót lại trong chị, nó như đám mây đen ngòm giăng
ngang bầu trời hy vọng của lòng chị để chỉ còn lại một màu xám xịt vô vọng.
Trong dòng nước mắt nhuề nhòa, chị ngước lên nghẹn ngào: “Chúa đã lấy đi chồng
con, sao bây giờ Chúa còn muốn lấy đi con của con nữa vậy Chúa? Sao Chúa nỡ đối
xử với con như vậy? Sao không để con chịu hết những đau đớn đó, sao không để
con thay thế con của con, sao vậy Chúa?!”. Rồi chị quỵ xuống, ngồi bệt trên
đất. Bất chợt chị nghe có tiếng khóc dội lại từ sau lưng, ngoái đầu lại thì…Tâm
đã ở ngay trước mắt chị.
- Mẹ!- Tâm gọi chị, rồi nhào đến ôm lấy cổ chị, và chị cũng
nhanh chóng dang rộng cánh tay để đón lấy Tâm. Sự xúc động cùng nước mắt khiến
chị không còn nói được gì, nhưng chính lúc đó, chị lại nhận ra giá trị của sự
im lặng, im lặng để cảm nhận bằng trái tim dạt dào tình yêu của người mẹ.
***
Ngày mai táng Tâm, chị như người mất hồn, chị thẫn thờ bước sau
chiếc xe tang đưa Tâm đến nhà thờ. Khi chiếc xe tang dừng lại trước tiền sảnh
nhà thờ, lòng chị chợt dâng lên nỗi uất hận trách móc Chúa. Chị thấy Ngài thật
bất công với chị, vậy mà Ngài lại luôn nhận Ngài là Đấng công bình, đầy lòng yêu
thương nhưng lại trừ chị ra… Suốt Thánh lễ, lòng chị rối như tơ vò, chị phân
vân giữa niềm tin vào sự quan phòng của Chúa và nỗi đau mất Tâm. Phải chi Chúa
dừng lại ở chồng chị, thì chị đã không oán ghét Chúa như bây giờ. Tiếng hát,
lời đáp thưa chúc tụng vang lên như đang cố gợi lên trong chị điều gì đó mơ hồ
không xác định, chị bỏ ngoài tai tất cả, chị vẫn gục đầu câm lặng, chị còn muốn
lòng mình ra chai lỳ, khô cứng… Bởi chị nghĩ nếu chị có thốt ra lời nào thì lời
đó cũng không phải để ca khen Chúa. Càng nghĩ chị càng cảm thấy trái tim chị se
thắt lại đau đớn, chị lại khóc nhưng bây giờ chị không biết chị đang khóc vì cớ
gì, về Tâm đang nằm trong quan tài ư, hay về đức tin đang lung lay của chị? Chị
không biết nữa, có chăng chị chỉ muốn khóc cho cạn nước mắt để chị không còn
khóc được nữa.
“Kính thưa quý ông bà và anh chị em!”- Giọng vị linh mục từ tốn
nhưng trần ấm vang lên. “… Chắc chắn Chúa cũng đang khóc thương em Tâm như khóc
thương anh Lazarô trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe… Tại sao?”- Vị linh mục
thinh lặng một lúc, nhìn xuống quan tài được đặt giữa lối đi vào nhà thờ, rồi
chậm rãi nói tiếp: “Vì Người cảm thấu được những đau khổ của chúng ta, vì Người
đã từng sống với thân phận con người, với những yếu đuối của xác thịt, đó là
biết đau, biết đói, biết khát… và biết khóc thương những người thân yêu của
mình như chúng ta”. Vị Linh mục lại thinh lặng khiến không gian yên ắng như tờ,
chị sụt sùi ngước mắt hướng về ngài, mắt vẫn còn nhòe lệ. “Vậy chúng ta mong
chờ gì nơi Chúa? Được sống lâu ư? Được giàu sang ư? Được mọi thứ theo đúng ý
mình ư? Hay là theo ý Chúa để một ngày nào đó Chúa đoái thương cho ta được
hưởng nhan thánh của Người”… “Tôi cũng thấy xót xa cho em Tâm vì em ra đi khi
tuổi còn quá trẻ với biết bao ước mơ còn dang dở, nhưng với niềm tin vào sự
Phục Sinh của Chúa Giêsu, tôi lại được an ủi và vui mừng vì hành trang em mang
theo là một tâm hồn trẻ thơ và lòng tín thác, tin tưởng vào Chúa… Đó chính là
điều Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta để được vào Nước của Ngài. Trong tâm
tình đó, chúng ta cùng nhau dâng em Tâm cho tình yêu của Chúa, và với niềm tin
vào sự Phục Sinh, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh lễ cách sốt sắng để cầu nguyện
cho em sớm hưởng nhan thánh Chúa. Xin Chúa chúc lành và nâng đỡ hết thảy chúng
ta, nhất là gia đình tang quyến. Amen”.
Những lời vị Linh mục
chia sẻ như liều thuốc bổ cho niềm tin ốm yếu kiệt quệ của chị. Chị bật khóc
nức nở, nhưng bây giờ là những giọt nước mắt của sự hoán cải. Chị cảm thấy Chúa
ở thật gần và đang ủi an chị, chị ngước nhìn lên Chúa đang bị treo trên Thập
giá và cầu nguyện với niềm tin tưởng: “Lạy Chúa, xin thương đến con là kẻ đang
đau khổ, xin nâng đỡ con trước nỗi đau mất con, xin ban thêm đức tin cho con để
con biết tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa”. Rồi chị ngước sang di ảnh Tâm
trên chiếc quan tài, thì thầm: “Tâm ơi, mẹ yêu con, mẹ yêu con nhất!”.
Mã
số: 15-068
May quá vẫn còn kịp!
Một ngày rong ruổi, hai chúng tôi bước lên phà, tìm chỗ ngồi,
hít thở không khí dịu mát của sông nước. Tôi với tay định phủi chút bụi đất sót
lại trên chiếc áo khoác, rồi lại thôi, cứ để nó bám. Còn chỗ để bám víu cũng
hay!
Con người nhiều khi tìm một chỗ bám víu cuối cùng cũng không.
Mà thôi! Lắm khi thế mà may. May rủi trong cuộc đời vô chừng
không thể định hình, định dạng, hoặc cân lường, đo đếm.
Gặp Anh cũng là chuyện may!
Đứa bạn hay cười trêu tôi:
- Cái gì cũng qui chiếu cho sự may mắn, nếu không gặp Ông ấy thì
bồ đâu có kéo tui lăn lê cả ngày trên cái lộ trình không biết tên tuổi này.
Nói xong, Nó cười ngây:
- Nói zị thui mừ chứ việc đáng làm, đường đáng đi!
Nhỏ bạn hay nói: “Làm được gì cho cuộc đời này cứ làm heng, để
rồi không còn kịp, để rồi nuối tiếc muộn màng”.
Tôi vốn dĩ sợ phải hối tiếc, sợ phải ôm mối tơ lòng vò võ suốt
quãng đường dài, nên cứ hễ gặp chuyện là lao vào bất kể ngày tháng.
- Lạy Chúa, phần con chỉ làm được có nhiêu đó, còn lại xin Ngài
hãy mang Thánh Thần đến vì phận con yếu hèn.
Thánh Thần đến thật!
Tôi tin thế!
Nếu không lúc nãy khi chào về bước ra khỏi cửa lòng tôi không do
dự rồi như có sức mạnh đẩy tôi trở ngược vào, chân tôi quay bước đầu ngoảnh lại
và miệng tôi cất lên lời:
- Anh có muốn vào đạo không?
Không do dự anh đáp lời tôi:
- Tôi có suy nghĩ vào đạo…!
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
- Tạ ơn Chúa!
…
Đứa bạn réo í ớ:
- Định ngồi đó luôn chắc? Lên thôi!
Còn hai mươi lăm cây số, đoạn đường không phải ngắn, so với sức
cạn kiệt dần. Bù lại tinh thần phấn chấn, phía trước là thành phố Sóc Trăng,
ánh đèn bắt đầu lên, phía trước là chùm sáng. Chiếc xe vẫn đều đều nhẹ tênh
lướt trên mặt đường, mà hơn thế nữa lòng hai đứa cũng nhẹ nhõm, không nặng nề
như lúc ra đi. Tôi huýt sáo khe khẽ bài hát… “Con tưởng rằng con vững tin, tin
vào Chúa là cha nhân hiền… Thì lạy chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay con
đang cần đến Chúa từng phút giây, nhờ ơn Chúa con kiên trì tín thác kể từ đây…”.
…
Rồi cũng về đến nhà. Tắm rửa xong, tôi leo lên giường, trùm kín
chăn, định bụng rằng sẽ đánh một giấc thẳng kè.
Quái, Không sao ngủ được! Tôi ngồi vào bàn, bắt đầu lọc cọc gõ,
con chữ nhảy múa…
Ngày…tháng. . . năm…
Lần đầu tiên gặp Anh khi tôi tham dự workshop do hội đồng Anh tổ
chức cho những giáo viên dạy Tiếng Anh. Anh vui vẻ hoạt bát, ai cũng khen Anh
có biệt tài thu hút học sinh và vượt trên hết anh có tấm lòng yêu thương học
trò nhiệt tâm của một nhà giáo chân chính. Tôi biết anh, nói chung là cả giáo
viên cùng tỉnh biết nhau nhờ dịp đó.
Bẵng đi một thời gian lâu, chúng tôi không gặp, nhờ có dự án
2020 đào tạo để giáo viên đạt chuẩn C1 chúng tôi lại có dịp gặp nhau.
Mấy người bạn xì xầm: “Anh bị ung thư phổi”, cái tin như sét
đánh xéo ngang tai.
Đêm đó tôi chập chờn khó ngủ, ngày mai sau giờ thi mỗi người
chia tay nhau trở về…
Gần hai mươi năm đeo đuổi nghề dạy học, giờ Anh chẳng còn gì
ngoài căn bệnh ung thư phổi.
Anh bắt đầu tuyệt vọng.
- Biết sao giờ, trời kêu ai nấy dạ!
Lòng tôi bất an, tôi nhìn nhanh vào cuộc đời mình, những cuộc
đời na ná nhau thường có kết cục bi thảm như nhau.
Thảo nào nhỏ cháu tôi nó dị ứng với lời nhận xét:
- Hai cô cháu mày giống nhau như hai giọt nước!
Nó không muốn bước vào vết xe đổ, nó không muốn sống vì người
khác để rồi kết cuộc bi đát. Tôi biết nó hằn học thế thôi, chứ nó có tấm lòng,
nó lúc nào cũng nghĩ cho người khác, nó gánh hết cái gánh nặng vào người mà
không nề hà rên xiết, mà có rên lên cũng bằng thừa, thánh giá Chúa trao, vui sướng
mà vác, hạnh phúc mà vác vì được thông phần đau khổ để chung hưởng vinh quang.
.
Lắm khi phải tạ ơn, vì chúng tôi luôn có niềm tin vào Chúa, có
nơi để bám víu lúc gặp sóng gió cuộc đời, có bến để về và hy vọng một vinh
quang sáng lạn. Còn Anh, Anh kể nằm đó trong căn nhà lạnh tong teo hoang vắng
vì mọi người đã về quê ăn tết, cái trống vắng đến lạnh người, nỗi đau lên ngôi
dày vò thân xác, cô đơn xâu xé cõi lòng.
Anh tâm sự: Những lúc nằm một mình, cơn đau đến, không người
thân bên cạnh, anh thường lấy hình Cha Diệp ra đọc kinh, xin Cha đồng hành với
anh, xin Cha thêm lời cầu xin cho anh biết gánh chịu nỗi đau.
Tôi không biết, nhưng có tiếng nói từ sâu thẳm tâm hồn tôi, thúc
giục tôi phải làm gì đó, một cánh tay chìa ra chẳng hạn, một sợi giây liên kết,
hay chỉ là một cây gậy chống đỡ ven đường. Tiếng nói ấy vẫn liên hồi nhắc nhở
lào xào trong tâm trí tôi.
Hôm đó sau buổi thi, tôi dúi vào tay Anh chiếc phong bì, trong
đó là bức hình Cha Diệp và tờ 50 đô mà một người bạn đã cho từ lâu tôi cất giữ,
nó là số tiền lớn nhất mà tôi có được. Tôi tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hành
động trên đức tin của Anh. Tôi không biết nhờ ai, nên nhờ ân đức Cha Diệp mà
hướng dẫn Anh con đường đến với tình yêu Chúa. Trong thâm tâm tôi luôn muốn Anh
được quay về bên cung lòng Cha mà yên nghỉ.
Mấy ngày sau tôi nhận được bức mail:
“Anh rất cảm động, bật khóc khi nhận được bức hình Cha và sự
giúp đỡ của Em. Anh đã đến mộ Cha tạ ơn như lời Em nói. Anh từ đây sẽ có Cha để
tâm sự, sẽ có Cha để sẻ chia. Anh tin rằng, Cha sẽ giúp Anh, vượt qua nỗi cô
độc và biết sống chấp nhận, sống vui tươi trân trọng từng ngày được sống”.
Tạ ơn Chúa! Tình yêu Ngài đang đụng chạm vào trái tim Anh, xin
hãy ở lại trong Anh để tâm hồn Anh được an lành.
…
Ngày cuối năm, một Cha dòng Đa Minh được nhờ về làm lễ an táng
cho một bà cụ vừa trở lại đạo gần chỗ trọ của anh, vì là tuần lễ các Cha trong
giáo phận cấm phòng.
Gửi cho anh chút quà. Tất cả đều nằm trong sự quan phòng của
Chúa, tôi chỉ làm theo tiếng lòng, sự thôi thúc của tâm hồn và hơn thế nữa niềm
tin được ơn cứu rỗi.
Có những giậy phút gặp gỡ ngắn ngủi nhưng kỳ diệu, có cái đụng
chạm nhẹ nhưng được ơn chữa lành, tôi nhớ đến người phụ nữ bị băng huyết được
ơn cứu chữa khi có niềm tin mãnh liệt, chỉ cần đụng vào áo Thầy Giê-su. Tôi tin
cuộc gặp gỡ ngày mai sẽ mang lại cho anh niềm vui mới, niềm vui được mở mắt ra.
…
Cha trao cho tôi tập nhật ký và nói:
- Anh bạn có vẻ yếu quá.
Mấy ngày trước tôi nhận được tin nhắn anh trở bệnh đau nhức,
không tiền, người ta bắt đầu đòi nợ. Anh đang cầu xin Cha để được một bàn tay
chìa ra giúp đỡ anh sẽ xuống tóc.
Đời rõ khổ!
Đêm đó, tôi lại mất ngủ, lật tập nhật ký, lòng tôi miên man theo
từng câu từng chữ nhạt nhòa. Đó là một cuộc đời của một con người đó ư? Tôi tự
hỏi, có cái gì đó cay xé trong mắt tôi, bịn rịn trong lòng tôi…
…
Tôi, đứa bé năm tuổi, không biết đó là sự chia lìa, nó chỉ như
một chuyến đi xa, ham vì được Má dắt đi. Cái dáng còng còng của Ba tôi dõi
nhìn, in chặt vào đầu tôi. Sau này lớn lên muốn tìm Ba, tôi hỏi Má. Má hằn học!
Tôi với Má luôn bị ngăn cách, bởi sự không thông hiểu nhau. Hai đứa em tôi lần
lượt ra đi, vì đói, vì khát, vì bệnh và trên hết là vì thiếu sự quan tâm. Má
tôi một mình lăn lộn nuôi mấy miệng ăn không nổi. Bà bước thêm bước nữa! Tôi
lạc lõng lại càng lạc lõng giữa chốn cuộc đời. Tội nghiệp thân tôi! Theo ở nhà
đứa bạn, ở đây tôi được tiếp tục đi học, được nhận làm con nuôi. Được bám víu
để nuôi lớn một lý tưởng…
Tôi cắn chặt môi, đọc tiếp…
Tôi bị người ta dằn ca nước đá và hắt vào mặt, chỉ vì tôi khát
quá sau chuyến chở hàng, chuyển hàng nặng nhọc, uống mà quên hỏi xin phép. Tôi
hiểu thân phận làm con trong ngôi nhà này. Tôi hiểu vị trí của tôi. Tôi thèm
lắm một người Cha, người Mẹ ôm tôi vào lòng, xoa dịu lúc tôi đau buồn. Cuộc đời
này tệ bạc với tôi quá, càng tệ bạc sức vươn lên của tôi càng nhiều. Tôi cố
gắng hết sức học, học, học…học để thay đổi cuộc đời.
Có những vết đau nhói từ trong tim…
Tôi đói quá không chịu được, để tránh những ánh mắt dò xét,
những lời xỉa xói. Tôi thậm chí đợi cả nhà ngủ say, bới tô cơm nguội chui vào
toilet ngồi ăn ngấu nghiến, nước mắt lưng tròng. Đó là số mệnh của tôi! Tôi
thầm nghĩ, nếu tôi có đủ đầy cha mẹ tôi sẽ không phải rơi vào ngõ vắng này.
Tôi không chịu đựng được nên gấp quyển nhật ký lại, giá như tôi
có thể bật khóc thành tiếng, hay hét lên thật to có lẽ dễ chịu hơn. Tôi bật máy
định viết cái gì đó. Tôi check mail.
… Anh gửi Em quyển nhật ký, nhờ Em viết lại dùm anh chuyện một
cuộc đời, Anh muốn đọc được nó trước khi đi xa. Nhận thấy nơi Em một tấm lòng,
một tình yêu của Đức Chúa.
Tôi định viết, rồi lại thôi, tôi muốn cầu nguyện, tôi muốn thưa
chuyện cùng Chúa, tôi không muốn làm bất cứ điều gì, tôi tín thác hoàn toàn
trong bàn tay nhân từ của Chúa.
…
Tôi không thể ngồi chờ việc gì đến! Tôi phải làm một cái gì đó
và cuối cùng tôi quyết định vượt gần trăm cây số tìm đến nơi anh trọ. Căn phòng
trống trãi, nó tố cáo sự thiếu thốn, cuộc sống quạnh quẽ vì anh bạn cùng phòng
đã về quê tết. Anh rất vui vì gặp chúng tôi, người bạn đi chung mủi lòng, tay
rung rung đưa chiếc phong bì đã tích cóp được từ những tấm lòng hảo tâm. Cô
quệt vội dòng nước mắt đang trực trào ra, rồi như không ngăn được cô thốt lên:
Sao Thầy không về quê?
Tôi cảm nhận được, hoàn cảnh của anh đã chạm đến trái tim cô,
trái tim luôn được dưỡng nuôi bằng những ấm áp, trái tim chưa bị vấy khổ đau.
Còn tôi, chỉ biết dâng lên lời tạ ơn vì đó là hồng ân Chúa để
tôi gặp gỡ những mãnh đời đau khổ như tôi, gặp gỡ những người kém may mắn hơn
tôi vì ít ra tôi vẫn được bảo vệ trong tình yêu của Ngài.
Để rồi tôi nhận ra ân huệ của việc chìa tay ra níu kéo người
khác hợp nhất trong tình yêu Ngài là hạnh phúc.
Anh nói: “Lúc này anh mong ước được vào đạo vì anh nhận ra tình
yêu của Chúa qua những người con của Ngài. Ngày mai anh sẽ tiếp tục về Sài Gòn
để xạ trị, niềm tin rằng Chúa sẽ an bài mọi sự cho cuộc đời anh”.
Chia tay anh chúng tôi hỏi tìm đường đến nhà thờ gần nhất. Đã
muộn màng nhưng vẫn kịp bữa trưa, Cha sở đã tiếp chúng tôi bằng bữa ăn đạm bạc
miền quê nhưng chan chứa tình thương. Chúng tôi đã trao phó anh vào tay Cha sở.
Ngài đón nhận như món quà quí giá.
Tôi nói:
- Công việc Chúa giao phó cho con bao nhiêu đó, phần còn lại cậy
nhờ vào tình thương của Cha và sự linh hướng của Chúa Thánh Thần.
Cha vui vẻ nhận lời và tiễn đưa chúng tôi ra về với lời chúc
bình an, mong rằng chúng tôi vẫn an lành trên đường gần trăm cây số quay về.
Chuyến phà chiều tưởng muôn màng nhưng vẫn kịp để chở chúng tôi
về đất liền an toàn. Nó sánh như chuyến đò cuộc đời anh, không muộn màng vì anh
kịp nhận ra người đưa đò vẫn kiên nhẫn chờ đợi anh, nhận ra rằng bên anh vẫn
còn có nhiều người luôn sẵn sàng chìa tay ra nắm lấy tay anh.
Ngày cuối năm tôi check mail và hạnh phúc với tin nhắn.
Chúa đã yêu thương anh, tình trạng bệnh của anh có phần thuyên
giảm, anh đang học để chuẩn bị vô đạo, Chúa sẽ an bài cho anh.
Chúc Em hưởng một mùa xuân bình an trong tay Chúa.
Có lẽ anh rồi cũng sẽ không thoát khỏi cái chết vì ai cũng thế,
nhưng anh vẫn kịp đi chuyến phà cuối cùng về nhà Cha…
Tôi nhắm mắt lại thoang thoảng đâu đó lời bài ca vang lên …
Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hiểu nỗi đau là gì. Ngày nào trong
khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, cần một ly nước thôi, cần một bát cơm
vơi chờ đợi bàn tay ai đó đưa ra…
Vì con chúa đã đến trên trần gian Ngài mang lấy kiếp sống của
phàm nhân…
Tôi thiếp đi lòng an lành.
Mã
số: 15-069
Cánh đồng quê ngan ngát mùi lúa sữa, những vòng xe chậm rãi lăn
trên con đê làng, mặt trời đã ngã xuống trời tây, làn gió nhẹ của cánh đồng quê
làm Vương Bình quên hết những căng thẳng của buổi học chiều nay.
Thủy Tiên vẫn yên lặng đạp xe bên cạnh Vương Bình, cô không nói gì.
Hình như trong lòng cô cũng đang miên man với những suy nghĩ cho riêng mình.
Hai đứa thân nhau từ hồi còn để chỏm, những lúc chăn trâu, những
khi đi học, hai đứa đều đi với nhau. Mới ngày nào đó còn nhõng nhẽo đòi mẹ mua
cho cái cặp đựng sách, vậy mà bây giờ những ngày cuối cấp ba đã gần kề.
Trong mắt Vương Bình, Thủy Tiên ngày nào giờ đã trở thành một
thiếu nữ xinh đẹp, hiền dịu. Cũng mới ngày nào đó, Vương Bình còn là một thằng
nhóc hay giành nhau với Thủy Tiên nắm khoai xéo mà hai đứa mang đi khi thả
trâu, vậy mà bây giờ chàng đã là một thanh niên tuấn tú khỏe mạnh.
Chiều nay, lúc đạp xe bên Thủy Tiên, Vương Bình muốn cho cô biết
quyết định của chàng khi học hết cấp ba, nhưng sao miệng chàng cứ ngập ngừng
không thốt nên lời. Bất giác Thủy Tiên hỏi:
- Vương Bình…! Học xong cậu
sẽ làm gì?
- Ờ…! Mình cũng chưa biết
nữa… Thế còn Thủy Tiên?
- À! Mình nghĩ chắc là mình
học tiếp để làm giáo viên.
- Thủy Tiên nè…! Có bao giờ
cậu nghĩ tới chuyện đi tu không?
- Đi tu à…! Khẽ nhún vai
Thủy Tiên nói tiếp. cũng có lúc mình nghĩ tới, nhưng dù sao thì vẫn thích làm
giáo viên hơn.
Tiếng chuông chiều trên tháp nhà thờ vang lên, đàn có trắng tất
bật dang cánh bay về nơi trú ẩn. Vương Bình đang trầm tư trong suy nghĩ. Bất
giác chàng khẽ nói:
- Mình thấy các thầy, các
soeur cũng hay đấy chứ! Họ yêu thương và đi phục vụ mọi người mà không đòi công
lao.
- Vương Bình, bộ cậu muốn
đi tu sao? Cậu đã quên rồi sao…? Trước đây cậu nói là cậu sẽ thi vào trường âm
nhạc cơ mà…!
- Thì mình có nói với cậu
là mình đi tu đâu…!
Mãi nói chuyện, hai người đã về tới gốc si già đầu xóm. Lũ trẻ
đang nô đùa dưới dòng sông mát rượi, có đứa nghịch leo lên tận cành cao của gốc
si già mà nhảy xuống dòng sông. Thủy Tiên nhìn Vương Bình cười nói:
- Vương Bình nè, cậu còn
nhớ cái ngày cậu cứu mình khỏi chết đuối không? Khiếp thật! Lúc đó suýt chút
nữa là tớ…- Thủy Tiên bỏ lửng câu nói của mình, cô nhìn Vương Bình trìu mến.
- Tớ đâu có quên được cái
ngày đó!... Suýt chút nữa là tớ bị cậu nhận chìm luôn đấy… Ôm người ta gì mà
chặt cứng, làm người ta không bơi được… Hì hì!
Thủy Tiên đỏ bừng mặt, nguýt dài Vương Bình.
***
Rồi cũng đến ngày hai đứa phải giã từ mái trường của tuổi học
sinh đầy mộng mơ. Kỳ thi vừa qua, làm cho Vương Bình và Thủy Tiên không có thời
giờ suy nghĩ những dự định cho tương lai. Tiếng thở phào nhẹ nhỏm của Thủy Tiên
làm Vương Bình như trút được gánh nặng của những ngày thi cử.
Tối nay, dưới bầu trời đầy sao, ngồi ngoài sân hóng làn gió mát,
mấy đứa em đang giành nhau bắp ngô nướng mà Thủy Tiên mang sang.
Bố mẹ Vương Bình cũng đang ngồi đấy, sự hiện diện của Thủy Tiên
trong căn nhà đã quá quen thuộc đối với họ. Cũng dễ hiểu, vì từ lúc để chỏm tới
giờ, Thủy Tiên vẫn hay sang nhà Vương Bình chơi.
Dưới ánh trăng của tiết trời mùa hạ, Thủy Tiên trông thật xinh
đẹp, đôi mắt tròn đen, lấp lánh như vì sao, long lanh như những hạt sương đêm,
mái tóc dài thon thả làm cô thêm dịu dàng.
- Vương Bình! Cậu đệm bài
“Tình thắm duyên quê” để tớ hát đi.
- Chà! Mai mốt chắc tớ phải
đi theo để đệm hát cho cậu quá.
- Chứ sao nữa…!
Mẹ Vương Bình đã nấu xong nồi chè đậu. Dưới làn gió mát rượi của
tiết trời mùa hạ, mọi người đều vui vẻ thưởng thức vị ngọt bùi của những hạt
đậu.
Bố mẹ Vương Bình rất quý Thủy Tiên, quý sự xinh đẹp mặn mà của
cô một, quý sự siêng năng hiền dịu của cô mười.
Trong trái tim của Vương Bình, hình ảnh của Thủy Tiên hình như
đã có chỗ đứng. Thủy Tiên cũng thế, tình yêu mà cô dành cho Vương Bình ngày
càng lớn dần theo năm tháng. Cô sợ cái ngày đó sẽ xảy ra, cô sợ cái ý tưởng đi
tu của Vương Bình lại đến với chàng, cô sợ mất Vương Bình.
Còn Vương Bình, cùng với năm tháng, lý tưởng đời tu đã từng ngày
bám chặt vào tâm hồn chàng, chàng không dám thổ lộ cho Thủy Tiên biết, chàng
thật khó xử mỗi khi muốn nói cho Thủy Tiên về ý định của mình.
***
Thời gian cứ lặng lẽ trôi, rồi cái ngày ấy cũng đến, cái ngày
định mệnh ấy cũng đến với Thủy Tiên, khi cô tưởng chừng như nó không bao giờ
tới.
Trời đã về khuya, những vì sao lấp lánh trên bầu trời như đang
nhảy múa, những con côn trùng kêu rỉ rả như một dàn nhạc giao hưởng, tiếng con
ễch ương vang lên đều đặn, như muốn đếm thời gian trôi trong đêm.
Mọi người đã đi ngủ cả, chỉ còn Thủy Tiên và Vương Bình ngồi
lặng lẽ ngoài sân. Tiếng gió rít trên bụi tre nhà Thủy Tiên làm cho màn đêm
không buông được giấc ngủ yên tĩnh.
- Thủy Tiên…! Mình muốn nói
với cậu một điều.
- Chuyện gì vậy Vương Bình?
- Ngày mai mình đi. Ừ! ngày
mai mình đi Thủy Tiên à!
- Vương Bình…! Cậu đi đâu?
- Đi đến một nơi rất xa…
rất xa !
- Vương Bình…! Chẳng lẽ
cậu…
- Ừ! Thủy Tiên à! Mình sẽ
đi tu.- Đôi mắt nhìn vào cõi xa xăm Vương Bình trả lời.
- Không phải như vậy chứ…!-
Khẽ nắm lấy bàn tay của Vương Bình, Thủy Tiên nói.
- Đúng vậy Thủy Tiên à!
Mình đã quyết định rồi, mình không thể cưỡng lại tiếng nói trong tâm hồn mình,
mình không thể từ chối lời mời gọi trong đêm, trong giấc mơ của mình.
- Cậu nói là sẽ thi vào
trường âm nhạc cơ mà… Cậu nói là sẽ đệm đàn cho tớ hát suốt đời cơ mà… Hu hu…!
- Không, mình không thể…!
Tiếng nói ấy quá mạnh đến nỗi làm mình không còn ham muốn gì với những khát
vọng trước đây của mình nữa, mình choáng ngợp dưới ánh sáng tình yêu mà đời tu
đem lại.
- Ngày mai ư…! Ngày mai ư…!
Hu…hu…hu!
- Đừng khóc nữa… Mình xin
lỗi cậu, mình không thể từ chối tiếng gọi đã thôi thúc trong tâm hồn mình… Thủy
Tiên à! Mình biết và mình trân trọng sự tin tưởng của Thủy Tiên dành cho mình,
mình sẽ mang tình bạn tốt đẹp của chúng ta theo bước chân đời mình, cậu hãy vui
lên, đừng khóc nữa để mình được an tâm, cảm nghiệm được nỗi vui khi theo con
đường riêng của mình.
- Mình không biết rồi đây
mình sẽ buồn như thế nào khi phải xa cậu Vương Bình à…! Mình trân trọng quyết
định của cậu, mình không ngăn cậu đâu, mình chỉ thấy hơi hụt hẫng khi cậu ra
đi.
- Thủy Tiên…! Mình cảm ơn
cậu đã hiểu cho mình, từ đây mình muốn xem cậu như em gái của mình nếu như cậu
đồng ý.
- Vâng… Em sẽ là em gái của
anh Vương Bình à!
- Cám ơn em gái. Thôi em
vào nghỉ đi, đã khuya rồi anh cũng về đây, ngày mai anh còn phải đi sớm.
Mã
số: 15-070
''Cuộc sống có những điều không nói, chỉ thể hiện như những dấu
chấm lặng nhưng ẩn chứa đằng sau nó là cả một khoảng trời yêu thương. . . ''
Hôm đi học ngang qua quán
nước bà tám, nó nghe bà tám kể với người ta mẹ nhận nó từ một bệnh viện vào một
chiều mùa thu ảm đạm và có nhiều hạt mưa lất phất bay. Mẹ ôm nó từ trong chiếc
nôi của phòng chăm sóc đặc biệt khoa nhi bệnh viện thành phố, một chiếc ba lô
quần áo, 2 lon sữa to đùng và một bức thư từ tay của cô y tá mà người mẹ ruột
đã nhẫn tâm bỏ rơi nó chỉ vì nó mang chứng bệnh bại não. . . Nó nghe nhưng
không tin vì nó biết bà tám rất nhiều chuyện, mà cũng vì chưa bao giờ nó thấy
ba mẹ hay hai chị của nó la mắng ghét gẫm nó, cả nhà luôn cưng chiều nó, ba nó
hằng ngày đưa nó đến trường, mẹ nó chăm nó từng li từng tí vì nó chẳng đi lại
được, nó luôn nghĩ rằng mình là con trai lại bệnh tật nên ba mẹ cưng mình là
đúng, nhất là mẹ nó luôn đáp ứng những gì nó muốn, cả việc mua chiếc bút cả
triệu đồng mà đứa bạn ở lớp khoe với nó, nó đòi mẹ nó cũng mua ngay khi năm đó
nó chỉ mới học lớp hai trong khi gia đình nó thì chẳng giàu có gì, ba mẹ nó
phải thuê nhà sớm hôm mua bán để kiếm tiền cho 3 chị em nó ăn học, dù đã nghe nhiều
lần bà tám hay người hàng xóm nói về nó nhưng chưa bao giờ nó bận tâm hay suy
nghĩ vì nó nghĩ rằng mọi người thích ghẹo nó cho vui thôi.
Lớn hơn tí nữa, năm nó lên cấp 3 câu chuyện nó bị bỏ rơi cũng
dần đi vào quên lãng, hai chị của nó cũng lần lược rời khỏi nhà, chị lớn của nó
thì theo chồng vào tận miền nam, còn chị kế nó học hết đại học rồi vào tu viện
phục vụ, chỉ còn nó quanh quẩn bên chân cha mẹ, mẹ nó phải lo cho nó tất cả, kể
cả việc nó đi vệ sinh vì nó không đi lại được, mà nó cũng không bao giờ muốn tự
lập, nó thích mẹ nó chăm nó như vậy nên nó luôn ỷ lại chứ bác sĩ nói nếu nó
siêng năng tập vật lý trị liệu và châm cứu thì khả năng tự phục vụ mình là
được.
Tóc ba mẹ nó giờ đã bạc màu, khuôn mặt mẹ nó đã hằn lên nhiều
vết nhăn vậy mà nó vẫn vô tư không nghĩ đến nỗi lo của mẹ, càng về già mẹ nó
càng lo sợ lỡ ba mẹ mất đi thì ai sẽ thay mẹ mà lo cho nó, nỗi lo của mẹ càng
lúc càng nhiều nhưng nó chẳng bao giờ quan tâm đến.
Cho đến một hôm nó tình cờ đọc được dòng quảng cáo rao vặt trên
mạng ''TÌM BỐ MẸ RUỘT EM BÉ BỊ BẠI NÃO BỊ BỎ RƠI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUẢNG
NGÃI. . . '' bên cạnh dòng chữ là một tấm hình giống hệt tấm hình lúc nhỏ của
nó trong quyển anh bum gia đình, nó bắt đầu nghi ngờ, nó cố nhớ lại ngày xưa bà
tám nói, nó lăn vội xe ra khỏi phòng, nó đi tìm bà tám, nhưng đã muộn bà tám
nằm viện đã mấy tuần nay vì bị tai biến, nó quay về nhà, ngước nhìn ảnh Chúa
khẽ cầu nguyện, đầu nó đau nhói , nó nằm liền mấy ngày, mẹ nó lo lắng khi nó
chẳng nói chẳng rằng mà cứ nằm mê man nên đã gọi bác sĩ đến điều trị.
Khi nó trấn tĩnh trở lại, đầu nó đã bớt đau, nó không dám hỏi mẹ
vì nó sợ. . . sợ điều gì nó không hình dung được nên nó quyết tâm tự tìm kiếm
sự thật, một sự thật mà nó không muốn. Nó đợi ba mẹ đi làm, ba mẹ vừa ra khỏi
nhà nó vội lăn xe vào phòng ba mẹ, nó lục lọi giấy tờ và tìm kiếm như đứa ăn
trộm, nhưng nó chẳng tìm được gì, nó thở dài mặt ngước lên trời, và rồi nó thấy
một cái cặp da treo lũng lẳng , nó chồm, nó với tay, nó cố rướn người chồm tới,
nó quên là nó đang ngồi trên chiếc xe lăn, nó quên mất đôi chân tật nguyền, nó
lấy hết sinh lực đứng lên, thế là ào một cái thân hình nó đỗ ập xuống chiếc bàn
xinh xắn mà mẹ nó hay ngồi trang điểm, chiếc bàn nhỏ đổ ập lên người nó, tấm
gương soi mặt của mẹ nó vỡ tang tành đập vào đầu nó đến ướm máu, vậy mà nó
chẳng thấy đau là gì.
Nó lồm cồm chống hai tay cố gắng ngồi dậy, những mảnh vở đã
chẳng may khứa vào tay nó, từng giọt từng giọt máu đỏ thẩm nhỏ xuống nền, nó
ngồi trầm ngâm một lúc thật lâu chẳng nói chẳng rằng, đến khi nó nhích cái mông
lên để lếch ra ngoài thì dưới mông nó sột soạt một quyển sổ, nó lấy lên thì một
mảnh giấy trong sổ rơi ra, một ít máu của nó đã làm nhoè đi vài chữ nhưng nó
vẫn đọc được ''ĐƠN XIN CƯƯ MANG TRẺ BỊ BỆNH BẠI NÃO BỊ BỎ RƠI… '' mới chỉ thấy
thoáng như thế nước mắt nó đã nhoè nhẹt rơi xuống hoà lẫn vào vết máu vẫn còn
ướt trên giấy, nó vội vội vàng vàng lật sổ. . .
Trang thứ nhất:
Ngày 21-06… xin chaò thiên thần bé nhỏ của mẹ, hôm nay là đêm
thứ nhất con được sưởi ấm trong vòng tay yêu thương của mẹ, nhìn con kìa, cũng
được 5 tháng tuổi rồi ấy chứ, vậy mà chẳng biết quen lạ gì hết lại ôm vú mẹ mà
bú chụt chụt chẳng ra giọt sữa nào, mẹ thấy thương con quá.
Nó vội lật trang thứ hai,
rồi thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ. . . nó dừng lại:
Ngày 21-06… hôm nay nữa
là con đã tròn 7năm về với mẹ rồi con biết không?. Sắp vào năm học mới rồi vậy
mà chó cưng của mẹ lại không biết đi, biết làm sao để con đến trường mà không
bị chúng bạn trêu chọc đây, thôi thì để khai giảng mẹ sẽ đi học cùng con nhé !
con yêu của mẹ…
Nó lật thêm trang nữa,
trang nữa…
Ngày 19-09… chắc tại trời
lạnh quá nên chó con của mẹ mới bị đau như vậy, nhìn con sốt miên man mà mẹ
thấy đau cả lòng, …
“Lạy Chúa, xin hãy che
chở đứa con tội nghiệp này của con, đời nó đã quá bất hạnh xin hãy để con gánh
đỡ và đền bù lại cho nó. . . ”
Nó lại lật, lật tiếp, lật
tiếp, một trang hai trang rồi lại ba trang. . . nhưng rồi nó chẳng đọc được gì
nữa, mắt nó đã nhoè nhẹt nhỏ từng giọt xuống quyển sổ, nó lại ngồi hồi lâu bất
động…
Đầu nó bắt đầu tỉnh hơn,
nó lợm từng mảnh gương vở, từng hộp kem, hộp phấn, cây cọ… nó dọn sạch mọi thứ
đỗ vỡ, nó cố đỡ chiếc bàn nhỏ của mẹ trở lại ngay ngắn và xếp mọi thứ vào chỗ
cũ, nhưng thiếu chiếc gương vì nó đã bị vỡ nát.
Trưa mẹ về nấu cơm, nó
ngồi trong phòng như chưa từng xẩy ra việc gì, nó nhờ mẹ đỡ nó lên xe, nó xin
mẹ ra ngoài có tí việc, mẹ nó bảo “con cần gì thì để mẹ đi mua cho, con chưa
khoẻ hẳn không nên đi ra ngoài”
Nó nghe nhưng vẫn lăn đều bánh xe chẳng nói chẳng rằng như
thường ngày nó vẫn làm với mẹ nó như vậy, riết rồi quen nên mẹ nó cũng không
đợi câu trả lời của nó, bà tất bật xuống bếp nấu cơm vì trời cũng đã khá trưa
rồi.
Nó lăn xe ra tiệm nơi ba mẹ nó mua bán, ba thấy nó ra một mình
cũng ngạc nhiên, cứ nghĩ chắc nó đau mấy hôm nay ở nhà buồn nên nó ra cho khuây
khoả, nó tiến xe lăn lại gần bên ba, ba nó thấy nhiều vết cắt trên đôi tay nó
thì hốt hoảng hỏi: “sao vậy con, con làm sao vậy con” rồi lật đật lấy dầu xoa,
lấy băng keo cá nhân băng những vết lớn cho nó, nó oà khóc ôm chặt lấy ba như
đứa trẻ chỉ mới lên 3 lên 4, ba nó trấn an vài câu nói: “không sao đâu con,
không sao đâu con” ông đâu hiểu điều gì đang xẩy ra với nó, nó khóc đâu bởi vì
đau mà nó khóc vì nó thấy thương ba quá đỗi.
Nó bảo ba đóng cửa tiệm đưa con đi mua cái này rồi mình cùng về
ăn cơm với mẹ cho vui, ba nó gật đầu đồng ý, nó lăn xe ra ngoài đợi ba, ba bảo
nó cất xe lăn để ba chở đi nhưng nó không chịu, lần đầu tiên ba thấy nó rất lạ,
đời nào mà nó chịu ra đường bằng xe lăn ngoài lúc đi học, nó muốn đi đâu ba mẹ
phải đưa đi rồi cõng nó trên lưng, mặc dù nó đã trở thành chàng thanh niên,
nhưng vì thương nên ba mẹ nó luôn chìu dù sức khoẻ đã mòn…
Đóng cửa xong ba đẩy xe cho nó, ba nó lững thững bước từng bước
thong thả đẩy xe hướng về nhà, đi ngang qua tiệm tạp hoá mỹ phẩm nó bảo ba đẩy
vào để nó mua một thứ, nó chọn một chiếc gương treo tường đẹp nhất, rồi nhờ cô
chủ quán gói lại cẩn thận đẹp như món quà sinh nhật. Ba nó hỏi: “chiều nay con
đi sinh nhật bạn hả?” nó lắt đầu nhìn ba triều mến nở nụ cười gượng gạo, ba
thấy tò mò vì hôm nay nó rất lạ nhưng ông cũng chẳng nói gì.
Về đến cửa đã thấy mẹ đứng đó từ bao giờ đợi nó về ăn cơm, mẹ
hơi ngạc nhiên khi thấy hai cha con cùng về trên tay nó lại cầm quà, vừa đến nó
trao liền cho mẹ và nói lời xin lỗi, mẹ nó chưa kịp nghĩ gì, nói gì thì nó đã
oà khóc nức nỡ, khóc như chưa từng được khóc, nó ôm cả ba và mẹ vào hai cánh
tay đã to bè của nó, ba mẹ nó chưa hiểu ra điều gì thì nó nói: “mười tám năm
qua con là đứa nghỗ nhịch bất hiếu, con đáng chết ngàn lần xin ba mẹ hãy tha
thứ cho con, công nuôi dưỡng này con có làm trâu làm ngựa đến mười kiếp cũng
không thể trả hết được, . . . ” rồi nó nấc lên không nói được gì nữa, bấy giờ
ba mẹ nó mới hiểu là nó đã biết về thân phận của nó, ba mẹ vỗ về vai nó rồi
cũng sụt sùi theo. . .
Từ đó nó luôn cố gắng để tự làm mọi thứ, nó không ngang ngạnh
học đòi theo chúng bạn nữa, năm đó nó đỗ vào đại học điểm khá cao, mẹ nó mừng
đến rơi nước mắt, bà nuôi nó chỉ ước mong có thế và giờ đây bà đã được toại
nguyện, môi bà nở một nụ cười hiền hoà sâu lắng khiến lòng nó thấy thương mẹ,
thương thật là thương, nó miên mang nghĩ về câu nói của ai đó ''CUỘC SỐNG CÓ
NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÓI, CHỈ THỂ HIỆN NHƯ NHỮNG DẤU CHẤM LẶNG NHƯNG ẨN ĐẰNG SAU NÓ
LÀ CẢ MỘT KHOẢNG TRỜI YÊU THƯƠNG '' và bây giờ nó bắt đầu học ở mẹ nó điều đó,
nó hứa với lòng sẽ cố gắng sống tốt mỗi ngày, sẽ trong sáng như cái gương mà nó
mua về tặng mẹ, sẽ nhiều nghị lực vượt lên chính mình chứ không để cuộc đời dễ
vỡ nát như tấm gương kia được.
Nó nói khe khẽ chỉ đủ nó nghe: “Tạ ơn Chúa, cảm ơn Chúa đã cho
con có một người mẹ như thế. . . mẹ ơi, con yêu mẹ lắm mẹ ơi”
Mã
số: 15-071
Con đường cao tốc dài hun hút. Dòng xe cộ tấp nập lướt qua như
những cơn gió cuối hạ đầu thu. Bên vệ đường những người bán bánh đa đang giơ
tay vẫy khách. Chiếc ôtô xanh thẫm đã ngả màu sơn dừng lại trước mặt một phụ
nữ. Mở cửa xe bước xuống, người đàn ông mặc áo cổ cồn màu trắng, trạc khoảng
gần bốn mươi. Mái tóc đen tuyền. Đôi mắt long lanh đầy sức sống. Đôi môi nở nụ
cười. Nhìn dáng vẻ bên ngoài, con người ấy toát lên vẻ chững chạc và nét thánh
thiện đến lạ thường.
- Chào chị! Chị cho hỏi bánh đa này bao nhiêu tiền một chiếc?
- Dạ bánh đa có loại ba ngàn, có loại năm ngàn và cả loại mười
ngàn.
- Vậy thì cho tôi chục chiếc bánh mười ngàn.
Người đàn bà khẽ đặt mười chiếc bánh vào hai cái túi nilon khá
to và gói cẩn thận. Từ lúc gặp người đàn ông này, người phụ nữ bán bánh chưa hề
ngẩng đầu lên để nhìn mặt vị khách một lần. Chị chỉ dám nhìn trộm qua khe thủng
của chiếc nón mê giống như một tội đồ. Người đàn ông rút tiền ra trả. Qua khe
thủng, người bán bánh nhìn thấy bàn tay phải của vị khách có một vết sẹo dài.
* * *
“Có một nhà tu hành đi
truyền đạo. Đang khi khát nước, nhà tu hành ghé vào ngôi nhà tranh ven đường.
Ông ta bước vào và gặp một bà lão. Nhà tu hành ngỏ lời muốn xin nước uống. Bà
lão chỉ tay vào trong nhà ra hiệu cho ông ta biết nước ở trong đó. Bước vào trong,
nhà tu hành thấy có một ấm nước đặt trên bàn, nhìn mãi không thấy chén bát đâu
cả. Đang cơn khát, ông ta cầm cả cái ấm lên định đưa vào miệng thì một cô gái
chạy ra nói to, giọng ngại ngùng:
- Thầy đừng tu để con lấy…
- Ấy ấy chết, đừng lấy vì tôi đã xuất gia.- Nhà tu hành hốt
hoảng.
- Nhưng mà…à… tu như thế là bất lịch sự…
- Nhưng lấy như vậy là phá giới… - Nhà tu hành ra sức giải
thích.
Đang giằng co vì chuyện đó thì bà lão từ sân bước vào và nói:
“Tu là việc của thầy, còn lấy là chuyện của cô…”
Mười sáu năm trước, thời còn là các chú, Nhân được bề trên cử về
giúp một làng đạo chuyên làm mì và tráng bánh đa. Con đường dẫn vào làng nhỏ và
lầy lội. Muốn vào làng, người ta phải đi qua cánh đồng. Hồi đó xe cộ còn hiếm,
Nhân phải đi bộ từ đường quốc lộ mất chừng hơn hai mươi phút mới vào tới nơi.
Ngôi nhà thờ của làng đã gần trăm tuổi. Ngày xây nhà thờ chưa có
xi măng, các cụ lấy mật trộn với vôi và cát để làm vữa. Nhìn từ bên ngoài ngôi
thánh đường có một nét kiến trúc cổ kính, độc đáo. Móng cao chừng hơn một mét.
Hệ thống móng được thiết kế hình vòm bán nguyệt thông từ bên này sang bên kia.
Tường cũng xây những đường vòm bán nguyệt đồng tâm với vòm móng. Theo nhiều cụ
có tuổi trong làng nói trước đây khi mùa đông, bà con thường đốt lửa dưới nền
để giữ ấm cho nhà thờ. Ngọn tháp cao vút, bên trong đặt một đường ống thông
khói nối với hệ thống lò sưởi; bên ngoài có đặt một dây thu lôi. Mái nhà thờ
lợp bằng ngói, ở bốn góc đều có độ cong giống như kiến trúc đình, chùa. Bên
trong nhà thờ được trang hoàng lộng lẫy. Hai hàng cột làm bằng lim, một người
ôm không hết. Bàn thờ thiết kế tỉ mỉ và được sơn son thiếp vàng. Xung quanh
tường là mười bốn bức tranh sơn dầu vẽ về cuộc khổ nạn của Chúa. Trên tháp có
treo hai quả chuông, quả nhỏ để đánh hàng ngày, quả to đánh khi có Lễ. Tiếng
chuông ở đây ngân ra mấy làng bên. Ngay từ khi đặt chân đến đây, Nhân đã bị vẻ
đẹp của ngôi thánh đường cổ kính này chinh phục.
Ngoài việc đọc kinh thường ngày cùng mọi người, cứ tối đến Nhân
lại dạy nhạc và thánh ca cho các bạn trẻ. Dịp đó đang mùa gặt nên thỉnh thoảng
Nhân ra đồng giúp bà con trong làng thu hoạch. Công việc mùa vụ bận tối mắt tối
mũi vì thế mà có những hôm Nhân phải ngồi chờ dài cổ mới có người đến học hát.
Thế nhưng cứ vào lớp là thầy miệt mài dạy, trò say sưa học đến quên cả giở.
Nhân hát hay đàn giỏi nên chỉ hơn một tháng sau ca đoàn đã lột xác hoàn toàn.
Ai nấy đều cũng trầm trồ khen ngợi. Bởi thế, Nhân được mọi người trong làng quý
mến, cứ có con cá, quả na, quả ổi… là lại đem cho.
Hồi đó, trong lớp học nổi lên giọng ca diễn xướng trong trẻo và
thánh thót. Người sở hữu giọng hát đó là Hà – một cô gái nhỏ nhắn và xinh xắn
với nước da trắng hồng. Hà đang học cấp ba trường huyện. Hà học giỏi lại chăm
học hát nên được nhiều anh để ý. Ngoài hát hay, Hà còn viết chữ đẹp nên thường
xuyên được chú Nhân nhờ chép sách hát.
Nhiều tối, Hà cùng mấy bạn trẻ lấy xe đạp chở chú Nhân qua làng
bên dạy hát. Con đường sang bên đó lầy lội lại phải leo qua ngọn đồi, rất ít
người có thể đạp xe lên đến đỉnh dốc. Vậy mà chú Nhân đèo thêm Hà phía sau mà
cứ đạp phăng phăng băng qua con dốc. Lên đến đỉnh đồi chú lại đứng thở dài rồi
đi tiếp. Chú Nhân bảo đạp xe như thế này rất tốt cho giọng hát. Mỗi lần đi cùng
chú Nhân, Hà cảm thấy vui lắm, có một cảm giác thật khó diễn tả ở trong con tim
của Hà. Chú Nhân hay kể truyện cười, có khi nghe xong Hà cười tít mắt nhưng có
những truyện khi nghe xong Hà cứ nghệt cái mặt ra vì không hiểu. Hà bắt chú
Nhân phải giải thích rõ ràng. Chú Nhân bảo, về tự suy nghĩ ba ngày sau hiểu ra
sẽ khóc. Sao lại hiểu ra thì khóc? – Hà hỏi. Chú Nhân bảo, khi hiểu ra Hà sẽ
cảm thấy tủi thân vì sự dốt nát của mình. Chú Nhân lại cười. Điệu cười đầy sảng
khoái. Hà thích nhất là câu truyện “tu và lấy” mà chú Nhân kể.
… Đã một tuần nay, Hà không đi học hát. Chú Nhân lo lắng, bồn
chồn. Chủ nhật chú đến nhà Hà hỏi han xem lý do. Hà trả lời, do bận học, bận
việc lại ốm và mệt nên không đi học hát được. Bố của Hà bảo, nó lười không chịu
đi đấy chứ có bận với ốm đau gì. Nhân khuyên, Hà chịu khó đi học sau này còn
giúp mọi người chứ mình sắp phải về để đi học rồi. Hà chỉ gật gật cái đầu. Ánh
mắt của Hà nhìn chú Nhân rất lạ.
Mấy hôm sau, Hà lại lấy xe đạp của mình chở chú Nhân đi dạy hát
như thường lệ. Tối hôm đó khi trở về Hà hỏi chú Nhân rất nhiều chuyện…
- Nếu không đi tu chú sẽ làm gì? – Hà ngập ngừng hỏi
- Mình sẽ đi dạy học. – Chú Nhân hồn nhiên trả lời.
- Thế đi tu như thế này thì khổ lắm nhỉ?
- Khổ nhưng mà vui thì làm gì còn khổ.
- Nếu bây giờ có một người con gái yêu chú, chú sẽ làm thế nào?
- Mình sẽ xem xét. Nếu như mình không yêu cô ấy thì mình sẽ vẫn
đi tu như bình thường còn nếu cảm thấy có tình cảm thực thì mình sẽ yêu cô ấy…
- Thế chú có….
Phựt… roạch… roạch… Chiếc xe đạp đang đổ dốc, đột nhiên đứt
phanh. Chú Nhân cố gắng để ghì chiếc xe lại nhưng mọi nỗ lực bất thành. Chiếc
xe phăng phăng lao xuống sườn đồi, đâm thẳng vào một cây bạch đàn. Chú Nhân lộn
liền mấy vòng. Tay phải của chú chảy đầy máu. Chú vừa bo tay vừa bo đầu chạy
đến chỗ Hà. Hà đang nằm bất tỉnh. May mắn có người đi ngang qua nên đã đưa Nhân
và Hà đi cấp cứu.
Ba ngày sau Nhân được ra viện. Ông trùm đến báo, có giấy của bề
bề trên gọi chú về gấp để chuẩn bị đi học. Nhân đến chào Hà để lên đường.
Hà không nói. Quay mặt vào tường, Hà khóc nức nở. Những giọt
nước mắt vẫn rơi. Từ thẳm sâu, tâm trí Hà đang tranh giành giằng co. Cô thấy
mình giống như một kẻ tội đồ. Cô đã yêu một người mà đáng ra không bao giờ được
phép. Tình cảm đó cô không hề muốn nhưng sao nó cứ ám ảnh, đeo đuổi không chịu
buông tha.
Nhân cũng im lặng. Cái im lặng đến nghẹt thở. Bỗng, Hà quay mặt
lại. Hà gạt nước mắt. Hà cầm tay Nhân. Nhân giật mình. Nhân lấy từ trong túi ra
một chiếc khăn trắng tinh đặt vào tay Hà. Nhân đứng dậy bước đi không một lời.
Hình như trong làn gió nhẹ, đôi mắt Nhân rươm rướm lệ…
…Hà bị gẫy chân chữa trị mất mấy tháng trời mới khỏi. Nhưng thật
buồn, Hà không còn có thể đi lại như trước. Vết thương đã để lại dị tật. Hà đi
một bên thấp, một bên cao. Ai nhìn cũng thấy thương cho số phận của Hà. Hà
quyết định bỏ học ở nhà làm mì và tráng bánh đa giúp mẹ.
Từ ngày bị ngã chẳng có anh nào thèm bén mảng, nhòm ngó, tán
tỉnh hay hỏi cưới Hà. Hà trở nên ít nói. Hà bỏ học hát. Sống âm thầm. Bọn trai
làng thường bảo nhau, cái đồ chân viết, chân xóa như Hà thì làm ăn cái khỉ gì.
Nghe thấy thế, Hà buồn lắm. Thỉnh thoảng cô lại mang rượu ra chỗ ngã xe ngồi
uống một mình. Có người bắt gặp nên đồn rằng Hà bị ma nhập. Vì thế mà người
làng không dám đến gần hay nói chuyện cùng cô. Sống mãi như vậy, dần dần Hà
cũng quen.
Một hôm, ông chú họ làng bên đến chơi và giới thiệu Nhã cho Hà. Nhà
Nhã ở đầu con đường đi vào làng. Nhã hơn Hà bảy tuổi. Nhã cục mịch, cả ngày cạy
răng không ra nổi một lời. Nhìn bề ngoài Nhã cũng không đến nỗi nào nhưng mắc
cái bệnh hở van thượng vị dạ dày nên lúc nào miệng cũng hôi không ai chịu nổi.
Ngồi nói chuyện với Nhã là người ta buồn nôn. Có lẽ vì thế nên không bao giờ
Nhã dám nói chuyện với ai. Được cái nhà Nhã theo đạo nên “cùng nước, cùng lọ”
cũng dễ chịu, với lại ở cương vị như Hà bây giờ làm gì có quyền chọn lựa, may
mà người ta rước đi cho là phúc bảy mươi đời.
Đám cưới Hà và Nhã diễn ra rất đơn giản. Trong làng có kẻ độc
mồm độc miệng bảo, “chồng thối miệng, vợ thọt chân đẹp đôi ra phết”. Hai vợ
chồng ăn ở với nhau sinh được hai thằng con trai kháu khỉnh khác hẳn bố nhưng
khổ một nỗi lại giống bố ở cái bệnh hở van thượng vị dạ dày. Hà buồn lắm! Nhã
thì không nói không rằng, chỉ biết ngày ba bữa rồi lao vào làm việc hùng hục.
Ngày qua ngày, hai vợ chồng dậy sớm từ khi gà chưa gáy để làm mì, tráng bánh
đa. Xong đâu đấy, Nhã cho con ăn rồi đưa chúng đến trường, Hà chuẩn bị đi giao
mì, chiều về lại ra ngồi ngoài đường cao tốc bán bánh đa.
Cuộc sống cứ thế trôi. Có lẽ mọi người đã quên Nhân. Chỉ có Hà
là vẫn nhớ. Hà thường xuyên hỏi thăm tin tức về Nhân. . . Tin vui cuối cùng đã đến, sau nhiều năm du học
bên Rô-ma, cuối năm ngoái Nhân về. Đợt vừa rồi, Nhân được truyền chức linh mục.
Một tháng sau Nhân về dâng Lễ tạ ơn ở giáo xứ đã từng đến giúp khi còn là các
chú. Chú Nhân gầy gò ngày nào nay đã thành Cha. Cả làng vui lắm, làm cỗ to để
đón tiếp. Trong bữa tiệc Cha Nhân đi khắp các mâm cỗ như để tìm ai đó. Trong
thánh lễ, tiếng Cha nhân ấm áp vang lên, có chỗ nghẹn lại xúc động rỗi lại vỡ
òa cảm kích: “Dù đi đâu tôi cũng luôn nhớ về giáo xứ này, với ngôi thánh đường
cổ kính và vị bánh đa ngọt ngào như con người nơi đây”.
* * *
Mải miên man suy nghĩ về điều gì đó, người đàn bà chợt giật mình
khi vị khách áo trắng cổ cồn đóng cửa chiếc ôtô. Ngồi trên xe, người đàn ông
đưa tay phải với vết sẹo dài ngoằng vẫy chào trước khi nổ máy. Chiếc xe cứ thế
lao vút đi về một miền xa lắc. Những chiếc bánh đa đi theo vị khách áo trắng cổ
cồn nhưng người bán bánh đa thì ở lại.
Trời tối sầm, gió thổi mạnh cuốn văng bụi đường. Tiếng sấm nổ
đùng đoàng. Chớp giật liên hồi. Cơn mưa rào bất chợt kéo đến. Người phụ nữ chân
thấp chân cao tất tưởi chạy dọn những giàng bánh đa. Nhưng cơn mưa đổ xuống
nhanh quá. Chị chạy không kịp. Đột nhiên, chị ngồi thụp xuống. Vết thương ở
chân tái phát. Chị rút ra chiếc khăn trắng tinh che mặt. Gió giật mạnh. Mưa mỗi
lúc thêm nặng hạt. Những giàng bánh đa tan chảy theo dòng mưa mùa. Vệt trắng
dài do bánh đa tan chảy hệt như vết sẹo trắng xóa trên cánh đồng mươn mướt
xanh.
Mã
số: 15-075
Cảnh trường nhộn nhịp sinh viên ra vào. Nhiều khuôn mặt còn bỡ
ngỡ trong ngày đầu đến trường đại học như Ân. Hôm nay, anh có hai tiết Triết
học. Giảng viên là một thầy giáo được nhiều sinh viên bình chọn là khó nhất
trường. Anh lo lắng không biết điều gì đang chờ đợi khi mình lại đến trễ.
Ân vào lớp, đón gặp ánh mắt đầy vẻ khó chịu của thầy.
- Em chào thầy ạ! Em xin lỗi vì đến trễ.
Nói xong, Ân định lùi về phía cuối lớp, tìm một chỗ an toàn.
- Anh khinh thường tôi phải không? Đây là cái chợ hay sao mà anh
muốn đến lúc nào cũng được. Anh lên bàn đầu ngồi!
Ân ngồi vào bàn không một chút thoải mái. Nhất là khi ở quá gần
thầy, nhìn thấy khuôn mặt nghiêm nghị của thầy, anh sợ.
- Đừng ai tỏ ra đặc biệt khiến tôi để ý tới, chẳng có lợi gì cho
người đó đâu… Trước khi tôi giảng bài cho các anh chị, cho tôi hỏi ở đây có ai
theo đạo Thiên Chúa không?
Ân giơ tay lên một cách rất tự nhiên vì anh nghĩ chẳng có gì
phải ái ngại khi mình là một Kitô hữu, nhưng nhìn quanh thì chẳng thấy cánh tay
nào nữa. Kiểu này thì thầy quan tâm đặc biệt đến mình là cái chắc.
- Vậy là trong lớp có hai người theo đạo Thiên Chúa…
Hai… không phải một… anh nhủ thầm. Không hiểu sao lúc đó anh yêu
thích số hai đến thế. Nghoảnh đầu lại, lần này anh thấy có một cánh tay giơ
lên. Một cô gái ngồi cuối lớp.
- Tôi nói trước, những gì tôi giảng dạy có thể sẽ đụng chạm đến
niềm tin tôn giáo, cho nên các anh chị hoặc là chấp nhận những gì tôi giảng dạy
hoặc là rời khỏi lớp này và mong chờ gặp được một giáo viên khác.
Sau một bài nhắc nhở thật dài, thầy giáo cũng bắt đầu vào bài
giảng. Ân cũng chỉ trông mong thế, để thầy đừng chú ý mình nữa. Thỉnh thoảng,
Ân làm bộ mệt mỏi để cố tình ngoảnh đầu lại, xem thử mặt mũi của người đồng
đạo. Cô gái mặc chiếc áo xanh lam, tóc sau buông dài, buộc rìa hai bên bằng
chiếc nơ xanh, tóc trước chấn ngang mi tô thêm vẻ tròn trĩnh cho khuôn mặt. Nói
chung là mới nhìn sơ qua cũng bị thu hút bởi nét rất duyên. Giọng thầy tiếp
tục:
- Cac Mac nói rằng: tôn giáo là một liều thuốc phiện cho người
kém lý trí, là tinh thần trong một con người kiệt quệ…
- Thưa thầy, không phải thế đâu ạ. Tôn giáo không phải thế…
Tiếng nói trong trẻo cắt ngang bài giảng của thầy làm cả lớp
ngạc nhiên. Đó là cô gái áo xanh lam. Ân thầm khen giọng nói của cô ấy cũng dễ
thương như khuôn mặt. Thầy giáo nói lại:
- Sao, đụng chạm đến niềm tin rồi hả? Chị dám phản bác lại ý
kiến của một triết gia vĩ đại sao?
Cô gái đứng lên trả lời:
- Thưa thầy, tôn giáo giúp cho con người sống tốt hơn.
- Có thật sự giúp con người sống tốt hơn không? Trong phòng này
có rất nhiều người không theo tôn giáo chẳng lẽ họ không sống tốt chắc?
Thầy khoanh tay nói tiếp:
- À quên, còn một người nữa. . . Anh có nghĩ là theo đạo thì
sống tốt hơn người khác không?
Thầy giáo nói xong, mới liếc mắt nhìn Ân, lúc đó anh mới ngộ ra
là thầy đang nói với mình. Chết chưa… khó sống hòa bình rồi đây. Ân rụt rè đứng
lên:
- Dạ thưa thầy, đúng là tôn giáo giúp người ta sống tốt hơn.
Thầy quát lớn tiếng:
- Lừa gạt, tôn giáo chỉ là trò bịp bượm. Làm gì có Thiên Chúa
trên đời này.
Cô gái trả lời:
- Dạ thưa thầy, có Thiên Chúa trên đời này. Cả giáo xứ của em
đều tin như thế cả.
- Đó chỉ là một con số ít ỏi trong biển người vẫn không tin.
Thầy nói tiếp bằng giọng mỉa mai:
- Được rồi, chị hãy chứng minh cho tôi thấy là trên đời này có
Thiên Chúa đi… Đừng có chỉ vào thánh giá chị đeo trên tay và nói rằng đó là
Chúa nhé…
Cả lớp cười ồ lên, tiếng nói nhỏ bé của cô gái cũng chẳng có ai
nghe. Tiếng chuông điện vang lên, hết giờ học. Ân vẫn còn nhìn thấy nụ cười
khinh bỉ còn lưu lại trên nét mặt của thầy trước khi ra khỏi lớp. Ân nhanh chân
theo sau người đồng đạo. Hai người đi với nhau, chưa nói gì nhưng tự nhiên có
mối thiện cảm với nhau. Đi hết dãy hàng lang, qua hàng ghế đá cũ kỹ, bên lề là
hàng cây lộc vừng đang mùa hoa, rụng đỏ cả lối đi. Một bông hoa rơi nhè nhẹ
trên mái tóc của cô gái khiền lòng anh bồi hồi. Ân khẽ gọi:
- Bạn cũng là người Công giáo hả?
- Ừ, mình là Linh!
- Mình là Ân. Ân Linh, nghe hợp nhau đó há!
Linh ngượng ngùng, chiếc cằm hơi cúi, giấu ánh mắt cảm xúc.
- Hồi nãy cuối giờ lớp, Linh nói gì mà mình nghe không rõ?
- À, thầy bảo chứng minh có Thiên Chúa. Mình trả lời là Chúa
Giêsu đã dạy cho ta biết về Thiên Chúa và có rất nhiều vị tử đạo đã đổ máu mình
ra để làm chứng cho điều này.
- Nếu thầy nói lại là Chúa Giêsu và các vị tử đạo không phải là
những triết gia thì sao?
Câu hỏi làm Linh ngẩng mặt, đưa tay chống cằm, càng lộ nét ngây
thơ trên khuôn mặt.
- Ừ há… Nếu họ không tin vào Chúa Giêsu thì sao?
Mặc cho Linh đang mãi nghĩ ngợi, Ân chẳng ưu tư chút nào về
những câu hỏi đó, anh chỉ chú ý đến Linh đang đi cạnh mình, cánh hoa lộc vừng
vẫn rơi trong cảnh chiều cuối thu. Chợt, Linh nhìn đồng hồ:
- Ấy, trễ rồi, mình phải về nhà thôi!
- Về nhà chứ có phải đi học đâu mà trễ.
- Trễ thiệt mà.
- Ân chở Linh về nhé?
- Không cần đâu, Linh về bằng xe buýt.
Đã mấy ngày trôi qua, kể từ lần gặp Linh, anh vẫn mong được gặp
lại người đồng đạo. Hai đứa khác chuyên ngành, chỉ học cùng nhau môn triết vì
trường thiếu giáo viên. Anh mong đến giờ triết tuần tới để được gặp lại Linh
nhưng nghĩ đến ông thầy đó thì niềm mong ước của anh cũng giảm đi nhiều. Nghe
chuông nhà thờ vang lên, anh nhớ ra hôm nay là Chúa nhật nên anh đi lễ. Sau giờ
lễ, anh vẫn nán lại trong nhà thờ. Chúa đang hiện diện trước mắt anh trong nhà
Tạm. Đức tin nói cho anh biết điều đó. Nhưng làm sao chỉ cho những người khác,
như người thầy giáo đó biết được có Chúa trên đời này.
Thấy anh đi ra, vị linh mục già đến bắt tay anh:
- Hôm nay trông con cầu nguyện rất sốt sắng.
- Dạ, vì con đang có tâm trạng…
Hai người tiến đến hàng ghế đá bên đài Đức Mẹ. Anh hỏi:
- Làm sao để chỉ cho người khác thấy Chúa hả cha?
- Con muốn chỉ cho ai?
- Thầy giáo dạy môn triết học lớp con. Thầy bảo con chứng minh
có Chúa.
- Con à, chúng ta nhận biết được Thiên Chúa là nhờ ánh sáng đức
tin mà Chúa đã ban cho. Nhưng bằng lý trí, người ta vẫn có thể nhận biết được
có Thiên Chúa.
- Làm sao biết được hả cha?
- Các triết gia Kitô giáo đã rất nỗ lực để chứng minh Thiên Chúa
hiện hữu. Cha sẽ đưa cho con vài tài liệu để giúp con hiểu rõ thêm, nhưng con
hãy luôn nhớ rằng, đức tin là quà tặng của Chúa và bằng chứng có sức thuyết
phục người ta tin nhất đó không phải là một bài diễn thuyết hay mà đó là đời
sống của ta. Người ta sẽ nhận sẽ nhận ra Chúa khi đời sống của ta chiếu tỏa
niềm tin.
Một tuần trôi qua, đã đến giờ học Ân mong đợi. Không chỉ vì anh
mong được gặp Linh mà còn vì trong mấy ngày qua, anh đã đọc các tài liệu mà cha
xứ đưa. Anh hy vọng có thể thuyết phục được người thầy của mình. Ân vào lớp,
nhìn thấy Linh cũng đã đến rồi. Thầy giáo bước vào, vẫn là ánh mắt đó, giọng
điệu đó:
- Hai anh chị ngồi vào bàn đầu cho tôi. Và kể từ nay, hai anh
chị sẽ ngồi ở đó.
Không biết Linh cảm thấy thế nào, chứ Ân thì vui lắm vì được
ngồi gần Linh. Giọng người thầy chen vào, làm niềm vui của Ân tan biến:
- Chúng ta nói tiếp về chủ đề tuần trước chứ hả? Anh chị hãy chỉ
cho tôi thấy Chúa đi!
Ân cũng đang chờ đợi thầy hỏi câu đó. Anh liền trả lời:
- Thưa thầy, có Chúa ở trên đời. Em xin phép được hỏi thầy câu
này: Ai sinh ra thầy?
Cả lớp cười ồ lên, thầy cũng cười, hỏi lại:
- Em hỏi có ý gì? Hay là sáng nay em quên uống thuốc?
- Em đang chứng minh có Thiên Chúa, xin thầy trả lời câu hỏi của
em!
- À, cha mẹ tôi sinh ra tôi.
- Ai sinh ra cha mẹ thầy?
- Ông bà nội ngoại của tôi.
- Ai sinh ra ông bà của thầy?
- Ông bà cố của tôi.
Linh nghe hỏi liền mấy câu như thế cũng chẳng hiểu gì, nhưng
nghe giọng điệu tự tin của Ân, Linh cũng thấy an tâm phần nào.
- Vậy, cho em hỏi thầy: Nếu ta cứ tiếp tục tìm về người đời
trước như thế, chúng ta sẽ tìm đến người đầu tiên trên mặt đất này.
- Vậy thì sao?
- Người đầu tiên này không được sinh ra bởi một người nào, mà
được Chúa dựng nên.
Thầy nói ngay:
- Không, Dac Uyn cho rằng, con người bởi vượn tiến hóa nên. Các
nhà khoa học cũng đã chứng minh điều đó.
Cả lớp vỗ tay, đồng ý với ý kiến của thầy.
- Vậy thưa thầy, nếu ta tiếp tục hỏi: Vượn bởi đâu mà ra? Vũ trụ
bởi đâu mà hình thành? Thì thử hỏi cái gì là nguyên nhân đầu tiên làm phát sinh
mọi sự như thế?
Thầy không chút tỏ ra bối rối:
- Mọi thứ trong vũ trụ này đều phát sinh từ một vụ nổ Big Bang,
từ đó hình thành nên những nguyên tử, phân tử, hợp chất vô cơ, hữu cơ, rồi đến
cơ thể đơn bào, đa bào, động vật bậc thấp, động vật bậc cao và cuối cùng là
những con người đang có mặt ở đây. Tất cả đều bởi tự nhiên.
Cả lớp vỗ tay hoan hô thầy, một phần cũng vì để lấy lòng thầy.
Ân đứng lặng im, cố nhớ một điều mình đã đọc mà vẫn không nhớ nổi. Linh nhìn
thấy sự bối rối của bạn mình. Cô góp lời:
- Dù cho mọi điều thầy nói có đúng đi chăng nữa thì Chúa vẫn có,
Chúa vẫn đang hiện diện trong lớp này.
- Đâu, đâu, ở đó hay ở đây, có ai thấy Chúa không cả lớp?
Cả lớp đồng thanh:
- Không!
Lần này thì cả Ân và Linh đều im lặng. Cả hai biết rằng có
thuyết phục thế nào cũng vô ích. Ân cảm thấy buồn vì những cố gắng của mình
chẳng đem lại kết quả gì. Điều đó cũng đúng thôi, Ân chỉ mới suy tư về sự hiện
hữu của Thiên Chúa chỉ trong mấy ngày nay, trong khi đó, người thầy của anh đã
có tới mấy năm liền nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, đặc biệt đối với thầy
là một người chẳng tin có Thiên Chúa cho nên thầy ra sức tìm đủ mọi học thuyết
để bênh vực cho quan điểm của mình.
- Các triết gia và các nhà khoa học nói chẳng có Chúa. Em là ai
mà nói rằng có Chúa… Đó là lý do tại sao chúng ta phải học những tư tưởng vĩ
đại của các triết gia. Hôm nay chúng ta học về…
Tuần này nối tiếp tuần nọ. Ân và Linh vẫn ngồi ở bàn đầu, vẫn là
những câu hỏi châm chọc của thầy vào đầu giờ. Về sau, hai người bạn của chúng
ta cũng chẳng nói lại gì trước những câu châm chọc đó. Hai bạn vẫn kiên trì giữ
thái độ học rất nghiêm túc.
Tan giờ học, Ân đi cùng Linh:
- Thầy giáo cứ mãi đụng chạm đến niềm tin của mình. Linh có cảm
thấy khó chịu không?
- Không, chỉ hơi buồn về thầy thôi…
- Hôm nay Ân chở Linh về nhé!
- Không được đâu, với lại nhà Linh xa lắm.
- Không có xa xôi gì hết. Linh thích đi xe buýt lắm hả? Mùi máy
lạnh trên xe dễ chịu lắm hả?
Năn nỉ mãi, Linh mới chịu lên xe ngồi. Ân chạy chậm chậm, rẽ qua
những con đường theo hướng chỉ của Linh. Bất thình lình, phía trước có người
phụ nữ đang nằm trên mặt đường, bên cạnh chiếc xe máy bị ngã. Chị đang gắng sức
chồm dậy nhưng vô ích. Chị quằn quại kêu cứu những người qua đường nhưng chẳng
có ai dừng lại, mặc cho chị rên rỉ thảm thiết thế nào. Ân tấp xe vào lề, lao
đến hỏi:
- Chị có sao không?
- Ư… chân của chị… không cử động được… đau quá!
Linh nhìn vào chân của chị:
- Mình phải đưa chị vào bệnh viện thôi.
Ân dắt chiếc xe máy của chị gởi vào một quán sửa xe gần đó. Anh
gọi một chiếc taxi, giúp Linh đưa chị ấy lên taxi, còn mình thì chạy xe theo
sau.
Bác sĩ chẩn đoán rằng chân chị đã bị gãy và bảo người nhà làm
thủ tục để tiến hành điều trị. Linh nhẹ nhàng an ủi chị:
- Chị cứ an tâm, chị không sao cả, chỉ bị thương ở chân thôi.
- Cảm ơn hai em… em giúp chị gọi chồng chị đến được không, số
máy là…
Không lâu sau, giọng một người đàn ông trước cửa phòng:
- Vợ tôi sao rồi bác sĩ…
- Vợ anh sẽ được phẫu thuật chân… anh vào với chị ấy đi!
Cánh cửa hé mở… bóng một người đàn ông bước vào. Cả Ân và Linh
đều ngạc nhiên. Người đàn ông đó chính là thầy giáo môn triết của mình. Người
thầy cũng bất ngờ khi gặp học trò của mình ở đây. Anh vội quay sang chị đang
nằm trên giường bệnh:
- Em có bị sao không? Đau ở nơi nào không?
Chị thấy anh đến thì không kiềm được nước mắt nữa, chị òa lên:
- Chân của em… đau quá…!
- Không sao cả, có bác sĩ rồi, em an tâm đi!
Chị thút thít kể lại:
- Em đang chạy xe thì choáng váng, mất tay lái nên ngã xuống
đường… Cái chân em đau quá, đứng dậy có được đâu, kêu cứu mọi người mà chẳng có
ai đến giúp cả… Toàn là người vô tâm… may mà gặp được hai em này… nếu không
thì…huhu…
Nói đến đó thì chị lại òa lên khóc nữa.
Người thầy đã hiểu ra lý do mà hai học trò của mình có mặt ở
đây. Anh quay mặt sang hai trò với ánh mắt đầy lòng biết ơn. Chưa kịp để thầy
nói lời nào, Ân nhanh miệng:
- Chúng em đang đi học về thì gặp cô như thế…
Chị lại nũng nịu:
- Cũng tại anh đi dạy hoài, bỏ em đi một mình nên…huhu
- Thôi, nín đi em, đừng khóc nữa… anh sẽ không xa em nữa đâu!
Hai người bạn cùng bật cười. Cũng phải thôi, lần đầu tiên được
nghe thầy nói những lời dịu dàng đến thế, khác hẳn với giọng điệu nghiêm nghị,
đầy mỉa mai ở lớp. Thấy hai vợ chồng đang thắm thiết với nhau, Linh kéo tay Ân
và thưa:
- Thưa thầy và cô, chúng em đi đây ạ!
Thấy hai học trò đi vội, thầy giáo chạy ra cửa, nói vọng theo:
- Cảm ơn hai em nhiều lắm!
Mặc dù chưa biết buổi học tuần sau như thế nào, có còn những lời
mỉa mai, châm chọc, nhưng hai bạn trẻ đều có thêm niềm hy vọng rằng thầy sẽ có
một cái nhìn lạc quan về đạo Công giáo.
- Ân chở Linh về nha!
- Ừ!
- Đến rồi…
Chiếc xe dừng lại trước cổng của ngôi nhà lớn, có bãi cỏ rộng và
một cây Thánh Giá lớn. Ân đọc dòng chữ trước cổng:
- Dòng Mến Thánh Giá…
Ân vẫn chưa hiểu hỏi lại:
- Linh ở trong này hả?
- Ừ…
Vừa nói xong, Linh chạy vội vào nhà, trên khuôn mặt nở một nụ
cười, để lại vẻ mặt đầy ngơ ngác và luyến tiếc của Ân.