GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG
TRƯỜNG 2017
BẢN TIN 05
Thưa quí độc giả và quí tác giả,
Mới đó, thời gian đã trôi qua gần hết
hai tháng của năm kỷ niệm 2017. Đây là năm “bản lề” của cuộc thi mà mãi đến cuối
tháng Hai, mới có bản tin số 5. Số bài dự thi được đưa vào hồ sơ và đánh mã số,
tới lúc này chỉ mới hơn 70 bài. So với các năm trước, tiến độ của cuộc thi năm
nay khá chậm, có thể vì chủ đề đại kết đòi hỏi các tác giả phải đầu tư nhiều
công sức, suy tư và cả dấn thân nữa.
Trong số những bài chưa được giới thiệu,
đã có những bài chuyển tải những ý tưởng khá hay về chủ đề đại kết. Qua đó, Ban
Tổ chức thấy thể loại truyện ngắn hứa hẹn sẽ giúp các Kitô hữu Việt Nam, cả Tin
lành và Công giáo, ý thức hơn và dấn thân tích cực hơn cho nguyện vọng hiệp nhất
mà chính Chúa Cứu Thế Giê su đã thổn thức trong giờ phút cuối của bữa Tiệc Ly
(Ga 17,20-21): “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những
ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con
và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng
Cha đã sai con”.
Như vậy, với chủ đề đại kết, xin các
tác giả dự thi lưu ý: Mục tiêu mà Ban Tổ chức nhắm đến là quảng bá tinh thần đối
thoại đại kết do Công đồng Vaticanô II đề ra, và đã được Hội thánh Công giáo
theo đuổi từ hơn 50 năm qua. Các truyện dự thi có thể dựa trên thực tế hoặc hư
cấu, nhưng cần nêu bật được hướng đối thoại chứ không phải tranh cãi hơn thua
hay đúng sai. Cần lắng nghe người khác, nhận ra nét tích cực của họ, cảm thông
với những khó khăn của họ và cùng với họ đáp lại điều Chúa Kitô mong đợi. Điều
quan trọng không phải là ai hơn, ai thua, nhưng là làm sao để Chúa Cứu Thế
Giêsu thực sự chiến thắng trong cõi lòng mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể học
theo gương người môn đệ được yêu trong Ga 20,3-6.8: “Ông
Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn
đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và
nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Si-mon
Phê-rô theo sau cũng đến nơi… Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước,
cũng đi vào”. Người chạy nhanh hơn và tới trước đã
đứng đợi người kia. Bởi vậy, nếu viết với não trạng tìm cách lý luận hay minh
chứng cho sự hơn thua, thắng bại, có thể sẽ khiến câu chuyện bị lệch hướng,
không phù hợp với hướng đi mà Ban tổ chức mong muốn.
Do đó, những truyện được coi là có phẩm
chất văn chương tốt nhưng nội dung không hợp với tinh thần đại kết, chúng tôi sẽ
gửi lại cho tác giả chỉnh sửa theo hướng trên trước khi đưa lên mạng. Nếu tác
giả không đồng ý sửa, bài sẽ không được đưa vào hồ sơ dự thi.
Để hiểu thêm về vấn đề này, xin mời
quý vị và các bạn hãy đọc bản tin đính kèm sau đây về những triển vọng của
phong trào hướng đến hiệp nhất.
Người Công giáo và người Tin Lành Luther trên đường hiệp nhất
WHĐ (07.02.2017) – Lễ kỷ niệm 500 năm cuộc Cải cách Tin Lành đem lại cho người Công giáo và Tin Lành Luther một cơ hội
để tiếp tục tiến bước, hướng đến sự hoà giải và hiệp nhất Kitô giáo trọn vẹn: đó là thông điệp của Đức giáo hoàng Phanxicô nhắn nhủ phái đoàn đại kết đến từ Đức, do Đức hồng y Reinhard
Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, và Giám mục Tin Lành Heinrich Bedford-Strohm,
Chủ tịch Liên hiệp các Giáo
hội Tin
Lành ở Đức (EKD), dẫn đầu.
Hôm thứ Hai 06-01-2017, trong buổi tiếp phái đoàn đại kết nói trên tại Vatican, Đức giáo hoàng Phanxicô đã ca ngợi mối quan hệ tích cực giữa
người Công giáo và người Tin Lành Luther ở Đức, đồng thời ngài thúc giục họ can đảm và
quyết tâm cùng nhau tiếp tục
cuộc hành
trình: “Chúng ta chia sẻ cùng một Phép Rửa, nên chúng ta phải cùng
nhau bước đi không mệt mỏi!”.
Suy tư về việc kỷ niệm 500 năm phong
trào Cải cách, Đức giáo hoàng nói đây là một cơ hội để đưa Chúa Kitô trở
lại trung tâm của các mối quan hệ đại kết. Cũng như vấn đề về một Thiên Chúa thương
xót đã là động lực cho Luther và các nhà cải cách
khác, thì cốt lõi của những nỗ lực chung của chúng ta phải là đề ra chân lý căn bản của lòng thương
xót vô biên của Thiên Chúa cho con người ngày nay – người nam cũng như người nữ.
Nói
về bi kịch của những chia rẽ và xung
đột, do những lợi ích chính
trị kích động, Đức giáo hoàng ca ngợi sáng kiến của
đoàn đại biểu của Đức đã tổ chức một buổi sám hối và hoà giải đại kết mang tên “Chữa lành ký ức – làm chứng cho Chúa
Giêsu Kitô”.
Người Công giáo và người Tin Lành Luther cũng sẽ tham gia
các hoạt động hỗn
hợp khác
trong năm nay, trong đó có cuộc hành hương chung đến Thánh Địa, một hội nghị giới thiệu các bản dịch Kinh Thánh mới và một ngày đại kết để cùng nhau chia sẻ trách nhiệm xã hội.
Nhờ
tinh thần hiệp thông chia sẻ đã được tái khám phá trong những thập kỷ vừa qua, Đức giáo hoàng nói, người Công giáo và người Tin Lành Luther cùng hối tiếc về những thất bại của
cuộc Cải cách ở cả hai phía, cũng như vui mừng về nhiều ơn huệ mà chúng ta đã
nhận được từ đó.
Đức giáo hoàng
Phanxicô kết
luận: Những thách đố hiện nay về đức tin và luân lý mà các Giáo
hội của chúng ta đang phải đối mặt thúc đẩy chúng ta nỗ lực và gia tăng hợp tác hơn nữa trong việc phục vụ người
nghèo và bảo vệ hành tinh của chúng ta. Trong giai đoạn có những chia rẽ nghiêm trọng và
các hình thức loại trừ mới, chúng ta được Chúa thúc giục đi theo con đường của sự hiệp nhất và hoà giải.
Minh Đức (Vatican Radio)
Tiếp theo dưới đây chúng tôi giới thiệu
7 truyện dự thi mới đã qua vòng sơ loại, với một truyện viết về chủ đề đại kết
khá tốt. Cuối bản tin vẫn có đính kèm bản thể lệ cuộc thi. Cũng xin nhắc các
tác giả là thời hạn cuối gởi bài dự thi cũng đã gần kề (1/3/2017).
Nguyện chúc quý vị và các bạn an vui
hạnh phúc trong Chúa và nguyện chúc cộng đoàn Dân Chúa ngày càng được thôi thúc
trên đường tiến về hiệp nhất.
Qui Nhơn, 19-02-2017
Linh mục Trăng Thập Tự
BÀI DỰ THI
Mã số: 17-036
Véo…! Véo…! Đùng…! Đùng…!
Tiếng đạn bắn đi rào rào trong không khí.
Tiếng chân người chạy. Tiếng còi lanh lảnh vang lên. Tiếng xe cảnh sát hú lên
inh ỏi làm xé tan đêm khuya tĩnh mịch.
Màn đêm đen kịch bị những tia sáng đèn
pha quét qua quét lại liên tục cho thấy có vài bóng người áo đen chạy vun vút
giữa những hàng cây sao su. Những chiếc xe đặc chủng của cảnh sát mở còi ầm ĩ rồi
lao nhanh vào đêm đen. Có tiếng loa phóng thanh vang lên, kêu gọi những người
chạy trốn hãy quay trở lại để được hưởng khoan hồng. Một cuộc đào ngục vừa mới
diễn ra.
Nhưng bỏ mặc tất cả, những bóng đen vẫn
lao nhanh vào đêm tối, bỏ lại đàng sau những tiếng súng nổ, tiếng còi hụ, tiếng
từ loa phóng thanh và hơn tất cả, đó là nhà tù khắc nghiệt mà họ đã phải trải
qua bao lâu nay để hướng về phía trước, về với bầu trời tự do đang ẩn hiện trước
mặt. Tất cả họ, kẻ thì lên kế hoạch tỉ mỉ, người thì may mắn tình cờ tham dự
vào, nhưng đều có chung một mục đích đó là tìm lại cho mình khoảng trời không
còn bị những bó buộc, những luật lệ, nội quy hà khắc, một vùng trời mà nơi đó họ
có thể làm lại cuộc đời. Không ai muốn mình quay trở lại cái nơi tù túng và ngột
ngạt kia nữa.
Huỵch!
Một bóng đen vấp ngã có lẽ do vướng vào một
sợi dây nào đó. Nhưng thật may, nhờ vậy mà hắn tránh được một loạt đạn từ phía
sau bắn tới, làn đạn bay vút đi, làm gãy hàng loạt những cành cây cao su phía
trước. Đất đá bắn ra tung toé! Bóng đen may mắn vừa lết được vào một mô đất khá
cao thì cũng vừa kịp tránh được ánh đèn pha lướt qua. Có lẽ người lính đuổi
theo chỉ bắn theo quán tính mà không nhìn rõ được đối phương đã di chuyển đi
đâu. Liền sau đó là hai xe cảnh sát trờ tới, những ánh đèn pha và những phát
súng lại vang lên. Có những tiếng nói lao xao và giọng của một người sĩ quan
cho biết đã bắt được 5 người bỏ trốn, một người bị bắn chết và vẫn còn 2 hay 3
kẻ đang đào tẩu. Ánh đèn pha quét qua quét lại nhiều lần trước khi được lệnh
truy đuổi theo hướng khác và những chiếc xe đặc nhiệm lao đi và mất hút trong
màn đêm đen kịch.
Ẩn nấp sau ụ đất cao là một người đàn ông
trung niên gầy gò, tầm thước. Hắn chính là một trong 9 kẻ đào thoát khỏi nhà ngục
trong đêm qua. Từ khi tránh được loạt đạn và trốn được vào phía sau mô đất, hắn
không ngừng run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Hắn không muốn chết,
không muốn bị bắt lại và khao khát được tự do, được hít thở khí trời, được bước
đi một cách thoải mái trên đường làng, được ngắm nhìn những đoá hoa dại ven đường,
thảnh thơi nhìn cánh bướm bay qua... Ôi! Hắn mơ ước làm sao khung trời thơ mộng
đó! Nhưng phải làm sao tránh được những loạt đạn kia, tránh được ánh đèn pha
sáng loáng và nhất là làm sao có thể rời khỏi nơi đây mà không phải trở lại cái
nhà tù ẩm mốc, tù túng nọ. Lúc loạt đạn bắn sượt qua người, trong cơn thập tử
nhất sinh, hắn đã làm một việc mà từ hơn 30 năm nay hắn không hề nhớ đến: cầu
nguyện! Trong cơn nguy khốn, từ tận sâu thẳm trong tim, hắn thốt lên: “Ôi,
Giêsu! Maria, Mẹ ơi! Cứu con với!”. Trong tâm trí của hắn, những tên Giêsu,
Maria đã biến mất từ lâu thì nay, những tên ấy đột nhiên như sáng lên, mời gọi
hắn để đến nỗi trong cơn khốn cùng, hắn phải thầm kêu lên, thì thào khẩn cầu
xin trợ giúp. Đã lâu lắm rồi tâm hồn hắn mới có dịp để nhớ lại thời kỳ ấu thơ,
nhưng thật oái oăm thay, lại ở trong cái hoàn cảnh khốn cùng như thế này…
êêê
Khoảng 30 năm trước, khi hắn còn là một đứa
bé khoảng 10 tuổi, trong một ngôi làng nhỏ nơi một vùng quê xa xôi, hắn cũng từng
có một gia đình. Hắn còn nhớ mỗi sáng chúa nhật, hắn được mẹ cho mặc bộ quần áo
tươm tất, đi đến nhà thờ để đọc kinh, dự lễ. Hắn còn được rước một tấm bánh màu
trắng nhỏ từ tay ông cha xứ già nua. Nhà hắn không khá giả lắm nhưng cũng đủ
ăn, mọi người sống hạnh phúc bên nhau cho đến khi mẹ hắn lâm bệnh nặng. Hắn
không sao quên được lần ngồi bên giường mẹ trong những ngày sau cùng, mẹ hắn đã
yếu lắm rồi, mệt mỏi và thở dốc vì căn bệnh ung thư hành hạ. Khi tỉnh lại, thấy
hắn ngồi bên, mẹ hắn trăng trối, từng lời, đứt quãng vì mệt nhọc:
- Con ơi! Có lẽ mẹ con mình sắp xa nhau
thật rồi. Mẹ không thể chăm sóc con được nữa! Con hãy nhớ lời mẹ dặn, phải vâng
lời cha con, giữ lễ ngày Chúa Nhật và siêng năng đọc kinh để cầu nguyện cho mẹ
nhé! Mẹ mãi mãi yêu con…
Tâm hồn thơ ngây của một đứa bé 7 tuổi
chưa đủ lớn để hiểu nỗi đau khổ biệt ly nhưng cũng làm hắn nước mặt dàn dụa, ôm
lấy mẹ mà khóc thật thê lương. Đó cũng là những lời sau cùng khi mẹ hắn còn tỉnh
táo. Ba ngày sau đó, mẹ hắn đã ra đi trong một buổi chiều mưa buồn rơi lạnh lẽo,
lạnh của đất trời và lạnh cả trong tim. Một thời gian sau, cha hắn tìm được người
vợ mới và ít lâu sau đó, hắn có thêm một đứa em cùng cha khác mẹ. Ban đầu, người
mẹ kế cũng không đến nỗi cay nghiệt lắm, hắn cũng được cho ăn uống, thậm chí vẫn
được đi học như trước. Tuy nhiên, từ lúc đứa em khác mẹ chào đời, lại thêm kinh
tế khó khăn nên người mẹ kế dần đổi tính. Cha hắn lại thêm tật uống rượu say
sưa, nhà cửa ngày một thêm túng thiếu. Người cha nghe theo lời người vợ kế, dần
trở nên lạnh nhạt, hắt hủi đứa con riêng sớm mồ côi mẹ. Hắn bị đánh đòn thường
xuyên hơn, đôi khi chỉ vì những lời thêm thắt, nhỏ to bên gối của người mẹ kế.
Hắn không được đi học nữa, ở nhà cho heo gà ăn và chăm sóc em, lại còn bị người
dì ghẻ tìm cớ thường xuyên chửi mắng, đánh đập, đúng là “mấy đời mẹ kế mà
thương con chồng”! Cha hắn, ngoài những khi đi vác lúa mướn, trở về nhà thì say
xỉn, đánh hắn nhiều hơn. Một ngày nọ, hắn đưa võng cho đứa em một cái thật mạnh
nhằm để rảnh tay làm việc hơn, cậu bé nảy người một cái và văng ra khỏi võng. Đứa
bé khóc ngất lên, tím tái cả mặt mày, người mẹ kế xót con, xông đến túm lấy hắn
đánh túi bụi. Hắn bị đánh ngã dúi vào tường, sưng cả mặt mày. Bà ta chưa hả,
còn đay nghiến sẽ mách lẻo với cha hắn. Quá đau, lại nhớ đến những trận đòn của
cha, hắn lồm cồm ngồi dậy rồi chạy biến ra khỏi nhà, không dám quay trở lại nữa…
Từ đó, hắn trở thành lạc lõng, bơ vơ, khi
thì phụ trông hàng cho những chiếc xe chở trái cây lên thành phố, lúc khác lại
đi xin ăn hay phụ bưng bê cho các quán ăn ven đường. Cuộc sống cứ lầm lũi và hắn
tha phương lên tận thành phố, một thị tứ sầm uất và cũng có đầy rẫy những cạm bẫy,
rủi ro. Hắn bị cuốn theo vòng xoáy của đô thị rồi dần nhập bọn vào một nhóm lưu
manh, đi trộm cắp trong các khu chợ, móc túi, đòi nợ thuê… Không chừa một việc
xấu nào mà không làm. Một lần nọ, nhóm của hắn bàn nhau vào “phá két” một người
giàu có nọ. Cả bọn 3 người, trèo vào nhà, mở cửa lớn, mở được két sắt một cách
thuận lợi nhưng lúc sắp thoát ra thì bị phát hiện. Người phụ nữ chủ nhà bất ngờ
thức giấc và la to lên. Một tên trong bọn trong lúc hoảng hốt đã vớ lấy cây gậy
ở góc tường và đập vào người phụ nữ bất hạnh. Thật không may lại trúng nhằm chỗ
hiểm, người phụ nữ ngất lịm đi trong vũng máu. Hắn không nhớ rõ lúc đó tình
hình hỗn loạn ra sao. Có rất nhiều người chạy đến, những tiếng la hét, đánh
nhau, vật lộn huỳnh huỵch. Hai tên đồng bọn đã chạy thoát còn hắn thì không được
may mắn như vậy. Hắn bị bắt cùng với tang vật là cây gậy còn dính máu và xác
người phụ nữ xấu số. Không có tiền bạc, chẳng có người thân, không có người bào
chữa, hơn nữa nhiều người trong vùng từng nhìn thấy hắn đi chung với bọn xấu,
nhân chứng và tang vật ngay trước mặt nên hắn bị kết án 30 năm rồi bị đưa đến
cái nhà tù mà hắn đã thụ án được 15 năm nay. Ở đó, hắn phải sống chung đụng với
những bọn xấu khác, cướp của, giết người, buôn lậu… và phải làm việc suốt từ
sáng đến tối, có khi còn không được ăn no. Bầu không khí tù túng và ngột ngạt
vì bọn cai ngục, lại thêm đám “đại bàng”, bảo kê trong tù, những ai thường
xuyên nạp tiền “mãi lộ” cho chúng thì được yên thân, bằng không thì sẽ không đời
nào được yên ổn. Chúng sẽ dùng nhiều cách để ức hiếp và chèn ép các tù nhân
không được ai thăm nom, không gởi “quà cáp” cho chúng như hắn. Những lúc ấy, hắn
thèm muốn được hít một chút khí trời, thèm được thong thả nhìn ngắm bình minh
lên, muốn được nghe tiếng chim ca ngoài cửa sổ… Số phận dung rủi làm sao, hắn
tình cờ biết được âm mưu vượt ngục của một đám tù nhân khác nên đã âm thầm theo
sát bọn ấy để tìm đường trở về tự do. Và giờ đây, hắn đang ẩn nấp sau mô đất
này, người run lẩy bẩy, miệng lầm rầm cầu xin Chúa và Đức Mẹ ban ơn; những lời
kinh mà trải qua bao năm tháng của thời gian, làm cho hắn chỉ còn nhớ lõm bõm,
câu được câu mất…
êêê
Hắn đang bước đi nhẹ nhàng trên con đường
làng. Đầu xuân. Khí trời mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thẳm. Có những con
chim nhỏ đang chuyền trên cành và cất giọng hót líu lo. Khung trời mơ ước của hắn
bấy lâu nay đây rồi. Hắn khoan khoái hít một hơi dài cho căng phồng lồng ngực.
Một cảm giác mới thoải mái làm sao! Đã 3 hôm kể từ ngày trốn khỏi nhà tù, hắn
len lỏi qua những hàng cao su, băng qua nhiều con đường mòn xa tít, lội qua biết
bao con suối mới đến được ngôi làng nhỏ này. Hắn đã trộm được vài bộ đồ của một
nhà dân nào đó bên đường để thay cho bộ áo được phát cho trong tù dễ bị nhận dạng.
Râu ria cũng được cạo sạch, nhẵn bóng. Ở cái vùng xa lạ này, sẽ không ai biết hắn,
họ sẽ nghĩ rằng hắn là một người lương thiện nào đó từ xa mới đến. Có một cánh
đồng trồng dưa bên đường mòn. Ruộng dưa xanh mướt, những quả dưa to tròn, bóng
lưỡng trông như những chú heo con đang nằm bú mẹ. Ở xa hơn, có vài chú dê con
đang lon ton theo mẹ. Một chú dê nhỏ tinh nghịch nhảy nhót bên cạnh ụ đất và một
lúc sau trượt chân nên té lăn ra, đoạn kêu be be như trẻ con đang khóc nhè. Mẹ
chú bên cạnh kêu lên đáp lại như muốn nói:
- Con yêu của mẹ! Con nghịch quá!
Đã lâu rồi, hắn không được thấy cảnh này!
Một khung cảnh mới nên thơ và an bình làm sao. Hai đứa bé con, một trai một
gái, chắc là hai anh em, chạy đến đưa cho hắn một nửa trái dưa đỏ mọng ngon
lành rồi chạy biến đi trong tiếng cười trong trẻo. Ở chòi canh đàng kia, một
người đàn ông trạc trung niên, đang cười với hắn. Hắn cũng cười đáp lễ rồi cắn
một miếng vào quả dưa. Dưa chín mọng, ngọt lịm trong miệng và tan vào đầu lưỡi!
Hắn chưa từng được nếm trải hương vị ấy bao giờ! Cuộc đời này thật đẹp làm sao,
cuộc sống thật đáng yêu và hạnh phúc quá chừng! Hắn như quên mất mình là ai, hắn
vẫn còn là tên tù nhân trốn trại 3 hôm trước…
Hơn hai tuần nay, hắn trú mình trong một
căn chòi canh rẫy của người dân trong làng. Mùa này căn chòi bỏ hoang, không có
ai phát hiện hay quấy rầy hắn. Tối đến, hắn lần mò vào trong làng để tìm chút
gì đó có thể ăn tạm! Có lúc thì mấy chén cơm nguội, lúc khác là mấy củ khoai,
quả bắp người ta ăn tối còn để dành lại cho buổi sáng ăn lót dạ để đi làm. Ban
ngày, hắn ở lại trong căn chòi canh suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc sống và những
tháng ngày sắp tới. Hắn phải làm gì đây? Sống làm sao để có thể cảm thấy lòng
mình được thanh thản, nhẹ nhàng, được tự do mà không phải chạy trốn, lẩn tránh
như hiện nay. Hắn không muốn trở lại đời sống cũ, không muốn suốt đời làm một kẻ
bất lương. Sau khi ăn nửa quả dưa chín mọng bên đường, hắn men theo đường làng,
cuối cùng lại dẫn đến một ngôi nhà nguyện nhỏ của làng. Nhà nguyện đang có
thánh lễ vì hôm ấy là chiều chúa nhật. Không biết nghĩ sao, hắn lại lần mò vào
ngồi nghe giảng, một việc mà đã gần 30 năm nay, hắn không hề biết đến. Hắn như
tìm lại được cái cảm giác an bình của ngày xa xưa, trong vùng quê nghèo xa xăm
ngày đó. Linh mục từ nơi khác đến và chỉ dâng lễ ở đây mỗi tháng 1 lần. Trời
xui đất khiến thế nào, hắn lại theo đoàn người vào toà giải tội. Hắn khao khát
được tâm sự, muốn được nghe một lời khuyên, nhưng trong hoàn cảnh của hắn, ai
là người có thể ngồi nghe hắn nói mà không tố giác hắn? Ắt hẳn chỉ có người của
Chúa mà thôi. Gần 30 phút ngồi nghe hắn kể lể chuyện cuộc đời với những hận
thù, đánh giết, tranh giành lừa lọc nhau để tìm sự sống; chuyện không đầu không
đuôi, ngắt quãng, lộn xộn nhưng cha già vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Sau đó, ngài
còn giảng giải một loạt đạo lý gì đó, hắn cũng không nhớ rõ, chỉ nhớ một câu
sau cùng đó là:
-…Con hãy tha thứ, khi nào con có thể làm
cho thập giá Chúa nở hoa, khi ấy con sẽ tìm thấy bình an đích thực…!
Tối hôm nay, sau gần hai tuần, hắn vẫn
không hiểu lời cha già nói. Làm sao thập giá, cây gỗ khô đét thế kia, có thể nở
hoa cho được? Hắn phải tha thứ cho ai? Người dì ghẻ cay nghiệt năm xưa? Ông bố
nghiện rượu đã không còn thương hắn? Hay là cho cuộc đời đã đưa đẩy hắn trở
thành tội nhân như hôm nay? Hắn không biết, và cũng không thể suy nghĩ thêm được
gì. Tâm trạng trống rỗng, buồn bã, cô đơn vì dù cho tạm thời không còn trong
nhà tù ngột ngạt kia nữa, cũng không phải chịu những đòn roi, bất công và đã được
hưởng chút không khí của tự do nhưng với tình trạng cô độc không người chia sẻ
thì thật là bi thảm không kém. Thật chẳng khác nào Robinson trên hoang đảo, cho
dù trước mặt hắn không xa là ngôi làng nhỏ với những con người hiền hoà, chất
phác. Hắn lại lần mò vào trong làng nhưng lại không vào các bếp để tìm thức ăn
như thường lệ, hắn đang muốn đi tìm cái khác cần kíp hơn. Dò dẫm trong đêm, hắn
lần đến nhà nguyện nhỏ nơi cha già dâng lễ lần trước. Nhà nguyện nhỏ bé, đơn sơ
chỉ được khép lại bằng cánh cửa bằng gỗ, không có khoá. Hắn nhẹ mở cửa ra rồi
lách mình vào. Bóng điện nhỏ xíu trên tường, ngay cạnh tượng chịu nạn không đủ
để thắp sáng căn phòng bé nhỏ.
Hắn ngồi xuống, yên lặng nhìn lên thánh
giá, chung quanh là màn đêm tĩnh mịch, tuyệt nhiên không một tiếng động nào. Hắn
ngồi nhớ lại cả một quãng đời đã qua: từ những ngày tháng êm đềm khi còn có mẹ,
lời trăng trối khi mẹ hắn sắp lìa đời, những trận đòn roi của người cha nát rượu,
lời mắng mỏ cay nghiệt của người dì ghẻ, quãng đời lăn lộn kiếm sống với biết
bao sự lọc lừa, dối trá, những thủ đoạn để tồn tại, rồi đến những năm tháng tủi
nhục đè nén trong chốn lao tù, cuộc chạy trốn và sau đó là quãng thời gian bình
yên nơi cái xóm nhỏ này, hình ảnh hai đứa bé chia cho hắn nửa quả dưa, chú dê
con kêu be be theo mẹ… Tất cả như một cuộn phim quay chậm cứ dần dần hiện lên
trong đầu hắn. Những tháng ngày sắp tới, làm sao để được sống an lành, tránh xa
những tháng ngày đen tối với những mánh khoé, lừa dối, đàn áp lẫn nhau để kiếm
tìm sự sống. Lời của cha già lại văng vẳng vang lên “con hãy làm sao cho thập
giá nở hoa”. Tâm trạng hắn rối bời, thập giá khô như vậy thì sao mà nở hoa được?
Lời của cha già như một lời thách đố, vừa như lời mời gọi tha thiết. Bất giác,
hắn bước lại gần thánh giá, quỳ xuống, cầm lấy thánh giá trên tay rồi nhìn xem
chăm chú như thể đang tìm xem có cách thức kỳ diệu nào để làm thập giá có thể
trổ hoa hồng được không. Hắn cứ cầm tượng chịu nạn rồi nhìn mãi, nhưng thập giá
cũng chỉ là một cây khô với hình Chúa Giêsu bị đóng đinh trên đó, làm gì có thể
nở hoa ra được. Hắn thấy dường như chính hắn đang bị đóng đinh trên cây gỗ,
cũng cô đơn, lạc lõng, giống như Chúa Giêsu trên thập giá kia, chắc hẳn ngài
cũng đau đớn lắm. Ngài đã bị người đời vu khống, bị lăng nhục, chịu đủ mọi cực
hình để rồi cuối cùng phải cô đơn và chết trên thập giá. Hắn cũng đang đau khổ,
cũng đang bị người đời truy đuổi, bị thế gian cho là xấu xa và không được hoà
vào cuộc sống bình lặng thường ngày. Tượng chịu nạn vẫn như đang nhìn hắn, vẫn
dang tay ra như gọi mời hắn hãy đến nắm lấy tay Ngài. Chúa Giêsu như đang nói: “Con
ơi, Ta cũng đang buồn, cũng cô đơn, cũng bị người đời ruồng bỏ như con đây. Sao
con không đến cùng Ta để chúng ta cùng nhau chia sẻ, cùng nhau tâm sự?”.
Hắn thấy thương Chúa quá, Người có khác
gì hắn đâu! Tự nhiên, hắn thấy mủi lòng, nước mắt cứ tuôn trào ra. Hắn ôm thập
giá vào lòng rồi bật khóc nức nở. Tiếng khóc của một người được dịp tuôn ra sau
bao năm dài tâm hồn chai sạn, chìm sâu trong cuộc đời tội lỗi, lầm lạc. Tiếng
khóc của một đứa con thơ được trở về với cha mình. Những giọt nước mắt của thống
hối, của lòng thành muốn quay về tìm kiếm sự ăn năn.
- Cha ơi, Cha có biết không! Con ở bên
ngoài khổ sở lắm. Xin cho con được trở về với Cha!
Những giọt nước mắt của hắn đã rơi, ướt đẫm
trên tượng chịu nạn. Hắn thấy hình như bức tượng đã bị dơ vì bụi bẩn, lại bị những
giọt lệ làm cho lem luốc thêm ra. Hắn bèn lấy tay lau, nhưng lau mãi vẫn chưa hết.
Hắn liền lấy vạt áo ra lau thánh giá gỗ, từng chút, từng chút một, từ vòng gai
trên đầu bức tượng, đến hai cánh tay rồi xuống đến tận chân. Mấy chỗ đinh trên
tay và chân bức tượng, hắn cứ lau mãi mà vẫn chưa hết. Hắn cứ lau miệt mài, lệ
vẫn cứ tuôn rơi. Đột nhiên, cả căn nhà nguyện như bừng sáng lên! Giật mình, hắn
ngừng lau, suýt nữa thì buông rơi thánh giá gỗ. Trên tay hắn không còn là thập
giá cũ kỹ bị lem luốc nhưng đã là một cành hoa hồng! Một cành thật hồng tươi, đỏ
chói với những bông hoa đã nở toả ra mùi hương thoang thoảng. Vòng gai trên thập
giá cũng sáng đầy hoa hồng. Lời của cha già hôm nọ lại vang lên “con sẽ được
tha khi làm cho thập giá nở hoa hồng”. Chúa Giêsu trên thập tự như đang tươi cười
nói:
- Con ơi, Cha đợi con đã hơn 30 năm nay.
Con nay đã về rồi. Cha mừng lắm. Con hãy cứ khóc đi cho thoả. Cha tha thứ hết mọi
tội của con rồi!
Người tù bất giác lại ôm chầm lấy tượng
chịu nạn và lần này hắn còn khóc to hơn. Lần này là tiếng khóc của mừng vui và
hy vọng! Hắn đã tìm được con đường trở về…
êêê
Hôm sau, dân làng xôn xao vì trong làng vừa
xảy ra một vụ mất cắp kỳ lạ. Đàn gia súc của họ vẫn còn nguyên, vẫn bình yên gặm
cỏ bên đồi; không có nhà nào bị cạy tủ, cũng không có căn bếp của gia đình nào
bị lục lạo như mọi khi. Nhưng cây thánh giá gỗ cũ kỹ trong nhà nguyện thường
ngày thì đã không cánh mà bay và từ đó về sau không còn ai tìm thấy tượng chịu
nạn ấy nữa! Có lẽ người tù hôm nọ đã mang đi cùng với mình sau khi anh ta nghe
được thông tin những người tù chung thân sẽ được ân xá hoàn toàn khi đã thụ án
được từ 15 năm trở lên trong dịp đại lễ kỹ niệm mừng thành phố tròn 500 tuổi sắp
tới chăng?
Mã số: 17-037
Khi tôi bắt đầu đặt bút viết ra những
dòng này cũng là lúc tôi thả mình trôi theo những suy nghĩ về Thiên Chúa, giá
trị và niềm tin Thiên Chúa trong tôi. Thiên Chúa là gì mà khiến con người ta phải
khao khát kiếm tìm, phải hạnh phúc, đớn đau như vậy. Bản thân mọi người sẽ tự
có câu trả lời cho câu hỏi ấy. Còn riêng tôi, câu trả lời bắt đầu đến từ một
câu chuyện của một cậu bé năm nay mới chập chững bước vào đời và ôm ấp trong
mình nhiều điều kỳ lạ.
Cạnh một con đường nhỏ, có một ngôi nhà
đơn sơ mà giản dị. Một này nọ nó muốn đi qua bên nhà thờ một nơi mà từ khi sinh
ra tới bây giờ nó chi nghe mà chưa bao giờ đặt chân vào nơi đó.
Một ngày nọ nó đi qua nhà thờ và lần đâu
tiên nó thấy một người đàn ông mà mọi người đều kêu bằng Cha, nó chợt thốt lên:
- Ôi chao, Cha thật cao cả, con muốn được
mọi người gọi con như vậy!
Cha nhìn nó và nói:
- Con chỉ là một cậu bé, con không bao giờ
có những người gọi như Cha đâu!
Nó thất vọng, nhưng nó chợt nhìn lên một
bức tượng Chúa và thốt lên:
- Chúa thật là cao cả và Chúa có ở khắp
nơi trong bầu trời này, con muốn được như Chúa.
Nhưng Chúa nhìn nó và nói:
- Con chỉ là một đứa trẻ, con không bao
giờ có ở khắp nơi như ta đâu.
Nó thất vọng lần nữa, rồi nó hỏi một bác
lớn tuổi trong nhà thờ:
- Bác gì ơi, liệu một đứa trẻ như cháu có
làm được gì vĩ đại không ạ?
Bắc lắc đầu trả lời:
- Không đâu, một đứa trẻ như cháu thì
không làm được điều gì vĩ đại cả. Hãy yên phận làm một cậu bé thì hơn.
Cậu nhóc buồn rầu ngước lên nhìn Cha,
Chúa và ông Bác.
Rồi năm này qua đi, năm tới lại đến nó trở
nên mạnh mẽ hơn. Bỏ lại một làn da trẻ em, nó khoác lên mình một làn da bánh mật.
Như mọi ngày, nó vẫn ngước lên nhìn Chúa đang ở trên Tòa Thánh kia, đôi mắt
tràn đầy sự ngưỡng mộ và tiếc nuối.
Chợt từ đâu có một cô bé tới gần nó, nó
nhìn cô bé một hồi rồi hỏi:
- Chị ơi, chị cứ đi đi về về nhà thờ hoài
vậy, chẳng lẽ chị không mệt mỏi sao?
Chị mỉm cười và trả lời:
- Không, chị không bao giờ thấy mệt cả. Mỗi
khi chị thấy mệt mỏi, chị sẽ dừng lại nghỉ một lát rồi đi tiếp.
Nó ngạc nhiên, nó hỏi lại chị:
- Vậy các chị đã đi đến những nhà thờ
nào, ở những đâu?
- Chị đi tất cả mọi nơi, bất cứ nơi đâu
chị thích, chị giúp truyền kinh nghiệm mà mình đã học được từ Chúa, chị giúp mọi
người lại gần nhau hơn….
Và chị hào hứng kể lại cho nó nghe về những
nơi chị đã đi qua, những việc mà chị đã làm, nó chăm chú nghe và đi hết từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác. Kể xong chị nói với nó:
- Thôi nào cậu bé, hãy tiếp thêm sức cho
chị nào!
Nó hiểu ý, nó liền chạy đi rót nước cho
chị và chị uống rồi chị bắt đầu đi thật xa khuất sau những ngôi nhà. Khi chỉ
còn lại mình, nó trầm ngâm suy nghĩ. Ai cũng được gọi là Cha hay to lớn như
Chúa có ý nghĩa gì. Nó muốn được như chị, tự do ngao du khắp nơi trong đất nước
này và trên thế giới. Nó chợt nghĩ, điều quan trọng nhất của cuộc sống này
chính là sự tự do, và được những điều bổ ích, nhưng nó chỉ là một cậu bé, nó
làm sao tự do đi lại khắp đất nước và trên thế giời này như chị được. Một lần nữa
nó lại thất vọng.
Rồi một ngày nọ, trời mưa lớn, và trời đất
tối sầm. Nó đi ngủ sớm hơn mọi ngày và trong mơ nó được đi nhiều nơi tiên cảnh,
thật đẹp mắt.Nó vui lắm, khi đi càng xa nó gặp một người mà nó đã gặp rất nhiều,
nó cố nhớ và kêu thốt lên Chúa. Nó tới bên cạnh Chúa và hỏi Chúa:
- Thật kì diệu, Chúa có thể bay trên bầu
trời như những cô tiên, vậy Chúa là ai ?
Chúa nghe thế, liền cười và nói với nó:
-
Phải rồi đấy con. Ta bay từ trên trời để đi khắp nơi.
Nó
hỏi Chúa: Tại sao Chúa lại bay trên trời luôn như vậy được?
Chúa bắt đầu kể về câu chuyện của mình.
Nó chăm chú lắng nghe, nó tưởng tượng thật nhiều.Chúa luôn trong mọi người, và
trong trời đất bao la rộng lớn này và nhiều người muôn hình muôn vẻ thật đẹp đẽ
biết bao. Rồi khi những ai cầu nguyện về ước ao, cuộc sống, tình cảm, sự sống...
Khi ở trên cao như vậy ta sẽ nghe hết những lời cầu nguyện và ban ơn cho tất cả
mọi người. Khi Chúa kể xong câu chuyện của mình và Chúa bắt đầu bay đi, nó nhìn
theo, trong lòng cảm thấy ghen tị lẫn ngưỡng mộ. Nó chạy theo Chúa nhưng Chúa
đã biến mất, nó giật mình tỉnh giấc. Nó tự nhủ: Tại sao nó sinh ra lại là một
người bình thường mà không phải “chị”, hay như những người Cha, cuộc sống của họ
thật ý nghĩ biết bao.
Một ngày nọ nó nghe một giọng nói vang
lên nhỏ nhẹ:
- Anh ơi, cảm ơn anh nhé! Anh thật vĩ đại!
Nó giật mình nhìn sang trái, sang phải.
Bên hàng rào, những đứa trẻ khuyết tật đang nhìn nó cười. Nó ngạc nhiên lắm, nó
hỏi lại:
- Các em nói sao, tôi vĩ đại ư? Tại sao ?
Tôi không như người Cha xứ? Tôi cũng không to lớn như Chúa? Tôi chỉ là cậu bé
nhỏ mà thôi.
Những đứa bé bên hàng rào đáp lại nó:
- Anh không to lớn như Chúa, anh chỉ là một
cậu bé nhỏ nhoi, nhưng anh giúp chúng em về mặt tinh thần, trong việc dọn vệ
sinh cho mái trường sạch đẹp, và trong việc đi đứng của bọn em gặp rất nhiều
khó khăn… và điều đặc biệt nhất đó là anh không xem chúng em là gánh nặng của
xã hội. Đối với chúng em, anh là người vĩ đại nhất.
Nó
nghe thấy vậy, nó cảm động lắm. Lần đầu tiên trong đời, nó cảm thấy nó tự hào
vì sinh ra là một cậu bé bình thường. Kể từ đó mặc cho mọi người xung quanh như
thế nào. Nó vẫn vui vẻ đón nhận một cách tự nhiên nhất.
Nhiều năm đi qua giờ đây nó đã trưởng
thành không còn như cậu bé ngày xưa nữa. Nó nghĩ về những tháng năm nó đã sống,
nhìn lại những việc nó làm, nó cảm thấy tự hào lắm, nhưng nó đang nuối tiếc. Nó
đang tìm ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống, nó đã sống hết mình vì điều đó,
nhưng giờ đây nó đã không còn nhỏ nữa, nó đang tiếc nuối đi những năm tháng tuổi
trẻ. Nó muốn được tiếp tục sống lâu hơn nữa, muốn được cống hiến. Rồi nó tự thắc
mắc: Điều gì tiếp theo khi nó chết? Những việc nó làm còn ai nhớ tới? Nó chợt
không hiểu được, những việc làm của nó trong thời gian qua có ý nghĩa gì.
Dòng thời gian lại tiếp tục, những năm
tháng trôi qua, nó đã già và nó cảm thấy không còn tiếp tục được nữa. Nhưng nó
vẫn không ngừng suy nghĩ, nó vẫn băn khoăn về điều gì đó; phải chăng là cuộc sống?
Rồi một đêm, trong giấc mơ nó lại gặp
Chúa, trong ánh sáng thiên đường Chúa đang giang tay đón nó và giờ đây nó đã hiểu
được ý nghĩ của cuộc đời mà Chúa đã trao cho mọi người trong cuộc sống này và
trước khi đi cùng Chúa, nó đã xin được gặp con cái lần cuối.
Ngày hôm đó chính con của nó đã hỏi: Ba
ơi, liệu con có thể làm được gì vĩ đại không ạ?
Ba nó định trả lời thì từ trên trời Chúa
hiện ra với nụ cười trìu mến và nói:
Chúng ta không quan trọng mình là ai,
sinh ra từ đâu mà quan trọng ở việc chúng ta sẽ đi đến đâu. Giá trị của mọi cá
nhân cũng không nằm ở việc bạn sống như thế nào, mà ở những gì bạn đã để lại
sau khi chết.
Mã số: 17-038
Đó là buổi chiều buồn nhất trong những buổi
chiều buồn. Buồn hơn cả buổi chiều Ngân, đứa con gái nhỏ của nàng và tôi, bịn rịn
đi trên cát. Trong những ngôi nhà ven biển, trong những lùm cây trên đồi cát,
những người vượt biên nằm núp với can dầu, mong màn đêm xuống, chờ tàu đến, vượt
đại dương.
Chồng Ngân, lính thủy quân lục chiến vừa
tử trận. Cha nàng cũng chết trong chiến tranh. Hết cha, rồi chồng. Hai người
đàn ông nàng thương yêu đều chết trong khói súng. Nàng muốn rời khỏi xứ này. Xứ
này buồn quá! Chiến tranh khói lửa liên miên. Nàng muốn chạy trốn, muốn ra đi,
tới xứ khác, làm lại từ đầu.
Nàng năn nỉ tôi cùng đi. Trước đây tôi và
nàng cùng là ca đoàn ở nhà thờ. Những ngày thơ mộng, đêm Giáng Sinh cùng nàng
hát solo “Một mùa sao sáng”. Nàng mặc bộ áo dài trắng tinh khôi, giọng hát
trong veo. Không đeo cánh nhưng tôi từng tin nàng là thiên thần. Một anh lính
thủy quân lục chiến đi lễ đêm Giáng Sinh đã cảm giọng hát của nàng. Sau thánh lễ,
anh lính tìm gặp nàng. Họ phải lòng nhau và tôi chỉ còn biết buồn đời đi lính.
Tin chồng nàng tử trận, tôi lại là người báo cho nàng.
Nàng ao ước tôi đi cùng nàng. Một thiếu
phụ chồng vừa tử trận và đứa con gái nhỏ, sẽ leo lên chiếc tàu nhồi nhét đầy
người. Lênh đênh trên biển mênh mông. Không biết ngày mai, không biết tương
lai, còn sống hay phải chết?
Tôi cũng muốn đi cùng nhưng quay đầu lại,
thấy mình hèn quá. Cha mẹ già, em thơ còn ở lại. Quá nhiều thứ, nhiều người cần
tôi ở lại. Tôi chỉ đi tiễn hai mẹ con nàng, nhìn hai mẹ con lên tàu lần cuối.
Và chiều đó, tôi ra biển tìm nàng trong
nước mắt và đau đớn. Chưa đầy một tháng, những xác người trên chiếc tàu của
nàng trôi dạt về. Người ta nói chẳng một ai sống sót. Những xác người không còn
có thể nhận diện, trương phình gớm ghiếc.
Tôi lật những xác người, mông lung nhận
ra nàng qua cái vòng chuỗi mân côi đeo ở cổ tay. Tôi chôn xác người tôi yêu và
không biết mình có chôn nhầm? Bởi vì lỡ như trên tàu nàng tặng vòng chuỗi mân
côi cho cô gái nào đó? Nhưng chắc là nàng. Dù trần truồng, chẳng còn mảnh vải trên
người vì sóng đánh, nhưng tôi tin là nàng, vào linh cảm.
Tôi cũng lang thang trên bãi biển nặc mùi
tử khí để tìm xác con gái nàng. Tôi ước gì gặp được xác con nàng để chôn cất
cho tử tế nhưng cũng mong không tìm thấy cháu. Nếu không thấy xác cháu, biết
đâu cháu còn sống? Tôi khóc và cầu nguyện Chúa, cầu nguyện Đức Mẹ với hi vọng
nhỏ nhoi con nàng được sống.
Tôi mộng du đi trên bãi cát với lời cầu
nguyện mong manh. Tôi không khóc được, không ăn được, không ngủ được, không cười
được. Ngày nào tôi cũng đi dọc theo bãi biển tìm xác người. Người ta bảo tôi mất
trí.
*
* *
Chiều xuống, những bóng nắng nhảy nhót
trên tàng cây thu lại ánh sáng để tàng cây màu sâm sẫm. Tôi thu đồ nghề sửa xe,
chờ đứa con trai đi học về tạt qua đón. Ngồi trên vỉa hè nhìn người xe xuôi ngược,
nhìn đàn bồ câu bay đậu trên tháp chuông nhà thờ gần đó, muốn nghĩ về kiếp người
mà cũng chẳng muốn nghĩ. Một người từng đi lính vì buồn tình, tự tay chôn xác
người yêu, ấy là người tôi yêu chứ nàng có yêu tôi không thì không chắc, ở tù rồi
ra tù sau ngày đất nước thống nhất, lập gia đình khi không còn trẻ, rồi lại góa
vợ khi nàng vừa sinh ra đứa con đầu lòng. Ở tuổi bạc đầu, ngồi vỉa hè sửa xe,
vá xe nuôi con trai ăn học. Bao nhiêu biến cố thời cuộc tôi đều biết chút mùi.
Nên chẳng biết nghĩ gì bây giờ? Chỉ mừng là mình còn sống, còn lao động, còn
lòng tin ở Chúa. Và đứa con trai mặt mũi sáng sủa, khỏe mạnh, chịu khó học
hành. Thứ gì qua cũng đã qua rồi. Như Kinh Thánh nói: Con chim đói hay no Chúa
còn biết, những đau thương, khổ ải của con người sao Chúa không biết? Biết chớ,
Chúa biết hết. Biết cả việc mỗi lần xin lễ cho vợ, tôi cũng xin lễ cho người
con gái tôi chôn xác trên biển năm nào.
Mãi nghĩ, thằng nhóc con tôi đã tới từ
lúc nào. Chở tôi về, nó hỏi.
- Hôm nay sửa xe khá không ba?
- Lai rai thôi con- Tôi đáp.
- Ba ráng làm một năm nữa thôi. Năm sau
con ra trường đi làm nuôi ba.
- Thôi con, ba đi làm cho vui chứ ngồi
không để con nuôi có vui gì, có khi còn bệnh vì chân tay rảnh quá.
Thằng nhỏ cười khúc khích. Rồi đột nhiên
nó nói:
- Ba à, có chuyện này con muốn nói với
ba…
- Chuyện gì vậy con?
- Có một chị ở nhà thờ Đức Bà có gương mặt
rất giống người con gái trong tấm ảnh của ba…
- Tấm ảnh nào?- Tôi ngạc nhiên.
- Tấm ảnh ba cất trong cuốn sổ đó.
Thằng nhóc quỷ! Ba cất kĩ vậy mà cũng lén
coi cho được. Đó là tấm ảnh chụp Ngân trong đêm Giáng Sinh năm nào. Nàng mặc bộ
áo dài trắng, đứng trước hang đá Chúa Hài Đồng. Tấm ảnh đã đi cùng tôi qua bao
thời gian và biến cố.
- Con chắc là giống không?- Tôi ngạc
nhiên hỏi.
- Rất giống, như hai giọt nước. Lẽ nào
người con gái trong tấm ảnh còn sống hả ba? Mà nếu còn sống thì phải già chớ.
Sao ba già mà cổ trẻ hoài?
- Tốn tiền nuôi mày học đại học mà mày
suy luận vậy đó- Tôi lắc đầu.
Thằng con cười hí hí.
*
* *
Tôi bỏ làm, đáp xe ôm ra khu vực nhà thờ
Đức Bà. Con trai tôi nói cứ cuối tuần có một chị đẹp đứng ở khu vực này, chuyền
tay cho người đi đường những tài liệu về đạo… Tin Lành. Chị gái đẹp mà thằng
con tôi nói có gương mặt rất giống Ngân.
Tôi đi dọc công viên, những đốm nắng nhảy
nhót trên đầu. Giống như năm nào, tôi vừa mong nhìn thấy cháu vừa sợ nếu nhìn
thấy cháu. Nếu đó là con Ngân thì hay quá! Cháu còn sống. Ngân ở thế giới bên
kia chắc sẽ rất vui. Nhưng cháu trông thế nào, cháu đã sống ra sao ở những năm
tháng qua tôi không dám tưởng tượng. Một bé gái mới vài tuổi, theo mẹ vượt
biên, rồi mẹ mất, xác mẹ trôi dạt về lại quê hương. Nếu còn sống, cháu đã từng
phải trải qua những gì? Cháu đã sống sót như thế nào trên chuyến tàu định mệnh
đó và sống thế nào trên xứ không nói tiếng quê hương? Tôi không dám nghĩ tới.
Tôi thấy có lỗi với cháu. Tôi nợ cháu vì cuộc đời của cháu tôi không hay, không
biết cũng chẳng thể nào bảo vệ.
“Chị đẹp” mà thằng con tôi nói kia rồi. Một
cô gái mặc chiếc váy trắng, đứng trong ánh nắng ban mai. Những tia nắng chiếu
qua, gương mặt cháu bừng sáng, chiếc váy trắng tinh khôi cũng bừng sáng. Cô gái
giống Ngân như hai giọt nước. Nếu không bấm vào tai mình tôi còn tưởng đó là
Ngân. Cô gái đẹp ấy đi dạo quanh khu vực nhà thờ, gởi tài liệu đạo Tin Lành cho
những người chưa biết về đạo ấy.
Thấy tôi đi tới, cô rất mừng:
- Chú à, chú có biết Chúa không?- Cô gái
hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ.
- Có, chú tin Chúa- Tôi đáp.
Cô gái nhìn tôi ngạc nhiên, tròn mắt mỉm
cười.
- Chú may mắn được biết Chúa, biết mẹ ruột
của cháu và biết cả cháu…- Tôi cố giấu nước mắt nhưng không hiểu sao nước mắt cứ
chảy.
- Chú cũng đạo Tin Lành hả?- Cô gái lắp bắp
hỏi.
- Không, chú đạo Công Giáo. Mẹ ruột cháu
cũng đạo Công Giáo. Mẹ cháu lúc sống từng làm Đức Mẹ và hát ca đoàn ở nhà thờ. Cháu
cũng từng đeo cánh thiên thần đứng bên hang đá…
Những lời tôi nói chắc rất bất ngờ và khó
tin đối với cháu. Cô gái nhìn tôi, nhíu mày. Tôi nhìn gương mặt xinh đẹp của
cháu.
- Mẹ cháu tên Ngân. Chú đã chôn cất mẹ
cháu- Tôi òa khóc.
Một anh bạn cháu chạy tới, hỏi chuyện gì
xảy ra. Cháu lắc đầu bảo “không có gì” và theo anh bạn bước đi. Họ nắm tay
nhau, đi phát tài liệu đạo Tin Lành cho những người qua đường. Lâu lâu cháu lại
quay nhìn tôi, tìm bóng dáng tôi. Tôi đứng đó một hồi lâu chờ cháu quay lại. Nước
mắt tôi cứ chảy.
Hôm sau, tôi đem theo tấm ảnh Ngân ra khu
vực nhà thờ Đức Bà. Cháu đứng đó chờ tôi từ lúc nào. Cháu dẫn tôi qua chỗ xa
hơn các bạn cháu, họ vẫn làm công việc truyền đạo, nói về Chúa, phát tài liệu đạo
Tin Lành cho người qua đường. Cháu không muốn họ nhìn thấy cháu trò chuyện với
tôi.
Ngồi trong một quán nhỏ, tôi đưa cháu tấm
ảnh mẹ cháu.
- Ngày trước tên thánh mẹ cháu và cháu đều
là Maria. Mẹ cháu rất mộ đạo và rất yêu Đức Mẹ…- Tôi nói.
- Có lẽ lúc đó cháu nhỏ quá nên cháu
không nhớ gì hết. Cháu chỉ biết ba mẹ nuôi của cháu theo đạo Tin Lành. Họ cũng
yêu thương cháu, nuôi cháu ăn học đàng hoàng. Rồi cháu cũng theo đạo Tin Lành.
Cháu biết cháu là con nuôi nhưng không biết mẹ ruột cháu và cháu theo đạo Công
Giáo. Cháu cũng nghĩ là mẹ cháu đã mất, người ta cũng nói thế…
- Cháu làm công việc truyền đạo này lâu
chưa?- Tôi hỏi.
- Cũng mới thôi chú. Bạn trai cháu cũng đạo
Tin Lành. Anh ấy muốn làm mục sư. Cháu giúp anh ấy đi truyền đạo.
- Đây là số điện thoại và địa chỉ của
chú. Nếu cháu muốn biết nhiều hơn về mẹ cháu, về cháu trước kia cứ liên lạc với
chú. Chú rất tiếc vì thời cuộc và theo thời gian, bãi biển ngày xưa chú chôn
xác mẹ cháu giờ đã thành khu du lịch, chẳng biết đích xác mộ mẹ cháu ở đâu. Chú
chỉ còn giữ mỗi tấm ảnh này của mẹ cháu.
- Mẹ cháu đây sao?- Cháu nhìn chăm chăm
vào tấm ảnh, rưng rưng nước mắt. Một hồi lâu cháu mới thốt lên:
-
Mẹ cháu đẹp quá. Nốt ruồi ở khóe miệng của mẹ giống y như cháu.
*
* *
- Ba à! Sao ba buồn vậy?
Thấy tôi nằm trên võng trầm ngâm đốt thuốc,
thằng con tới bên hỏi.
- Tự nhiên buồn vậy đó con.
- Ba gặp chị đẹp, rồi sao hả ba?
- Sao đâu con? Vừa vui vừa buồn. Vui vì
con của người ba thương còn sống. Còn buồn cũng chẳng hiểu vì sao?- Tôi nói.
- Nếu con còn nhỏ, mồ côi, cha mẹ nuôi
theo đạo nào chắc con cũng phải theo đạo đó- Thằng con suy luận- Chị đẹp theo đạo
Tin Lành vì ba mẹ nuôi chỉ theo đạo Tin Lành cũng dễ hiểu mà ba. Mà ba nên mừng
là ba mẹ nuôi chỉ theo đạo Tin Lành, ít ra cũng tin Chúa. Lỡ ba mẹ nuôi chỉ
theo đạo đi đánh bom cảm tử là tiêu.
Tôi lừ mắt. Thằng con dọt mất. Cái thằng!
Biết đường thì nói, không biết thì dựa cột mà nghe. Nói ban đầu có ý đúng sau
toàn nói bậy. Tụi trẻ bây giờ không biết vì sao cái gì chúng đều coi nhẹ bẫng.
Có lần thằng con tôi nói, sao nó thấy đạo nào cũng… hay. Nó tin Chúa, yêu Đức Mẹ,
yêu đạo Công Giáo nhưng chẳng ghét đạo nào hết. Giữa một người cuồng đạo của
mình và người không ghét đạo nào không biết người nào hay hơn?
Nhờ giáo lý đạo Công Giáo, tôi biết Chúa,
tin Chúa, yêu Đức Mẹ từ khi còn nhỏ, qua những năm tháng chiến tranh, khi ngưng
tiếng súng, nếm trải hết mùi vị đắng cay cuộc đời. Chúa và Đức Mẹ luôn nằm
trong đức tin của tôi, có trong lời cầu nguyện của tôi, nghe hết những cay đắng
rã rời của đời tôi. Lòng tin đó tôi giữ suốt bây giờ. Tôi còn sống là tôi còn
tin.
Tôi nghĩ về Ngân. Nàng từng làm Đức Mẹ,
là con chiên mộ đạo của đạo Công Giáo. Có lẽ nhờ lời cầu nguyện cháy lòng của
nàng, tình yêu và đức tin của nàng mà con nàng còn sống một cách thần kì. Nghĩ
coi, giữa biển cả mênh mông, thuyền tan tác, người lớn còn bị sóng đánh xác dạt
vào bờ. Sao một đứa trẻ lại sống sót được nếu không nhờ ơn Chúa, ơn Đức Mẹ? Có
lẽ trên tàu Ngân đã cầu nguyện cho con nhiều hơn cho mình. Và Ngân cảm thấy thế
nào khi con nàng theo đạo Tin Lành chứ không phải là đạo Công Giáo giống như
nàng? Nàng có bất ngờ không? Giờ đây, linh hồn nàng buồn hay vui?
Thằng con tôi nói: “Ba à, đừng buồn nữa.
Đạo nào cũng tốt mà ba, hơn nữa đạo Tin Lành cũng tin Chúa mà”. Tôi cũng đành
an ủi như vậy.
Tôi dẫn con Ngân ra thăm mộ Ngân. Nhưng
như tôi đã nói, bãi biển đâu đâu cũng là khu du lịch. Tìm nơi ngày xưa tôi chôn
cất Ngân là không thể. Mà ngần ấy năm tro bụi của Ngân cũng theo con sóng ra
khơi xa rồi. Tôi và cháu cứ đứng mãi trên bờ biển, nhìn sóng biển chạy vào rồi
chạy ra khơi xa.
Theo quy luật của dòng chảy, tất cả mọi
dòng sông đều đổ về biển. Đạo Công giáo và đạo Tin Lành giống như hai nhánh
sông cùng chảy về biển Tình Yêu Chúa. Chúa đứng đó, bao dung và nhân ái chờ đợi
những nhánh sông chảy về. Tôi buồn vui điều gì khi tôi cũng chỉ là một mạch nước
nhỏ trong nhánh sông kia. Tôi khát khao chảy về biển rộng, dù trải qua bao sóng
ngầm nhưng tôi không phải rẽ ngang.
Con Ngân còn sống là tốt rồi. Và như con
trai tôi nói, cháu tin Chúa là được rồi.
*
* *
Một buổi chiều, tan thánh lễ, tôi bước
chân về đài Đức Mẹ, đọc kinh và cầu nguyện cùng Mẹ. Đứng trước tôi là một cô
gái, mặc bộ áo dài trắng, thả tóc thề. Mọi cô gái đều giống nhau nhưng không hiểu
sao tôi cảm thấy mình quen biết cô gái ấy. Ngân đã không còn. Con gái Ngân Việt
kiều, về nước thăm quê hương, đi dự lễ theo đạo Tin Lành chắc chắn không đi
ngôi nhà thờ Công Giáo này. Nhưng sao cái dáng ấy thân quen quá! Hình ảnh ấy phảng
phất hình ảnh tôi đã thấy ở đêm Giáng Sinh xa xưa, cũng dáng ấy, người con gái ấy.
Tôi đứng sau lưng, nín thở và cầu nguyện.
Cô gái ấy bỗng nhiên quay lại, nở một nụ cười. Tôi không thể tin vào hình ảnh
trước mắt. Tôi chỉ biết rơi nước mắt nhưng là giọt nước mắt vui mừng.
- Chú ơi! Đức Mẹ Maria hiền từ và đẹp
quá! Hồi đó tên thánh cháu là Maria hả?
Tôi lau nước mắt mà nước mắt vẫn cứ chảy
ra.
- Sao chú khóc hoài vậy? Bộ cháu nói gì
cũng làm chú khóc hết hả?
Thấy vậy tôi mỉm cười. Nụ cười của tôi vẫn
còn rưng rưng nước mắt…
Mã số: 17-041
Có bao giờ bạn cảm thấy rằng mình là một
con người tội lỗi, mà tội lỗi đó nó nhơ nhớp, cắn xé bản thân mình ra thành
trăm mảnh, gặm nhấm từng ngày trong cuộc đời? Tôi của ngày hôm nay, là một con
người như thế. Vết nhơ tội lỗi ấy đã được vẽ lên từ hai năm trước bởi không ai
khác mà là chính tôi, một cô gái trẻ, mà bây giờ chỉ còn đáng gọi là “người đàn
bà tội lỗi.”
Nhìn anh ôm thằng bé
đang say giấc ngủ với đôi má ửng hồng bụ bẫm, đó có lẽ là điều duy nhất tôi tự
an ủi cho quá khứ của mình. Anh đến với cuộc đời tôi như một cơn mưa rào mùa hạ,
và thằng bé ra đời sau tiếng sấm giận dữ cuối cơn mưa. Tiếng sấm đó là sự giận
dữ của trời cao, là sự phẫn nộ của cộng đoàn, là sự xấu hổ, đau đớn của bố mẹ.
Được sinh ra và lớn lên trong một gia
đình gia giáo, dưới sự dạy bảo rất nghiêm khắc của bố mẹ. Bố là chủ tịch hội đồng
giáo xứ, mẹ là trưởng ban gương mẫu của hội Hiền Mẫu, và tôi là đứa con gái “rượu
thuốc” duy nhất của gia đình, cũng là cô đàn sĩ phụng vụ của giáo xứ. Với cái
tuổi đôi mươi, thời gian mà con cái nhà người ta đang hẹn hò, cặp kè với tình
yêu đôi lứa đầy thơ mộng, còn tôi thì chưa một lần rung động với một người con
trai nào. Vậy mà…
Buổi chiều tối hôm ấy, trong cơn mưa tầm
tã, tôi mang tô súp riêu cua nóng hổi mà mẹ ưu ái dành cho Cha sở tôi. Vừa bước
chân vào nhà xứ, tôi bắt gặp ngay một cái gật đầu “Chào em!” – một nụ cười rạng
ngời, đầy ấm áp, thánh thiện ánh lên trong sự khiêm tốn nhẹ nhàng. Đó chính là
anh. Toàn thân tôi như bất động. Lòng tôi như tan chảy ra trước vẻ đẹp sâu xa
trong ánh mắt trìu mến của anh. Giây phút này, bao nhiêu điều mẹ tôi răn đe, dạy
bảo chợt tan biến mất. Trong tôi, có một khao khát, rực cháy muốn được bứt phá
ra khỏi những điều mẹ tôi “vây hãm” xưa nay. Cầm trên tay tô súp còn bốc khói
mà dường như tay tôi chẳng hề thấy nóng. Bàn tay tôi trở nên “cách nhiệt” tự
bao giờ. Tôi ấp úng – “Chào…anh!”. Tôi đặt tô súp trên bàn, rồi hối hả ra về
như thể có chuyện gì gấp gáp lắm.
Tôi cứ thế chạy về, chẳng còn để ý từng hạt
mưa đang tới tấp va vào mặt. Ánh mắt, nụ cười của anh cứ hiện lên trong tâm trí
tôi. Chỉ khoảnh khắc ngắn đó thôi, nhưng sao nó cứ dai dẳng. Cơn mưa càng nặng
hạt như muốn cổ vũ cho những hình ảnh của anh. Tôi điên mất! Bước vào nhà,
trong bếp, có tiếng bố mẹ đang trầm trồ:
- Chà! Năm nay giáo xứ mình trúng mánh có
một thầy giúp xứ quá đẹp trai!- Giọng mẹ tôi đầy tâm đắc.
- Bảnh trai thật, cao to thêm cái tật là
có quá nhiều tài nữa bà ơi! Đàn hát xướng ca thứ gì cũng có – Bố tôi càng to giọng
hơn – Thầy Phê-rô Trần Thanh Tân.
Nghe lén được cuộc trò chuyện của bố mẹ,
tôi ngờ ngợ “Anh ta là thầy hả?” . Rồi bao nhiêu câu hỏi cứ ùa đến với tôi. Tại
sao mình lại? Tại sao…và tại sao? Tôi lặng lẽ bước lên phòng mà lòng cứ ray rứt,
bồi hồi. Mặt mũi bơ phờ, tôi dội một gáo nước cho bừng tỉnh như muốn dội đi những
suy nghĩ trong đầu lúc này.
Ba tháng trôi qua, kể từ ngày anh về giúp
xứ, mọi thứ dường như trở nên mới lạ hơn. Nhiều cộng đoàn sinh hoạt nhịp nhàng
hơn. Thiếu nhi, lễ sinh, giới trẻ, hội mân côi, hội hiền mẫu, hội người cha… tất
cả đều tham gia có phần tích cực, năng nổ. Anh đã mang đến cho giáo xứ một luồng
gió tươi trẻ, năng động. Anh hát hay lắm. Giọng anh cao khỏe, trong trẻo, và ấm
áp như cõi lòng tràn đầy tình người của anh. Anh luôn biết quan tâm đến tất cả
mọi người. Nụ cười ấy luôn nở trên đôi môi của anh, ánh mắt cảm thông chia sẻ
luôn được trao ban với tất cả những ai anh gặp gỡ.
Mùa Giáng Sinh chuẩn bị đến. Ca đoàn tập
hát nhiều hơn, nào ca đoàn người lớn, ca đoàn giới trẻ, ca đoàn thiếu nhi, và
tôi có nhiệm vụ đệm đàn cho anh tập hát, đó cũng là lý do tôi được gặp anh nhiều
hơn. Lòng tôi rộn hẳn khi tiếng đàn vang lên, và anh cất cao giọng hát. Tiếng
hát của anh như muốn xua tan đi cái lạnh lẽo của tiết trời mùa đông, sưởi ấm
cho bao lòng người. Từng ngày trôi qua, tôi vui thích được “hợp tác” với anh,
tôi thả hồn theo tiếng hát của anh, tôi mê mẩn với niềm vui, niềm hạnh phúc đó.
Đôi khi tập hát liên tục nhiều giờ, nhiều ngày, anh luôn nở nụ cười động viên mọi
người:
- Cố lên mọi người! Ngày đó Chúa sẽ đền
bù! – Lúc đó, tôi không nghĩ đến Chúa có đền bù cho tôi hay không, nhưng chỉ cần
anh mỉm cười với tôi, là tôi trở nên phấn chấn lạ thường.
Anh là vậy đó, một con người sống tình cảm,
khiêm tốn, nhẹ nhàng, biết quan tâm chia sẻ với người khác. Anh được rất nhiều
người mến mộ. Các em thiếu nhi quý anh lắm, lúc nào cũng “Thầy Tân ơi…Thầy Tân
à”. Các cô choai choai trạc tuổi tôi thì không ngại liếc mắt “đưa tình”, nở nụ
cười làm duyên với anh. Các ông, các bà thì thường xuyên lui tới nhà xứ biếu
Cha sở món này món nọ với “ý đồ” được gặp gỡ trò chuyện với anh. Phần tôi, anh
đã mang đến cho tôi biết bao cung bậc cảm xúc, chỉ cái nhìn của anh thôi, cũng
đủ làm tôi trở nên một con người khác lạ.
Từ đó, tôi biết rõ trong sâu thẳm lòng
mình muốn điều gì, và điều đó đang thổn thức, nhen nhóm bùng cháy từng ngày:
tôi đã yêu anh. Nhưng làm sao chuyện đó có thể xảy ra được chứ? Tôi không dám đối
diện với sự thật, với chính mình. “Anh là người của Chúa mà…”. Lặng lẽ quỳ trước
Thánh Thể, với ánh nến đèn chầu Nhà Tạm hiu hắt trong màn đêm thinh lặng đến
đáng sợ, nước mắt tôi ứa trào.
- Lạy Chúa, con…con xin lỗi Chúa, con sai
rồi. Con không dám đâu Chúa ơi! – Tôi nức nở, tim tôi thắt lại. Tôi không từ bỏ
nổi tình cảm ấy. Tôi phải làm sao đây? Đối diện với nó ư? Đó lại là điều đáng sợ
hơn nữa.
Hôm đó, tôi đến tập hát sớm hơn mọi ngày.
Ca đoàn chưa một ai đến, nhưng anh đã ngồi đó tận bao giờ. Anh ngồi đó nhìn những
phím đàn Piano đen trắng, bất giác đưa tay nhấn phím Đô. Âm thanh vang lên, tôi
nhận ra nó như tiếng còi tàu thủy sắp ra khơi, văng vẳng và kéo dài. Tự nhiên tôi muốn lao theo tiếng còi tàu ấy ngay lập
tức, muốn bỏ qua tất cả mà chạy theo anh ra ngoài biển khơi kia, vùng vẫy một
tình yêu tuổi trẻ. Nhìn anh từ phía sau trong chiếc áo chùng thâm, nghiêm nghị
mà thánh thiện, tôi lại càng thấy anh đẹp hơn nữa. Tôi biết mình đã bị tiếng
còi tàu ấy làm cho trở nên yếu đuối và không cưỡng lại được sự cám dỗ. Tôi vội
chạy ra ngoài trước khi anh kịp phát hiện ra tôi đứng đó.
Ngày tháng trôi qua, tôi cứ mãi sống
trong thứ tình cảm không hồi kết đó. Rồi buổi tối cuối năm ấy, Cha sở vắng nhà,
tôi thật sự cảm thấy lo lắng hồi hộp khi mẹ bảo tôi đem đến cho Thầy mấy món hải
sản dưới quê gửi lên. Tôi nói mẹ để sáng mai nhưng mẹ nhất quyết không chịu vì
phải ăn liền mới ngon. Tôi ngập ngừng rồi cũng đi. Tôi hồi hộp bước vào nhà xứ.
“Em đi đâu tối vậy?”- Vẫn là một nụ cười rạng ngời, đầy ấm áp thánh thiện ánh
lên trong sự khiêm tốn nhẹ nhàng như lần đầu tiên tôi gặp anh ấy. “Mẹ em gửi Thầy
ít hải sản dưới quê... Em... em về đây ạ...”. Tôi lúng túng quay ra cửa thì trời
vừa đổ cơn mưa xối xả. Tôi đành phải quay vào vì không mang theo áo mưa. Anh
kéo ghế bảo tôi ngồi. “Đùng!”. Một tiếng sấm lớn cùng tia chớp xẹt ngang cửa
khiến tôi giật mình hét lên và quay qua ôm chầm lấy anh. Lúc này đèn điện bị
cúp hết toàn bộ, càng sợ hơn tôi càng ôm anh chặt hơn nữa. Anh toan đẩy tôi ra
và lúng túng “Để thầy đi lấy nến...”. Khi anh cất giọng lên tôi mới kịp nhận ra
mình đang làm gì, đáng lẽ tôi phải buông anh ra ngay lập tức, bỏ chạy về trong
mưa như lần đầu tiên tôi gặp anh vậy. Nhưng... tôi không làm được điều đó. Bao
nhiêu cảm xúc dồn nén lâu nay như được vỡ òa ngay lúc này. Âm thanh của nốt Đô
từ phím đàn Piano đen trắng lại vang lên văng vẳng, kéo dài trong trí óc tôi. Lần
này, tôi đã bỏ mặc tất cả sợ hãi mà lao theo nó...
Những ngày sau đó, tôi nằm suốt trong
phòng, tôi sợ phải ra ngoài, tôi sợ gặp mọi người và tôi sợ gặp anh. Hơn hết,
tôi sợ chính bản thân, chính con người nhơ nhớp của mình. Tôi nói tôi mệt nên
không đến đàn cho ca đoàn được. Bố mẹ tôi lo lắng và luôn cố gắng chăm sóc để
tôi nhanh chóng khỏe. Hôm sau, mẹ nói mọi người trong ca đoàn sẽ đến thăm khiến
tôi càng lo lắng hơn nữa. Tôi cảm thấy mình vô cùng xấu hổ, sợ hãi khi nhìn vào
mắt bố mẹ, Cha sở, cộng đoàn và cả anh. Đặc biệt khi đọc kinh cầu nguyện cùng
Thiên Chúa, tôi chỉ biết đấm ngực mà xót xa cho tội lỗi của mình.
Sau một tuần, tôi cố gắng để trở lại cuộc
sống bình thường. Tôi vẫn đến nhà thờ, vẫn đàn nhưng tôi không dám nhìn vào mắt
anh nữa. Tôi tự hứa với lòng sẽ từ bỏ điều mà lâu nay tôi mong muốn, tôi chỉ muốn
mình trở về là một cô đàn sĩ phụng vụ ngoan hiền, khuôn phép như ngày xưa.
Nhưng tôi đâu có biết, điều đó đã quá muộn màng và mọi thứ đã đi quá xa. Tôi bắt
đầu cảm thấy mệt mỏi, khó thở... Và rồi, còn điều gì đáng sợ hãi hơn lúc này nữa...
Tôi đã mang trong mình một sinh linh bé bỏng...
Tôi sẽ phải đối diện thế nào với sự thật
này, tôi sẽ trả lời bố mẹ thế nào? Là thầy xứ? Không, sẽ không một ai trên thế
gian này chấp nhận sự thật đó. Rồi anh sẽ thế nào, chiếc áo chùng thâm anh đang
mặc sẽ vì chuyện này mà cởi bỏ sao? Anh đã chọn con đường trở thành người của
Chúa, nhưng sao con người tội lỗi của tôi lại giành lấy anh từ Người. Tôi đã
phá vỡ cuộc hành trình của anh, cuộc hành trình mà lẽ ra anh chỉ toàn nhận được
niềm vui và sự bình an từ nơi Người, giờ đây đã trở thành cuộc hành trình trần
thế đầy trắc trở.
Tôi lấy hết can đảm để nói chuyện với
anh. Tôi và anh quỳ trước Thánh Thể Chúa, cả hai chúng tôi đều khóc, khóc cho tội
lỗi của mình, khóc cho những dục vọng cám dỗ mà mình đã không quyết tâm cầu
nguyện để mà mạnh mẽ chiến đấu, dập tắt nó. Giờ đây, chúng tôi là những tội
nhân quỳ trước Thiên Chúa, tôi không bao giờ dám cầu xin Ngài tha thứ cho mình.
“Tội nhân nào cũng có tương lai – quá khứ dù có đen tối đến đâu, nếu ta biết chấp
nhận và vươn lên”. Nhưng thử hỏi tôi có thể vươn lên như thế nào đây ? Làm sao
tôi có thể tha thứ cho chính mình, tha thứ cho việc làm đầy tội lỗi đó ?
Khoảng thời gian anh mới về, giáo xứ tích
cực năng nổ bao nhiêu thì bây giờ tất cả như chìm vào một cơn vũ bão, cơn bão của
tội lỗi do chính tôi gây ra. Hình ảnh cô đàn sĩ ngày ngày cũng ca đoàn cất lời
ca ngợi Chúa bây giờ không còn nữa. Mọi người dèm pha tôi một nhưng dèm pha anh
đến mười. Người Thầy xứ đầy năng lực, nhiệt huyết và ấm áp của cộng đoàn giáo xứ
giờ đã biến thành một người lặng lẽ, luôn cúi gầm mặt và không còn dám ngước
nhìn cộng đoàn nữa. Mẹ tôi đã nhập viện vì không chấp nhận nổi sự thật ấy, bố
tôi thì chỉ biết khóc và gào thét với tôi “Tại sao con gái tôi lại bị ma quỷ
cám dỗ như thế này...”
Anh thu xếp quay về Tòa Giám Mục và quỳ gối
trước Đức Cha, gửi lại cho Ngài chiếc áo chùng thâm mà ngày đầu được mặc anh đã
vô cùng hạnh phúc. Chiếc áo ấy đã theo anh trong suốt đoạn đầu cuộc hành trình
đi tìm tình yêu thực sự là Thiên Chúa. Đó còn là dấu hiệu nhận biết anh là người
của Chúa, nhưng con mắt trần tục của tôi đã cố chấp bỏ qua dấu hiệu đó, để giờ
đây, anh không còn xứng đáng choàng lên cho mình chiếc áo ý nghĩa ấy nữa.
Anh quay lại đón tôi, chúng tôi quỳ gối
trước mặt bố mẹ và bà con họ hàng, nói lời xin lỗi muộn màng cho những việc làm
hết sức tội lỗi của mình. Nhưng tôi biết rằng, không một con người trần thế nào
có đủ độ lượng để tha thứ cho những con người như chúng tôi. Chúng tôi trở
thành một cái gai trong mắt mọi người và dường như không còn được chấp nhận nơi
cộng đoàn giáo xứ nữa. Với những người ngoại đạo, chúng tôi thậm chí còn không
được chấp nhận như một con người bình thường trong xã hội. Tôi và anh đã chọn
cách ra đi, đến một nơi xa xôi khác, mang theo trong mình sự ân hận, cắn rứt về
tội lỗi và mang theo cả đứa bé vô tội đang lớn dần lên trong tôi.
Buổi sáng hôm ấy, bầu trời u ám và trút
mưa. Chúng tôi xách lỉnh kỉnh vài túi đồ, leo lên xe, tôi ngồi vào hàng ghế đầu.
Mẹ đưa tay gạt nước mắt, tôi không dám ngoảnh đầu lại bởi hình ảnh tiều tụy của
bố mẹ phía sau. Xe chuyển bánh, chuyến xe đưa chúng tôi về vùng biển phía Nam của
Tổ quốc. Ở nơi đó, mỗi ngày, chúng tôi đều nghe thấy tiềng còi tàu thủy ra
khơi, thứ âm thanh mà tôi cho rằng giống nốt Đô từ phím Piano mà anh bất chợt tạo
ra ngày hôm đó. Một nốt Đô đáng nhớ trong bản tình ca của một đời người. Nghe
cao, thanh thoát, nhưng vẳng lại và day dứt mãi không nguôi...
Ở nơi hải đảo xa xôi này, chúng tôi sống
trong một căn nhà lụp xụp ven bờ biển của một người dân đi ra khơi để lại.
Chúng tôi nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ bà con họ hàng,
nhớ cộng đoàn giáo xứ, nhớ những giờ tập hát tràn đầy niềm vui và hân hoan. Nơi
đây, chúng tôi chỉ có thể đến nhà thờ mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật. Trong nhà
Chúa, sự ân hận và đau khổ tăng lên gấp bội lần, bởi lẽ ra, nơi đây mới chính
là nhà của anh và tôi cũng được chung hưởng niềm hạnh phúc với công việc đàn phụng
vụ giáo xứ. Chúng tôi đã tự đẩy mình ra khỏi vườn Địa Đàng đầy trái ngọt mà
Thiên Chúa ban tặng. Giá như, giá như ngày ấy, mỗi người chúng tôi quyết
tâm sống đúng vai trò của mình trong Giáo hội....
Một mùa Giáng Sinh nữa lại đến, cái lạnh
càng đậm hơn ở nơi đầy gió và sóng biển này. Buổi sáng, đứa bé chậm chững nô
đùa trong sân bỗng dưng dừng lại, nhìn chăm chú vào một người lạ nào đó đang tiến
về phía nó. Trước cửa nhà tôi là một người phụ nữ với tấm lưng còng, mái tóc bạc
rối tung lên bởi gió biển, run rẩy và lưng tròng nước mắt. Anh chạy ra, quỳ gối
và khóc “Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ...” Đó là người phụ nữ đã mang nặng đẻ đau một
người con trai, tần tảo ngày tháng nuôi nó lớn lên với tâm nguyện dâng trọn cuộc
đời con mình cho Chúa, cho Giáo hội. Vậy mà, nó đã trả hiếu cho người phụ nữ
cao cả ấy như thế này...
Tuổi
trẻ nào mà chẳng thắm yêu thương. Xin hãy đến với nhau bằng con đường đẹp lòng
Thiên Chúa.
Mã số: 17-042
Hữu Tình.
“Anh
yêu Em. Dù cho sông Hương có cạn, núi Bến Ngự có mòn thì tình yêu của anh dành
cho Em vẫn không bao giờ thay đổi”. Thời trai trẻ, cái tuổi của
mộng mơ và xúc cảm, Hữu Tình đã dành những lời đầy âu yếm như thế cho người con
gái mình thương.
Tình yêu của chàng trai và cô gái nơi mảnh
đất cố đô dịu dàng và sâu lắng ấy tưởng chừng chẳng bao giờ biến tan. Như nước
sông Hương cứ vơi rồi lại đầy, như núi Bến Ngự đến mùa thay lá và lại đến mùa
xanh um, mối tình ấy cũng có khi “lên thác xuống ghềnh” nhưng vẫn cứ đẹp, cứ êm
ả lững lờ trôi giữa dòng chảy cuộc đời dường như vô tận.
Rồi một ngày kia, theo tiếng hẹn hò của
tình yêu như bao ngày, cô gái chạy tìm chàng trai bên dòng sông Hương loang tím
trong cảnh trời chiều mát rượi.
“Hữu Tình!”. Tiếng cô gái gọi thanh thanh
mà êm ái đậm chất con người xứ Huế mộng mơ khiến chàng trai như bừng tĩnh giữa
cơn mê. Bởi Hữu Tình đang mãi miết theo đuổi những ý nghĩ thầm kín trong thâm
sâu cõi lòng; bởi ánh mắt chàng đang như đờ đi theo những gợn sóng lăn tăn rượt
đuổi nhau do mái chèo của những chiếc thuyền xa xa giữa dòng dội tới; nên anh
hơi bối rối khi bắt gặp khuôn mặt của người anh thương, một khuôn mặt với nụ cười
rất đỗi thân quen.
Cô gái ngồi dựa đầu vào vai chàng trai và
mãi mê với những câu chuyện của mình. Giọng cô hồn nhiên, tươi tắn và tâm tư đầy
niềm vui. Cô kể chuyện chỉ bởi vì cô muốn nói. Cô cũng chẳng hiểu vì sao mình lại
kể những chuyện như thế. Bởi một điều mà cô biết rất rõ: Cô yêu Hữu Tình và những
câu chuyện chỉ là cái nền cho việc cô muốn ngồi cạnh bên anh thật lâu, thật
lâu.. như muốn vươn đến tận cùng của thời gian. Thế nhưng, cô đâu biết rằng:
Người cô thương yêu lại đang chẳng thể nào để tâm được đến những lời cô nói.
Ánh mắt phía trên mái đầu cô bây giờ vẫn đang theo đuổi những gợn sóng li ti giữa
dòng sông lững lờ trôi. Ánh mắt đăm chiêu mà nhiều tâm sự ấy diễn tả một nỗi
lòng khó nói mà anh đang ấp ủ.
Bỗng nhiên, anh nhẹ nhàng hôn lên tóc cô
và môi mấp máy phá vỡ sự thinh lặng của chính anh với những âm thanh dường như
đã lạc hẳn: “Anh yêu Em!”. Một câu nói rất đỗi thân quen và là câu nói mà cô
thích nhất trong cuộc đời này. Đó cũng là đòi hỏi duy nhất của cô mỗi khi cô được
ngồi gần kề bên người cô thương. Thế nhưng, có lẽ đến lúc bấy giờ, cô cũng
không biết được rằng, đó là lần cuối cùng trong cuộc đời, cô được nghe câu ấy từ
môi miệng và cả từ trái tim của người yêu.
Dường như có cái gì chặn ngay cổ họng, dường
như Hữu Tình đang nghẹn ứ chẳng thể thốt nên lời nào nữa khi cô gái đáp lại
cũng bằng những lời thân thương nhất diễn tả một tình yêu thủy chung và nồng
nàn nhất dành cho anh.
Dường như Hữu Tình muốn khóc thật to hầu
mong có thể đẩy ra hết những cảm giác thổn thức đang khuấy động và bóp nghẹt
phía bên trong lồng ngực. Thế nhưng, anh cố kìm nén; anh cố bắt con tim mình phải
nghe theo sự sắp đặt của lý trí, dù đó là điều vô cùng khó khăn trong lúc này.
Quả thế, mặc dù đã chuẩn bị kỹ càng và mặc dù đã cố lấy hết can đảm để có thể
làm chủ cảm xúc của mình trong cuộc gặp gỡ hôm ấy, nhưng đúng như Pascal từng
nói: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào hiểu được”, anh cũng chịu
chung một số phận như thế.
Cô gái nhận ra ngay sự khác biệt của người
thương. Bởi lẽ, chính thái độ của Hữu Tình, chính những thổn thức không chịu
nghe lời để ở yên trong sâu thẳm mà lại bùng vỡ nơi khuôn mặt, nơi khóe mắt của
anh đã tố cáo anh.
Dường như không thể chạy trốn được nữa,
dường như một ánh mắt trìu mến đang dồn anh đến tận chân tường của những hoài
nghi, Hữu Tình lên tiếng, giọng vẫn lạc đi như run rẩy, như thẩn thờ nhưng đầy
xác quyết, anh hỏi: “Em có nghĩ rằng có ai trong thế giới này có thể tránh né
được tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa không?”.
Một câu hỏi bất ngờ nhưng mang tất cả nỗi
trăn trở bấy lâu của anh về Thiên Chúa, về cuộc sống, về hạnh phúc, khổ đau và
trên cả là tình yêu… Câu hỏi dường như quá khó đối với cô gái. Hữu Tình biết rõ
điều đó, bởi chính anh cũng chưa có câu trả lời hoàn toàn đầy đủ cho chính
mình. Bởi anh cũng đang tìm câu trả lời và đó chính là nguyên nhân khiến tâm hồn
anh bị khuấy động đến tận cùng cõi thẳm sâu. Anh chưa tìm được câu trả lời thỏa
mãn niềm khát khao ấy, nhưng anh biết để có được nó anh sẽ phải làm gì. Đó phải
là một cuộc dấn thân. Một cuộc dấn thân mà anh biết, nó sẽ mang lại đau đớn cho
người con gái anh thương và cả chính con tim anh. Một cuộc dấn thân sẽ khiến cuộc
sống, hoài bão, ước mơ, dự tính tương lai và niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của anh
hoàn toàn đảo lộn. Nhưng, anh cũng biết rõ anh không thể tránh né được nó nữa.
Anh biết rõ anh chẳng thể ngăn cản được nó khi nó đã hoàn toàn xâm chiếm và điều
khiển toàn bộ con người anh. Anh cũng biết điều mình khao khát, cái câu trả lời
anh đang tìm kiếm có ý nghĩa to lớn dường nào. Anh quyết định. Có lẽ tận sâu
trong cõi lòng mình, anh đã đưa ra quyết định. Anh tin mình đã có một quyết định
đúng cho một hành trình có vẻ như vô định. Anh biết mình đang bước lên một “con
đường” đúng đắn dù dường như chính anh cũng chẳng rõ đích đến là đâu.
Người anh thương dường như thấy lạ lẫm,
thấy khó hiểu và khuôn mặt cô toát lên đầy vẻ thắc mắc. Câu hỏi của anh chẳng
ăn nhập gì với “câu chuyện tình yêu” giữa cô và anh. Câu hỏi mang một nội dung
mà từ trước đến nay cô chưa bao giờ nghe thấy những điều tương tự từ môi miệng
người cô thương. Cô đâu biết rằng, câu hỏi đó sẽ là mở đầu cho những thay đổi;
nó cũng quyết định sự chấm dứt và chuẩn bị cho một bắt đầu mới. Một khởi đầu mà
trong tình yêu tuyệt đối trung thành của mình cô chưa bao giờ nghĩ đến và cô
cũng chẳng bao giờ dám nghĩ đến. Bởi lẽ, cô yêu anh bằng tất cả trái tim và cô
hoàn toàn không thể sống thiếu anh.
Không gian chung quanh trở nên yên ắng một
cách lạ thường. Một sự yên lặng báo hiệu điều gì đó chẳng lành. Trên những cành
dương liễu, những chú chim nhỏ đã im bặt tiếng hót hay bởi tiếng lòng hai người
đang gào thét đến nỗi khiến họ dường như chẳng còn nghe thấy những giai điệu
tuyệt vời của bản tình ca thiên nhiên. Màu tím ngắt của bầu trời cao phản chiếu
dưới dòng Hương thơ mộng nay dường như cũng chẳng còn tím nữa, hay bởi vì ánh mắt
của hai người đã mờ đi và mãi nhìn về xa xăm nơi những vùng tối của tâm thức, đến
nỗi bức tuyệt tác của Hóa Công cũng chẳng làm rung động đôi mắt ưu tư của họ.
“Em nghĩ là ‘không’, không có ai có thể
cưỡng lại được tiếng gọi của Thiên Chúa”, cô gái lên tiếng phá vỡ sự im lặng, một
sự im lặng chỉ mới chừng mươi phút mà có cảm tưởng như đã dài hàng thế kỷ.
Dù cô đã cảm thấy có điều gì đó không ổn
từ câu hỏi của Hữu Tình; dù tâm tư cô đầy những nghi nan và chồng chất những đối
nghịch; dù cô đang cảm thấy lo sợ về một mất mát nào đó rất lớn lao có thể xảy
ra; nhưng cô đã trả lời theo đúng cách của một người có Đức Tin.
Nghe câu trả lời đầy niềm xác tín của người
thương, tâm hồn Hữu Tình dường như lại chìm sâu vào những thước phim sống động
của ký ức. Anh còn nhớ như in bóng dáng của cô thôn nữ trong tà áo dài trắng
thướt tha, độc hành trên con đường qua ngõ nhà anh, trong tiếng chuông chiều êm
ả ngân nga. Anh còn nhớ từng nụ cười, từng ánh mắt như e thẹn, như mũi tên
xuyên thấu con tim tình si của anh – chàng thanh niên đang trong cái tuổi đầy cảm
xúc. Anh cũng nhớ rất chi tiết về chuyện mình đã lao theo tiếng gọi của tình
yêu đó như thế nào. Và, biết bao kỷ niệm của những tháng ngày bên nhau lại cứ ập
đến như thác lũ, như mưa nguồn, cũng có khi lại nhẹ nhàng sâu lắng như những
cơn gió mùa thu dìu dịu… Những lời thánh thót thủ thỉ bên tai bao ngày của người
anh thương giờ đây bỗng dưng từ chốn xa xôi nào vọng lại. Có vẻ nhạt nhòa, có vẻ
xa xăm, nhưng sao lại gần gũi thân thương đến nao lòng.
Bây giờ, anh phải nói sao với
người anh thương (?). Anh chẳng biết nên bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào
với quyết định mà mình đã ấp ủ, đã lấy hết can đảm để đến đây với dự định thông
báo cho người yêu.
“Hữu Tình!”.
Đôi mắt Hữu Tình như cố rướn hết mức để
dò tìm ai đó giữa đám đông đang chen lấn cười nói rộn ràng. Một tiếng gọi mà đã
từ rất lâu anh mới nghe lại. Một giọng nói hết sức thân quen, gần gũi. Một giọng
nói mà có lẽ chẳng bao giờ anh có thể quên vì nó đã ăn sâu vào ký ức và trái
tim anh. Anh vừa dò tìm với mong muốn gặp lại chủ nhân của tiếng gọi “Hữu Tình”
mà anh vừa nghe, nhưng lòng cũng nao nao một cảm giác ngại ngần khó tả.
- “Con chào Cha, chúc mừng Cha đã thành
Linh Mục của Chúa!”. – Người phụ nữ trạc tuổi ba mươi tiến lại với bó Hồng tươi
thắm đang nhẹ nhàng tỏa hương thơm ngát trên tay. Cô nở nụ cười và dịu dàng
trao nó vào tay vị Tân Linh Mục đang như thất thần đi giây lát vì cuộc gặp gỡ đặc
biệt.
- Cám ơn Thiên Cầm. Đã lâu lắm rồi nhỉ?
Em vẫn khỏe chứ?
- Em vẫn khỏe. Hôm nay, biết tin anh được
thụ phong Linh Mục từ mấy người bạn, nên em tìm đến chúc mừng anh. Anh vô tâm lắm,
ngày vui thế này mà không báo cho em biết với để em mừng – Thiên Cầm tỏ ra hài
hước và bình tĩnh khi thốt lên những lời trách cứ nhẹ nhàng, nhưng từ tận sâu
trong cõi lòng dường như có cái gì nghẹn ứ và bóp nghẹt con tim cô.
- À, đã lâu không liên lạc nên anh cũng
chẳng rõ địa chỉ của em để gửi thiệp mời.
- Thôi, tha cho anh
lần này, lần sau mà có dịp gì vui thế này thì đừng bỏ qua em nhé!
- Ờ..!!! Thế cuộc sống của em tốt chứ? Em
đã được mấy cháu rồi?
Nghe câu hỏi của Hữu Tình, Thiên Cầm bỗng
xúc động mãnh liệt. Hơi thở như yếu hẳn đi, cô dường như muốn khuỵu xuống mà chẳng
bao giờ có thể đứng lên. Thế nhưng, cô cố tỏ ra thật bình thản và vẫn cái chất
giọng nhẹ nhàng thanh thanh của người con gái xứ Huế, cô thông báo sơ về cuộc sống
hiện tại của mình.
- À.., vợ chồng em đã sinh được hai cháu,
một cô và một cậu. Hai đứa xinh lắm. Em sống tốt lắm. Anh yên tâm đi.
Đôi mắt vị tân Linh Mục dường như nhòa đi
khi những dòng ký ức từ đâu lại ùa về. Thế nhưng, anh vẫn cảm thấy một niềm hạnh
phúc sâu xa khi trong ngày hồng phúc của cuộc đời dâng hiến, anh được san sẻ niềm
vui từ người con gái anh đã từng thương và được nghe biết về cuộc sống tốt đẹp
của cô.
- Thế thì tốt rồi, anh cũng
chúc mừng em nhé! Đáng tiếc anh không có mặt để tham dự lễ cưới của vợ chồng
em.
Dòng người dần dần đổ về các ngả đường trả
lại cho ngôi thánh đường cổ kính vẻ trầm mặc và yên tĩnh vốn có. Trên các bậc
đá, bóng dáng của vị linh mục trẻ trong màu áo vàng rất đỗi uy nghi nhưng cũng
nhẹ nhàng đầy yêu thương vẫn còn đó, mắt như vẫn còn nhìn theo dòng chảy của
đoàn người với lòng tri ân cảm tạ.
Trong dòng chảy của
cuộc đời, trong dòng người đang tuôn ra mọi hướng trên các ngả đường, anh vẫn lặng
nhìn theo một bóng hình rất đỗi thân thuộc. Anh cảm thấy thật hạnh phúc và tâm
hồn tràn ngập niềm vui. Bao nhiêu nỗi thổn thức và lo lắng của cái ngày chia
tay ấy, cái ngày mà anh quyết định ra đi theo tiếng gọi huyền nhiệm của Tình
Lang Giêsu nay như được tháo cởi hoàn toàn. Anh có biết đâu, sau mái tóc chấm
ngang lưng mà anh đang dõi theo là hai dòng lệ nhẹ nhàng lăn trên gò má của một
người con gái si tình.
“À.., vợ chồng em đã sinh được hai cháu,
một cô và một cậu. Hai đứa xinh lắm. Em sống tốt lắm. Anh yên tâm đi”. Lời nói
dối của Thiên Cầm đã mang đến cho Hữu Tình một ngày vui không thể trọn vẹn hơn
được nữa. Nhưng, chính cô lại vẫn tiếp tục đơn độc cất bước trong niềm hạnh
phúc và niềm đau giằng xé con tim. Quả thực, cô cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi
chứng kiến ngày hạnh phúc của người cô thương yêu, nhưng cô cũng cảm thấy một nỗi
cô đơn bỗng trùm lên tất cả khi quay lưng đơn độc cất bước. Trái tim cô lại rung
lên đầy những xúc cảm trái ngược: đan xen giữa hạnh phúc và khổ đau, giữa niềm
vui và nỗi cô đơn, giữa niềm hy vọng và nỗi chán chường,… Cô chẳng biết làm gì
hơn ngoài việc cứ để cho dòng lệ tuôn rơi, đôi dòng lệ mà cô đã dấu kín bao năm
trong sâu thẳm trái tim nay mới thêm một lần nữa có cơ hội lăn trên gò má. Cô
cũng chẳng hiểu nỗi tại sao mình lại hy sinh cả tuổi thanh xuân và có lẽ là cả
cuộc đời này cho một chàng trai mà mãi mãi chẳng thể thuộc về riêng cô nữa.
Cô vẫn tiếp tục cất bước về phía trước và
vẫn mãi miết chạy tìm tình yêu trong dòng ký ức. Dẫu cho cuộc đời có ồn ào náo
động, dẫu cho trần thế vẫn đầy những lo lắng, bon chen, cô vẫn còn đó niềm hy vọng
đầy sống động của một tình yêu tuyệt đối dành cho Hữu Tình.
Một tình yêu mà cô đã phải trải qua nhiều
đau đớn, nhiều uất hận của con tim rướm máu khi phải đối diện với sự chia ly.
Sau cái ngày chia tay định mệnh năm đó, cô như một người hoàn toàn chết đi. Nước
mắt cạn hẳn. Con tim khô cằn. Cả thân xác cũng nên tiều tụy chẳng còn sức sống.
Thế nhưng, nơi người con gái mảnh mai có vẻ yếu ớt đó, nơi tấm thân dần đi vào
sự chết kia lại đã bùng lên một sức sống mới. Sức sống của tình yêu đích thật.
“Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông
hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu
thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1,8-9). Cô đã nhận ra ý muốn
của Thiên Chúa và cô đã chẳng ích kỷ, để rồi chấp nhận hy sinh nhằm chu toàn
thánh ý Người. Cô cũng nhận ra vẻ đẹp của tình yêu mà cô đang hiến dâng cho
Thiên Chúa và cho nhân loại. Trong tình yêu tất cả mọi sự đều có lý do để tồn tại.
Và kể từ đó, người ta vẫn thấy bóng dáng
quen thuộc của một người con gái chiều chiều nép mình bên dãy tường rào của tu
viện để ngắm nhìn một “cái gì đó” với nụ cười hạnh phúc./.
(Tác phẩm dựa trên câu chuyện có thật của một
vị linh mục già thuộc Dòng Chúa Cứu Thế - Huế kể về chính ơn gọi của ngài. Cốt
truyện chỉ nói về một người con gái quyết định sống độc thân khi chàng trai nói
lời chia tay và theo đuổi ơn gọi dâng hiến. Tác giả đã không trực tiếp được
nghe câu chuyện này và chỉ dựa trên lời kể của bạn bè. Mọi chi tiết về cuộc
chia tay, hay cuộc gặp gỡ ngày chịu chức và các chi tiết khác xuyên suốt tác phẩm
đều là hư cấu của tác giả).
Mã số: 17-044
Bệnh viện những ngày đầu
tuần luôn nhộn nhịp bệnh nhân tới thăm khám. Đó luôn là khoảng thời gian vất vả
của đội ngũ y bác sĩ trong bệnh viện nói chung, khoa khám bệnh nói riêng. Với một
bác sĩ trẻ mới vào làm nghề như Trâm càng không phải ngoại lệ. Guồng quay cuộc
sống trôi đi, kéo theo biết bao toan tính mà bất cứ ai ở thành phố này đều lo sợ.
Nhưng đời là như vậy, thành quả lao động là vinh quang. Nhất là với công việc cứu
người thì ngoài vinh quang còn là tâm đức.
Trâm theo học bác sĩ như
định mệnh của cuộc đời. Sau những biến cố gia đình mà cô từng trải qua. Nếu chẳng
phải do căn bệnh ung thư quái ác ngày ấy cướp mất người bà yêu dấu của mình thì
có lẽ giờ này Trâm sẽ là cô giáo dạy Thanh nhạc cho những em nhỏ. Đó là giấc mơ
Trâm ấp ủ từ những ngày cô còn bé xíu, lon ton theo chân bà tới nhà thờ xem
Thánh lễ, mê mẫn với những bản Thánh Ca êm ái nhẹ nhàng. Để rồi khi lớn lên
Trâm trở thành ca đoàn, hàng tuần tới nhà thờ để học hát và đọc những bài Phúc
âm. Thấm nhuần trong từng câu chữ.
Chính căn bệnh quái ác ấy
cướp đi ngoại – người đã vâng theo ý Chúa mà bao dung để đón nhận sinh linh bé
bỏng, tội nghiệp từ chính đứa con gái vì trẻ người non dạ mà thành ra mù quáng.
Sự bao dung của ngoại như át lịm bao lời đàm tếu, rằng “nhà bà đạo nghĩa gì để
con gái chửa hoang mà không hay biết”.
Những lúc như thế tuyệt
nhiên ngoại chẳng ngó ngàng gì. Ngoại vững vàng bước qua, không phải để minh chứng
cho hành động nào hết, có chăng đó là cách duy nhất ngoại làm để có thể là chỗ
dựa cho đứa con gái tội nghiệp lúc bấy giờ.
Ngoại mất sau những trăn trối dang dở. Kiếp người như cát bụi, nằm
trong bàn tay Chúa. Dù mỗi khi nhớ về Trâm luôn đau đáu, những nỗi đau về thể
xác của ngoại luôn làm Trâm ám ảnh. Dù cô biết, với Thiên chúa, chính lúc chết
đi là khi vui sống muôn đời. Nhìn ngoại ra đi trong cái lắc đầu hối lỗi, Trâm cảm
giác thế giới dường như thu nhỏ dần, tối tăm và tội lỗi. Cũng đúng thôi vì với
cô bé mới mười lăm, mười sáu ngày ấy, đó thật sự là cú sốc lớn trong đời.
Bệnh nhân đến mỗi lúc mỗi
đông. Người khệ nệ quần áo đồ đạc, sự chuẩn bị cho một kết quả được báo trước.
Tiếng trẻ con la khóc om sòm, tiếng loa từng buồng bệnh phát ra chồng chéo nhức
óc inh tai. Đã có khi Trâm không chịu nổi áp lực công việc. Nhưng nhìn những
người bệnh đớn đau thể xác, Trâm không kìm lòng được. Có nhiều khi Trâm ngồi
trong phòng bệnh ngước lên trần nhà tự hỏi :
- Phải chăng nghề chọn
mình, hay chính Chúa chọn con để cứu người khỏi đau đớn.
Không ai trả lời, chỉ có
tiếng quạt trần xóay thành vòng lẩn quẩn phát ra âm thanh rà rà. Nhưng Trâm
luôn tin rằng Chúa chọn cô cho công việc ấy, cứu người khỏi đau đớn trần gian.
Và cô lấy điều ấy là niềm tin để làm việc.
Rồi chẳng phải vì quá yêu
nghề hay là do áp lực công việc cộng với trực đêm ở khoa quá nhiều khiến Trâm
ít có thời gian đến nhà thờ cầu nguyện. Có chăng,cuối tuần cô vội vàng ghé tham
dự Thánh lễ, rồi vụt mất giữa những hào nhoáng, xô bồ. Nhiều khi ngồi lại và
suy nghĩ, Trâm từng đấm ngực mà thú tội với Chúa trong thâm tâm. Nhưng rồi liệu
Chúa có nghe không, có thứ tha cho cô hay không, Trâm cũng không tài nào biết nổi.
Trước khi chính thức theo học ngành y, có khoảng thời gian Trâm vô
cùng sợ hãi trước những vết thương và máu mủ. Ngày thực tập ở bệnh viện cũng vậy,
tuy đã bớt sợ phần nào nhưng tay cô vẫn run khi cầm ống tiêm hút từng chút máu.
Nhất là những hôm gặp phải ca cấp cứu, người bệnh thở gấp rồi vội vàng ra đi
khiến lòng Trâm như quặn thắt. Cái bản tính thương người ấy, đã ăn sâu vào con
người Trâm từ những ngày đầu cô được ngoại dạy kinh mười điều răn. Mỗi lần khoa
cô có người bệnh tử vong, mất mấy ngày Trâm ở trong trạng thái bần thần. Day dứt
khó tả.
Hôm đó đang trong giờ trực
đêm. Chiếc xe cứu thương hú từng hồi không ngớt. Cánh cửa xe mở ra, nằm trên
chiếc cáng là nam thanh niên chắc chỉ tầm tuổi Trâm hoặc lớn hơn chút đỉnh.
Khuôn mặt bê bết những máu, nghe đâu đua xe rồi không làm chủ được tay lái nên
tông vào thành cầu, nát bấy khuôn mặt. Các bác sĩ, điều dưỡng lập tức được huy
động, chuyển bệnh nhân vào phòng hồi sức cấp cứu. Mỗi người mỗi việc, khẩn
trương và cấp bách. Trâm là người chịu trách nhiệm chính trong ca này. Xét nghiệm,
sát trùng, băng bó... Cả phòng cực nhọc gần hai tiếng, rồi thở phào vì bệnh
nhân đã qua cơn hiểm nguy.
Đến chiều tối hôm sau thì
Lâm (tên bệnh nhân cấp cứu đêm qua) tỉnh. Vẫn phụ thuộc vào máy móc, đau đớn khắp
nơi. Trâm bước vào phòng, tới gần chỗ Lâm nằm. Trần Anh Viết Lâm, sinh năm
1990. Trâm xem xét các kết quả chiếu chụp, vô tình cô thấy trên tay Lâm là chiếc
vòng đeo có in hình các Thánh. Giống chiếc vòng cô luôn đeo ở cổ tay, chiếc
vòng kỉ vật ngoại tặng Trâm một lần hành hương về Huế.
Vài ngày sau thì Lâm tỉnh
táo. Không còn phải thở ống và ăn qua xông. Có thể nói chuyện ấp úng vài câu,
dù khuôn mặt vẫn trầy trụa, máu khô đã đóng vảy. Thấy Trâm, cậu ta mở miệng cười.
Rồi cảm ơn rối rít.
- Cám ơn bác sĩ đã cứu
tôi mấy ngày qua. Không thì chắc giờ này tôi ngủm củ tỏi lâu rồi.
- Anh đừng nói vậy, công
việc cứu người là trách nhiệm của chúng tôi. Còn chết hay không là do Thiên
Chúa của anh quyết định.
- Bác sĩ biết tôi có đạo
hả? – Lâm tỏ vẻ ngạc nhiên khi Trâm vừa dứt lời.
- Chiếc vòng đeo tay của
anh cho tôi biết điều ấy. Có đáng ngạc nhiên lắm không?
- Vầng, bác sĩ hay thật.
Tôi có đạo những ít đến nhà thờ, chắc do đức tin của mình không có.
- Đức tin không ai là
không có đâu. Như việc chúng tôi tin cậu qua khỏi thì chúng tôi cố gắng tới
cùng. Mà quan trọng là đức tin ấy chưa đủ lớn, để có thể dẫn lối cho cậu. Cậu
nên cảm tạ Thiên Chúa của cậu, vì chính Ngài đã hồi sinh cậu.
- Chị nói cứ như thể chị
am hiểu về Đạo Thiên Chúa quá nhỉ. Cứ như mấy linh mục giảng đạo, nghe thấm phết.
- Tôi hả? Tôi cũng như cậu,
đó giờ tôi chưa giảng đạo lý gì cho ai như cậu nói. Nhưng đó là bổn phận của những
người Kitô hữu, nói về Thiên Chúa của họ với nhau.
- Vậy chắc chị cũng là người
có đạo. Vậy mà nãy giờ chị bảo Thiên Chúa của tôi. Thiên Chúa là của mọi người
mà.
- Thiên Chúa của mọi người,
nhưng Ngài luôn dõi theo mỗi con chiên.
- Thảo nào hôm đó, tôi cảm
giác như có người giữ em lại ở cái cầu ấy. Nếu không chắc người và xe xuống
sông luôn rồi chị.
- Cậu nhận ra điều ấy chắc
hẳn đức tin cậu vẫn còn. Hãy trở về với Chúa để Ngài nâng đỡ cậu. Thôi tôi có điện thoại phải đi. Cậu nằm đó
nghỉ ngơi. Qua tuần cậu có thể xuất viện.
Nói rồi Trâm mở cửa bước
ra. Chính cô cũng không thể ngờ mình nói ra những điều ấy, điều mà trước giờ cô
chưa từng làm như vậy. Nhưng cô tin Lâm sẽ có những suy nghĩ khác qua những gì
cô trò chuyện. Có thể cậu ta sẽ tìm về nơi cậu ta từng để đức tin của mình phải
cấp cứu. Nơi ấy có Thiên Chúa luôn rộng tay chào đón và hoán cải những lầm lỗi
cuộc đời.
Điện thoại Trâm đổ chuông
liên hồi. Lại là những ca cấp cứu khác. Trâm vội vàng bước đi, bóng cô khuất dần
sau phía hành lang. Đêm nay với Trâm lại là một đêm trực nữa thật dài.
Mã số: 17-048
Chị sinh ra trong một gia đình nghèo
nhưng vì ham học lại có trí thông minh nên cố gắng lắm bố mẹ mới cho chị học hết
lớp chín. Là con cả trong nhà, chị phải cáng đáng mọi công việc để phụ giúp bố
mẹ nuôi các em ăn học. Cuộc sống nơi thôn quê: dãi nắng dầm mưa, vất vả hết
ngày này qua tháng khác mà nghèo thì vẫn cứ hoàn nghèo. Không cam lòng, chị quyết
định xin bố mẹ vào miền Nam kiếm việc làm, hy vọng sẽ có tiền giúp gia đình bớt
vất vả hơn.
Sau đêm tổ chức cắm trại Noel cho các em
thiếu nhi trong Giáo xứ, chị lên đường vào Sài Gòn. Trước khi đi mẹ chị dặn dò:
“Con đi xa nhớ giữ gìn sức khỏe, là thân con gái lại một mình nơi đất khách quê
người…con nhớ phải cẩn thận đấy”. Nghe lời mẹ dặn mà chị cũng rưng rưng nước mắt:
“Bố mẹ yên tâm, con đi rồi sẽ sớm quay về”. Khi chị bước lên xe thằng Tí còn
nói với theo: “chị Mây ơi, khi nào về chị nhớ mua quả bóng to cho Tí, giống như
của cu Bi nhà dì Hoa nhé”. Nhìn đàn em thơ bé cùng những lời nhắn gửi hồn
nhiên, chị cố gượng cười mà lòng thấy xót xa.
Ánh hoàng hôn đang dần buông xuống, ngôi
làng bé nhỏ cùng những người thân yêu của chị cũng đang dần khuất xa và chìm
vào trong màn đêm dày đặc. Sau hơn hai ngày ngồi trên xe khách, cuối cùng chị
cũng đặt chân tới mảnh đất Sài Gòn. Khác xa với vùng quê hẻo lánh của chị - nơi
chỉ có những ngôi nhà gỗ mộc mạc đơn sơ và những dãy núi nối tiếp nhau đến tận
chân trời. Sài Gòn là một thành phố của đèn hoa tráng lệ, luôn nhộn nhịp và tấp
nập người qua lại. Còn đang lạ lẫm với môi trường mới, chưa biết phải bắt đầu từ
đâu thì chị nghe một giọng nói vang lên từ phía sau:
- Cô bé mới ở quê vào đúng không?
Chị ngỡ ngàng quay lại, bối rối vì không
biết phải trả lời thế nào thì chàng thanh niên lại lên tiếng:
- À! Tại thấy cô bé cứ ngơ ngác, trên vai
lại đeo túi đồ nên đoán chắc là cô bé mới tới. Mà quê cô bé ở đâu, vào đây xin
việc hay đi thăm bà con?
- Dạ, em chỉ đi xin việc thôi ạ!
- Ở đây có nhiều công ty lắm, thế cô bé
đã định xin vào làm ở đâu chưa?
- Dạ, em cũng…chưa biết ạ.
- Cô bé không có người quen trong này
sao?
- Quê em mãi ngoài Yên Bái nên không quen
biết ai ở đây cả!
- Vậy em đã thuê được nhà trọ chưa?
- …Dạ…cũng chưa ạ!
- Trời, cô bé này liều thật đấy! Chẳng có
ai thân thuộc lại còn đi có một mình. Mà em không thấy sợ sao?
- Em… Mà sợ gì cơ ạ?
Còn chưa hiểu chàng trai muốn nói gì thì
anh đã kéo tay chị vào một quán nước bên lề đường. Sau một hồi nói chuyện, chị
mới nhìn anh và thở phào nhẹ nhõm: “Gặp anh ở đây thật là may cho em quá”. Thì
ra anh cũng là công nhân làm việc trong một nhà máy ở gần đây, đang trên đường
đi làm về thì thấy chị nên anh đánh bạo tới hỏi thăm. Thật trùng hợp vì quê anh
cũng ngoài Yên Bái nhưng cách nhà chị khoảng chừng sáu mươi cây số. Nhờ có anh
nên chị đã nhanh chóng tìm được nhà trọ và xin vào làm trong một công ty may.
Dù đi làm xa quê nhưng chị vẫn luôn nhớ tới bố mẹ và các em, chị nhớ những buổi
tối cả gia đình ngồi đọc kinh lần hạt; chị nhớ các em thiếu nhi và lớp học giáo
lý mà chị đang phụ trách. Có lẽ suốt cuộc đời này chị sẽ không bao giờ quên được
món quà mà các em thiếu nhi đã tặng chị dịp Giáng Sinh năm ấy. Đó là một cuốn vở
ô ly, ngay trang đầu tiên được viết bằng những nét chữ nắn nót: “Chị Mây thân mến!
Chúng em sẽ luôn nhớ và cầu nguyện cho chị, chị hãy giữ gìn sức khỏe và sớm trở
về với chúng em nhé”. Chính những tình cảm đơn sơ chân thành ấy đã giúp chị vượt
qua bao khó khăn và tự nhắc mình phải luôn cố gắng.
Vốn bản tính thật thà lại nhanh nhẹn nên
sau hai năm làm việc trong công ty, chị chính thức được chọn làm thư ký cho
Giám Đốc, thay thế cô thư ký cũ đã đột ngột qua đời trong một vụ tai nạn xe
hơi. Chính ông Giám Đốc cũng rất hài lòng về phong cách làm việc của chị, ông
thường đưa chị đi cùng trong các chuyến công tác. Nhân chuyến ra Bắc ký hợp đồng
với một công ty, xong việc chị xin phép được ghé về quê thăm gia đình. Vừa
trông thấy chị ở ngoài cổng, mấy đứa em đã háo hức chạy ra:
- Bố mẹ ơi, chị Mây về rồi, chị Mây đẹp
như người thành phố.
Thằng Tí cũng thích thú khoe:
- Chị Mây ơi, hôm qua Tí được mẹ mua quần
áo đẹp. Mẹ còn mua cả quả bóng to cho Tí cơ.
- Ừ! Thế Tí có thích không?
- Tí thích chứ, mẹ bảo đấy là quà chị Mây
cho.
- Tí nhớ học giỏi và vâng lời rồi chị Mây
lại mua nhiều quà nữa được không?
- Vâng, Tí biết rồi, Tí vẫn ngoan mà!
Mấy chị em đang tíu tít kể chuyện thì bố
mẹ chị cũng từ trong nhà bước vội ra, thấy con gái đi xa trở về vẫn bình an khỏe
mạnh họ vui mừng quá sức. Mẹ chị rơm rớm nước mắt:
-
Mây về rồi à con?
- Vâng, con chào bố mẹ. Con đi mới có hơn
hai năm mà quê mình thay đổi nhiều quá mẹ nhỉ?
- Ừ! Thì mỗi ngày cũng phải đổi khác chứ
cứ như vầy mãi sao được. Mà con về rồi có đi nữa không?
- Dạ có mẹ à, nhưng con cũng chỉ tính làm
thêm một thời gian nữa rồi con sẽ về hẳn.
-Thôi! Mấy mẹ con đi vào trong nhà, chứ cứ
đứng ngoài sân như vậy hàng xóm họ cười cho – Bố chị lên tiếng.
Khi đã kể hết về công việc làm ăn cũng
như cuộc sống của chị ở trong đó, bố mẹ chị cũng cảm thấy yên tâm hơn về sự trưởng
thành của cô con gái. Nhưng bố chị cũng khéo nhắc nhở:
- Con làm trong đó cũng tốt nhưng con đừng
quá mải mê với công việc. Con gái chỉ có thì thôi con ạ!
- Bố mẹ đừng lo cho con, con vẫn còn trẻ
mà! – Chị cười lém lỉnh.
Bầu khí đang vui vẻ bỗng nhiên bị chùng
xuống khi có tiếng chuông điện thoại reo, thì ra bác Giám Đốc nhắn chị bay vào
gấp để dự cuộc họp hội đồng của công ty vào sáng mai. Biết chị lại phải đi xa
nên thằng Tí nũng nịu: “Ứ cho chị Mây đi đâu hết, chị Mây phải ở nhà với Tí
cơ”. Mẹ chị dù thương con nhưng không muốn chị phải suy nghĩ hay bận tâm đến
chuyện gia đình mà ảnh hưởng tới công việc nên bà khẽ kéo tay thằng Tí: “Lại
đây với mẹ để chị đi con”. Rồi quay sang chị, bà nói: “Thôi, con đi mau kẻo muộn
lại bị người ta khiển trách”. Chị lau vội dòng nước mắt rồi chào bố mẹ và các
em lên xe.
Trở về Sài Gòn chị lại bắt đầu với những
công việc thường nhật. Tuy nhiên, càng ngày chị càng phải dành nhiều thời gian
cho công ty hơn vì gần đây có nhiều công ty đã chính thức ký hợp đồng với công
ty của chị. Do môi trường công việc nên chị thường xuyên gặp và tiếp xúc với Tuấn
– anh trưởng phòng có tính tình vui vẻ hòa đồng. Nhận thấy ở anh có cái gì đó rất
chân thành mà chị có thể dễ dàng chia sẻ mọi chuyện trong công việc cũng như
trong cuộc sống. Chính vì thế, chị đã quyết định nhận lời cầu hôn của anh vào dịp
sinh nhật của mình (vừa hay vì đó cũng lại là ngày lễ Giáng Sinh). Hôm ấy, sau
khi đến nhà thờ tham dự thánh lễ, chị dẫn Tuấn đến bên hang đá. Thấy chị cứ
chăm chú nhìn vào tượng Chúa Hài Nhi, anh cũng định nói gì đó nhưng rồi lại
thôi. Anh lặng lẽ đứng bên cạnh và thầm nghĩ : “Có lẽ chị đang cầu nguyện và
xin chúa chúc phúc cho tình yêu của hai người”. Anh không biết rằng trong lòng
chị lúc này đang có rất nhiều thứ cảm xúc đan xen: Chị hạnh phúc vì lời cầu hôn
của anh nhưng chị cũng thấy man mác buồn khi vô tình nhớ về những mùa Giáng
Sinh trước. Trong mỗi dịp lễ Noel lúc còn nhỏ chị thường được chọn làm “diễn
viên” cho các tiết mục kịch, mà lần nào chị cũng đóng vai ma-sơ. Chị cảm thấy
thích thú khi được mặc bộ tu phục cùng với chiếc lúp trắng trên đầu (dù chỉ mang
tính tượng trưng). Từ đó Cha xứ hay gọi chị là “sơ nhí”, có lẽ vì thế mà chị
nuôi dưỡng ước mơ đi tu. Nhưng sau này lớn lên chị hiểu rõ hơn về hoàn cảnh gia
đình, chị biết bố mẹ sẽ không có đủ tiền để nuôi chị ăn học, chị cũng phải có
trách nhiệm trong vai trò của một người chị cả…mơ ước làm ma-sơ cũng vì thế mà
phai nhạt. Đêm nay, trong chính giây phút này chị thấy có một niềm hy vọng chợt
lóe lên rồi lại vụt tan biến vì ngồi bên chị lúc này là Tuấn – người mà chị đã
và đang yêu.
Ngày còn ở quê chị luôn là một cô gái
năng động và hoạt bát. Dẫu công việc có vất vả và bận rộn đến mấy chị cũng cố gắng
thu xếp để tham gia các hoạt động trong giáo xứ cũng như ở thôn xóm nơi chị ở.
Chị cũng là người có đời sống nội tâm: Trong cuộc sống hay trong công việc nhiều
lúc gặp khó khăn và bị hiểu lầm, nhưng thay vì than trách chị lại có thói quen
đến Nhà Thờ cầu nguyện. Chị tìm thấy niềm vui và sự bình an từ chính những giây
phút thầm lặng đó. Chị cũng đặc biệt thích ngắm nhìn Thánh Giá – ngắm nhìn Đấng
đã dang tay chịu chết vì nhân loại. Ngay từ khi còn nhỏ chị đã được mẹ dạy cho
ngắm chặng Đàng Thánh Giá, cùng với những giờ kinh của gia đình và những bài giảng
của Cha trong thánh lễ chị dần cảm nhận được tình yêu và lòng bao dung của một
Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Và chị quyết tâm phải làm gì đó để Thánh Giá Chúa bớt
cô đơn hơn.
Thời gian gần đây Tuấn hay đề cập đến
chuyện tổ chức đám cưới. Dù biết đó là điều đương nhiên phải diễn ra nhưng
không hiểu sao chị cứ chần chừ. Vì Tuấn cứ nhắc hoài nên trong một lần gọi điện
về thăm gia đình, chị quyết định sẽ thưa chuyện nhưng chưa kịp nói gì thì mẹ chị
đã vui vẻ kể chuyện về không khí Giáng Sinh ở quê nhà rằng các em chị giờ đã lớn,
cái Hạnh và thằng An đều đi dạy giáo lý. Bà còn khoe : năm nay cái Hạnh được
bầu làm trưởng giới trẻ và được Cha xứ giao cho việc trang trí hang đá trong dịp
lễ Giáng Sinh. Sau một hồi say sưa kể chuyện bà lại báo cho chị một tin bất ngờ :
Giáo xứ mình sắp đón Cha xứ mới con ạ ! Nghe tin này chị thực sự cảm thấy
ngỡ ngàng , chị hỏi mẹ :
- Vậy Cha xứ cũ sẽ đi đâu hả mẹ?
- Mẹ cũng không rõ, chỉ biết là sau lễ
Giáng Sinh này Cha sẽ chuyển đi.
- Nhanh quá mẹ nhỉ ? Mới ngày nào…
- Kể cũng nhanh nhưng tính ra thì cũng mười
năm rồi đấy con.
Vậy là sau lễ Giáng Sinh Cha sẽ đi sao?
Chị ngồi suy nghĩ rồi lại bất chợt nhớ về dòng ký ức năm nào. Chị nhớ về hình ảnh
người cha đáng kính – người Mục Tử luôn hết lòng vì đoàn chiên và chị thấy có
cái gì đó cay cay nơi khóe mắt…Mười năm trước đây giáo xứ chị chỉ là một vùng
quê hẻo lánh nghèo nàn, ngôi Nhà Thờ của giáo xứ chị cũng chỉ là một ngôi nhà gỗ
đơn sơ do một người giáo dân dâng cúng. Sau mười năm Cha về làm Cha Xứ, bộ mặt
của giáo xứ đã có nhiều thay đổi : ngôi nhà gỗ đơn sơ ngày nào giờ đã trở
thành ngôi Nhà Thờ khang trang – là nơi quy tụ của bà con giáo dân để thờ phượng
Thiên Chúa. Đời sống của người dân cũng có nhiều tiến triển, họ học được cách
trồng trọt và chăn nuôi khoa học hơn nhờ có sự hướng dẫn của Cha xứ. Nhớ về Cha
chị lại nhớ về hai từ ‘sơ nhí’ thân thương. Bỗng nhiên chị cứ muốn lặp đi lặp lại
hai từ sơ nhí ấy và như có một sức mạnh vô hình nào đó thúc giục chị phải đến
Nhà Thờ, đến với Chúa Giêsu Hài Đồng trong hang đá Bê Lem. Không chút do dự
chị đã đi theo tiếng gọi ấy. Tới nơi, chị hơi thất vọng vì cổng Nhà Thờ đã
khóa, chị đứng bên ngoài cố nhìn vào phía trong nhưng vô ích. Dầu vậy chị vẫn tự
an ủi mình : ‘Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi mà !’. Rồi chị lại nhớ về
mơ ước thuở ấu thơ, nhớ đến lý do khiến chị bỏ cuộc ? Và chị thầm
nghĩ : ‘Lẽ nào Chúa muốn con tiếp tục ước mơ còn dang dở ? nhưng bây
giờ con đã lớn tuổi, con đã nghỉ học từ lâu và con cũng đã có bạn trai...’.Đêm
càng về khuya, ánh trăng lại càng trở nên sáng hơn như muốn soi tỏ cõi lòng đang chất đầy nhưng tâm
tư của chị.
Tết năm đó chị bất ngờ về quê mà không
cho Tuấn biết, chị cũng thay luôn cả số điện thoại đang dùng. Tuấn vừa giận lại
vừa lo lắng, anh không hiểu tại sao chị lại hành động như thế ? Nhưng anh
còn biết làm gì hơn ngoài sự chờ đợi ? Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi mãi
cho đến gần một năm sau anh mới nhận được một tin nhắn từ số máy lạ : ‘Cám
ơn và xin lỗi anh vì tất cả. Đừng chờ em anh nhé !’. Thắc mắc nên anh bấm
số gọi lại thì không liên lạc được. Từ hôm đó anh cứ không ngừng suy nghĩ: Nếu
chỉ là nhầm số thì tại sao lại khóa máy ? Còn nếu là chị thì lý do gì khiến
chị phải né tránh ? Nhưng tất cả mãi chỉ là ẩn số mà anh sẽ không bao giờ
có được câu trả lời. Còn chị, dù đã can đảm từ bỏ tất cả để quyết định bước đi
theo lý tưởng của mình nhưng suốt mấy năm đầu sống trong Tu Viện chị cũng đã phải
đấu tranh tư tưởng rất nhiều, chị luôn bị giằng co và có cả đôi chút dằn vặt.
Có những đêm chị nằm mà không sao ngủ được, ‘hình bóng’ ngày nào vẫn khiến trái
tim chị bao lần xao xuyến. Cho tới khi chị được chính thức bước vào một giai đoạn
mới và được đội chiếc lúp trắng trên đầu thì chị đã thực sự hiểu rằng :
‘Chị cần phải thay đổi – cần phải mất một vài thứ và xa rời một vài thói quen
hơn là một ngày nào đó chị sẽ mất tất cả !’.
Trong tiết trời giá lạnh mùa đông, tiếng
nhạc của ‘Bài Thánh Ca Buồn’ vang lên mỗi lúc một rõ hơn nhưng tâm hồn chị đã
được sưởi ấm bằng một nguồn sống mới. Ngước mắt lên trời chị thầm thì với
Chúa : ‘ Lạy Chúa, chỉ có Ngài mới hiểu thấu tâm con’. Và như chợt nhớ ra
một điều gì đó, chị khẽ khàng thốt lên : ‘Ôi lạy Chúa, Giáng Sinh thật
diệu kỳ’.
BẢN
THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập
nhật cho cuộc thi lần thứ năm - 2017
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục
Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng
của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt
Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi
được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm
trao giải một lần.
1b. Riêng lần thứ sáu (2018)
sẽ có việc tổng kết các bài đạt giải 5 năm trước về tài năng (Tác giả có nhiều
bài đạt giải cao), về nhiệt tình (Tác giả gởi nhiều bài dự thi và đạt giải liên
tục nhiều năm), về triển vọng (Tác giả trẻ tuổi nhất đạt giải nhiều lần nhất),
về phong trào vv… Ngoài ra sẽ vẫn đón nhận bài dự thi bình thường như các năm
trước và vẫn có khung giải thưởng từng năm như các năm trước. Sẽ không hạn chế
số lượng bài dự thi của cùng một tác giả. Những tác giả có từ 5 bài trở lên được
vào chung khảo sẽ nhận được những phần thưởng đặc biệt, đồng thời sẽ khuyến
khích tập hợp thêm những truyện khác của mình để in thành những tuyển tập riêng
trong Tủ sách Nước Mặn.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài
giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40).
Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi.
Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không dài quá 4000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là
sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm
gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm
khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài:
Năm 2017, Hội thánh Công giáo có hai kỷ niệm lớn, Giải Viết Văn
Đường Trường xin được chọn làm chủ đề cho cuộc thi lần thứ V:
– 100 năm Đức Mẹ Fatima và việc thực hiện lời mời gọi hoán cải của
Mẹ trong đời sống người tín hữu từ ấy đến nay.
– 500 năm Hội thánh Công giáo và Hội thánh
Tin lành cùng nhìn lại cuộc cải cách của Lm Martin Luther. Người
Công giáo cần học hỏi những gì nơi anh chị em Tin Lành và có những gì cần giới
thiệu với họ? Đã có những nỗ lực nào cho tình hiệp nhất và còn phải làm gì thêm
nữa?
Ngoài ra, quý tác giả cũng có thể tham gia với những tác phẩm về
các chủ đề khác của Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi
(riêng năm thứ sáu 2018 không giới hạn số bài), có thể gửi chung một lần hoặc
nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định
dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: tên thánh, họ và tên, bút danh,
năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện
thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần
ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi
chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về
muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15
giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được
hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên Facebook Văn thơ
Công giáo https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/,
trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ
Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu
giải thưởng
Mỗi
năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một
giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai
giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba
giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15
giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển
tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có
nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển
tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền
giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ
trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải
thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1.
Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên
Facebook Văn thơ Công giáo của Giải VVĐT tại
https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/
Mời độc giả tham gia bình chọn theo thể lệ trên FB.
2.
Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép
của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời
được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ
trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116
Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com
– Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2016
(Cập nhật ngày 15-10-2016)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh
(Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa &
Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn