GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG
TRƯỜNG 2017
BẢN TIN 11
Thưa quí độc giả và quí tác giả,
Trong cuộc họp mặt các tác giả
21-22/9/2016, một số vị đã băn khoăn nêu câu hỏi: Sau khi Giải Viết Văn Đường
Trường kết thúc vào mùa thu 2018, đâu sẽ là không gian và cơ hội để các bạn trẻ
yêu thích văn thơ Công giáo cùng giao lưu gặp gỡ. Được sự chúc lành của Đức
Giám mục bản quyền, Ban mục vụ Văn hóa và Giáo dục của Giáo phận Qui Nhơn đã
xúc tiến thực hiện một tuyển tập thơ văn định kỳ, mang tên Mục Đồng để đáp ứng
thao thức ấy.
Tập san Mục Đồng ban đầu dự kiến sẽ
phát hành số ra mắt dịp Tết Đinh Dậu, thế nhưng mãi gần đây mới in xong. Ngày
24-4-2017, Ban Biên tập đã có buổi gặp gỡ để cùng nhau vui mừng cầm món quà bé
bỏng trên tay, mà cảm thấy cả một hồng ân hết sức lớn Chúa đang xuống.
Cùng với Tập san in, dự tính cứ ba
tháng phát hành một số, Ban Văn hóa và Giáo dục của Giáo phận Qui Nhơn còn xúc
tiến thực hiện một website song song, cũng mang tên Mục Đồng:
www.tapsanmucdong.net. Website đã khai trương dưới sự bảo trợ của Thánh cả
Giuse trong ngày lễ của ngài, 01-5-2017.
Ngoài mục đích tạo giao lưu gặp gỡ, cả
ấn phẩm và trang mạng Mục Đồng còn mang ước vọng giúp các bạn trẻ chí thú trau
dồi tiếng Việt.
Trong những lần họp mặt trao giải Viết
Văn Đường Trường, cách riêng là dịp năm 2015, các tác giả hiện diện đã thốt lên
tiếng lòng thổn thức trước tình cảnh tiếng Việt thân yêu đang bị suy thoái trầm
trọng. Các con cái Chúa đặc biệt thấy xót xa vì tiếng mẹ đẻ là phương tiện
không thể thay thế được trong công cuộc loan báo Tin mừng cho đồng bào người Việt.
Các cuộc thi văn thơ và các câu lạc bộ “văn học trẻ” của Giáo phận Qui Nhơn và
Giáo phận Kontum đang là những nỗ lực kiên trì và miệt mài để trau dồi khả năng
sử dụng tiếng Việt cho con em trong giáo phận mình. Một số người trong quý vị
và các bạn cũng đang có những cố gắng hết sức đáng ca ngợi với cùng mục đích ấy,
nhằm giúp cho các em học sinh trong giáo xứ, với những hình thức lớp học, câu lạc
bộ, facebook, trang web mini... Hẳn lắm lúc quý vị và các bạn cũng cảm thấy cô
đơn lẻ loi…
Tập san báo giấy và website Mục Đồng
hy vọng sẽ là người đồng hành với quý vị và các bạn trong nỗ lực chăm sóc tiếng
Việt cho thanh thiếu niên và nhi đồng trong khu vực. Cùng lúc, Mục Đồng ước
mong kế thừa di sản của cha anh với lòng biết ơn, xây dựng các tác giả trẻ
thành đội ngũ tiếp tục chăm sóc cho lớp đàn em, và thêm nữa là khích lệ các mầm
non ưu tú.
Theo hướng ấy, Ban Biên tập sẽ sắp xếp
số trang của mỗi tuyển tập (từ số 2, mỗi số sẽ dao động từ 100 tới 120 trang)
theo tiêu chí sau đây:
- 30 % dành cho các tác giả trên 40
tuổi.
- 70 % dành cho các tác giả từ 40 tuổi
trở xuống, trong đó 20 % dành cho các tác giả còn trong độ tuổi đi học.
Còn trên website thì không có sự giới
hạn về độ tuổi ấy. Mời mỗi người trong quý vị và các bạn ghé thăm và cùng tích
cực đóng góp bài vở cũng như ý tưởng.
Chúng tôi ước mong dần dần mỗi người sẽ khám phá ra sở trường của mình để thường
xuyên tham gia vào những chuyên mục mình thích.
Xin hồi âm về email: <tapsanmucdong@gmail.com>
Cũng rất mong quý vị và các bạn tìm
cách giúp giới thiệu rộng rãi Tập san và Website đến bạn trẻ xa gần, mời gọi mọi
người đọc và viết bài đóng góp.
Chân thành cám ơn quý vị và các bạn.
Nguyện chúc tất cả luôn an vui trong Chúa.
Tiếp đây, xin mời quý vị và các bạn
thưởng thức 7 truyện mới đã vượt vòng loại và đang được chấm sơ khảo.
Qui Nhơn, ngày 03-5-2017
Lm. Trăng Thập Tự
BÀI DỰ THI
Mã số: 17-107
Anh sinh ra trong một xứ đạo có truyền thống lâu đời. Có
lẽ chính vì lo giữ truyền thống mà anh có cảm giác nó đã quá già
nua với những nếp cũ. Giáo dân quê anh vẫn lầm lũi giữ đạo với bao
trái ngoáy diễn ra hàng ngày nơi thánh đường mà không một lời kêu ca.
Không ít người hiểu rõ điều đó, nhưng đức tin tinh tuyền ông cha để
lại không cho phép họ làm khác. Cái cảm giác lo sợ vì không có mục
tử trong suốt mấy chục năm do bị phạt vì tội kiện cha xứ vẫn ám
ảnh bao thế hệ quê anh. Ông bà cha mẹ luôn răn dạy con cháu nơi đây
phải bằng mọi cách vâng lời cha xứ vì ngài là đấng thay mặt Chúa ở
trần gian. Không gì khổ bằng đoàn chiên không người chăn dắt đâu con!
Từ lâu, anh đã không còn thiện cảm với cha xứ của mình
khi ngài dâng lễ chẳng mấy sốt sắng. Bài giảng dài lê thê mà nội
dung nghèo nàn, lặp đi lặp lại. Thậm chí cha còn nói năng, cư xử
thiếu nhân bản ngay cả khi còn trên bục giảng Lời Chúa. Điệp khúc
tiền thì được cha nhắc đi nhắc lại nhiều hơn cả Tin Mừng yêu thương.
Hình ảnh người mục tử như thế ngày càng xấu đi trong mắt anh. Ước mơ
làm linh mục trong anh cũng chết dần theo năm tháng.
Bước vào cổng trường Đại học, anh gặp Hà Phương. Anh
cảm mến cô ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tình cảm ngày một nảy nở khi
anh biết được Hà Phương cũng tin Chúa như anh. Nhưng cô ấy là một tín
hữu Tin Lành. Không rụt rè và nhút nhát như anh, Hà Phương tự tin với
đạo của mình. Cô ấy cũng không ngần ngại nói về Chúa của mình và
dẫn bạn bè trong lớp đi tham dự các buổi lễ của họ. Lớp anh chỉ Hà
Phương và anh có tôn giáo, nhưng mọi người biết về Chúa của Hà Phương
nhiều hơn Chúa của anh.
Được tham gia các nghi lễ của người Tin Lành, anh bị lôi
cuốn bởi cách sống đạo của họ. Đơn giản, nhẹ nhàng. Qua mỗi buổi
lễ, anh được học hỏi Lời Chúa, được nói lên những điều mình suy
nghĩ, được đánh động. Anh có dịp được hiểu Lời Chúa một cách sâu
sắc hơn. Anh nhận ra Lời Chúa quá đỗi phong phú mà trước giờ anh chỉ
biết một cách mơ hồ. Anh bắt đầu ý thức việc đọc và suy ngẫm Lời
Chúa từ đó.
Hàng tuần anh không còn đi lễ nơi thánh đường Công giáo;
hàng tháng, anh không còn tìm đến tòa giải tội như khi còn ở nhà.
Tòa giải tội là nơi anh từng cảm nhận được lòng Chúa xót thương khi
anh trút bỏ được những bí mật, những tội lỗi giấu kín trong lòng
mà không biết thổ lộ cùng ai. Nhưng không hiểu sao, giờ anh có cảm
giác nó thật đáng sợ. Giờ đây, anh có thể trực tiếp thưa với Thiên
Chúa về tất cả tội lỗi của mình như cách Hà Phương chỉ cho anh mà
không cần qua bất cứ trung gian nào. Anh không còn tin linh mục có thể
tha được tội lỗi cho anh. Bởi anh thấy cha xứ của anh tầm thường quá,
đời sống của cha không hơn gì nếu không muốn nói là thua kém giáo dân
về nhiều mặt. Anh trở nên kiêu ngạo và tự đắc. Anh cũng chẳng cần
Đức Mẹ chuyển cầu như lời mẹ anh hằng căn dặn: Hãy năng cầu nguyện với Đức Mẹ con nhé! Chính Đức Mẹ là
máng thông ơn, mối dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Chuỗi
tràng hạt anh mang theo được treo kính cẩn ngay đầu giường để mỗi
sáng mai thức dậy hay khi đêm về, thậm chí những lúc khó ngủ anh có
thể lần hạt như lời mẹ dặn, đã lâu anh không còn chạm tới. Họa chăng
khi ngủ mê, đôi lúc tay anh, trong vô thức đã làm cho nó lung lay. Không
biết vì quên hay cố tình nhưng anh vẫn không thay đổi vị trí của
chuỗi tràng hạt ấy và cũng không hề sửa đổi góc bàn thờ nhỏ trên
giá sách có cây Thánh Giá với tượng Đức Mẹ và thánh Giuse quan thầy
của anh.
* * *
- Chào cậu bé! – Người phụ nữ chủ động chào anh
- Cháu chào bà. Bà là ai? – Anh thưa lại
Trước mặt anh là một người phụ nữ trung tuổi. Vẻ đẹp
bình thường nhưng khuôn mặt hiền từ và phúc hậu. Trang phục của bà
cũng giản dị như khuôn mặt bà vậy.
- Ta là Mẹ Maria của con. – Bà trả lời
- Mẹ Maria. – Anh ngạc nhiên. – Tôi không tin, bà đừng lừa
tôi. Mẹ Maria mà tôi biết xinh đẹp tuyệt trần chứ không như bà.
- Con đã thấy ta bao giờ chưa mà con khẳng định ta đẹp
tuyệt trần?
- Dạ chưa, nhưng ai cũng bảo thế!
- Chân lý không thuộc về số đông con ạ! Có lẽ con đã
hiểu nhầm rồi. Ta đẹp nhưng đẹp về tâm hồn, đẹp lòng Chúa vì ta luôn
thuộc trọn về Người.
- Vậy tại sao khi nghe giảng lễ và khi học giáo lý, con
đều được nghe kể rằng: Mẹ đẹp tuyệt trần, Mẹ tuyệt mỹ, không phụ
nữ nào sánh bằng.
- Có lẽ những người đó yêu mến ta nên mới gắn cho ta
nhiều danh hiệu cao quý như thế. Con nghĩ xem, ta sinh ra trong một gia
đình nghèo khó tại Nagiarét, một thiếu nữ thôn quê, chân lấm tay bùn
lấy đâu ra gấm vóc lụa là, trang sức huy hoàng để có thể làm đẹp
hơn các thiếu nữ khuê các? Hơn nữa, nếu ta xinh đẹp như thế thì tiếng
tăm của ta đã lan xa và rất có thể ta đã thuộc quyền sở hữu của
một trong những vị vua quan thời đó rồi, đâu đến lượt Thánh Giuse –
một người thợ mộc lấy được ta làm vợ chứ!
- Anh nghĩ ngợi một lúc tỏ ra đồng ý. Hóa ra lâu nay con
đã bị gạt ư?
- Con không bị ai gạt cả. Bởi khi người ta yêu mến ai thì
họ luôn dành điều tốt nhất cho người đó. Những ai yêu mến Mẹ đều
muốn ngoại hình Mẹ phải đẹp nhất trong khả năng họ có thể nghĩ ra!
- Cũng như con, khi con yêu mến Hà Phương thì con thấy mọi
điều nơi cô ấy đều tốt đẹp, ngay cả đạo cô ấy theo cũng là đạo tốt
nhất. Khi con yêu mến Giáo hội, yêu mến Mẹ thì con thấy Mẹ, thấy
Giáo hội của con nhiều điều tốt đẹp và quyết tâm theo đuổi lý tưởng
linh mục để có cơ hội phụng thờ Chúa, phục vụ Giáo hội và giúp
ích cho nhân loại nhiều hơn. Nhưng sự thực Giáo hội không thánh thiện,
không tốt lành như con thấy nên con muốn bỏ Giáo hội, bỏ ước mơ và
lý tưởng đó.
- Dạ! Con không chấp nhận được Giáo Hôi lại có thể có
những thành phần bất hảo, nhất là những người dẫn dắt cộng đoàn,
những mục tử của Chúa.
- Áp đặt những vẻ đẹp, đức tính, phẩm chất cách tuyệt
đối, rồi chờ cơ hội thổi phồng những khuyết điểm, đó là một trong
những cách con cái thế gian làm xấu hình ảnh Giáo hội. Ta muốn con
nhớ rằng: Giáo hội thánh thiện vì có Chúa Giêsu là Đầu nhưng Giáo
hội cũng bao gồm những con người yếu đuối, bất toàn. Cũng như con,
con khao khát sống thánh thiện, ước mơ trở thành một mục tử như lòng
Chúa mong ước để góp phần cứu rỗi nhân loại, nhưng trên đường đời,
con lại gặp không ít khó khăn và vấp ngã. Những trở ngại này đến
từ bên ngoài là sự chi phối, tác động của môi trường xã hội lên con.
Đó còn là những trở ngại đến từ chính bản thân con với những yếu
đuối, bất toàn của phận người. Khi đi theo Chúa là lúc chúng ta
chính thức tuyên chiến với thần dữ, và ma quỷ thì không bao giờ ngủ.
Chính khi chúng ta sống thánh thiện nhất, lý tưởng nhất thì đó cũng
là lúc chúng ta gặp nhiều khó khăn thử thách hơn cả.
- Giờ con phải làm sao thưa Mẹ?
- Thử thách lớn nhất của con lúc này là chưa biết chọn
hướng đi nào đúng nhất để đến đích. Cách tốt nhất là con hãy đứng
lại để suy nghĩ. Vì khi con chọn sai đường mà cố gắng đi nhanh bao
nhiêu thì càng xa đích bấy nhiêu.
Giờ
con đã biết ta không xinh đẹp như con nghĩ, Giáo hội không hoàn hảo
được như con muốn, và cuộc đời không phải toàn màu hồng như con ước
mơ. Nhưng nếu con biết nhìn Giáo hội, nhìn thế giới chung quanh bằng
nhiều lăng kính thì con sẽ dễ dàng chấp nhận mọi chuyện hơn, sẽ
quảng đại hơn, bao dung hơn với cuộc đời, với mọi người. Hãy giải
phóng hết mọi năng lực của tình yêu để không còn giới hạn nào cản
ngăn con đến với Chúa nữa thì con sẽ chiến thắng cám dỗ và tìm
được hạnh phúc trong những việc mình làm. Con cứ tin Thiên Chúa nhân
từ và Ta luôn đồng hành cùng con.
*
* *
Anh giật mình thức giấc, trằn trọc cho tới sáng. Đây là
giấc mơ kỳ lạ nhất anh từng gặp. Một giấc mơ mà anh có thể nhớ lại
được mọi chi tiết một cách rõ ràng. Suốt buổi sáng, anh không ra
khỏi phòng. Anh muốn được yên tĩnh và không bị ai quấy rầy lúc này.
Cầm chuỗi tràng hạt lâu nay không đụng tới, anh đi đi lại lại trong
phòng, đọc kinh lần hạt như muốn trả nợ cho Đức Mẹ bấy lâu nay cho
đến khi mệt lả người.
Khi mặt trời đứng bóng, anh ăn vội chiếc bánh mì và
chạy đến gặp Hà Phương, kể lại giấc mơ đêm qua, về những vướng mắc
trong tâm hồn bấy lâu nay khi mà chỉ trực tiếp thưa với Chúa không làm
cho anh thỏa mãn. Hà Phương chỉ biết chăm chú lắng nghe anh kể một
cách say sưa. Tâm hồn cô cũng nặng trĩu, lắng lo. Linh cảm của một
người phụ nữ cho cô biết anh không thuộc về cô nữa. Trầm ngâm hồi lâu,
cô cũng đáp lại anh:
- Em biết, niềm tin và lý tưởng làm linh mục trong anh
chưa tắt hẳn. Chúng ta không cùng Hội thánh nhưng anh và em có chung một
Chúa. Em hiểu anh yêu em và cảm mến tôn giáo của em. Cũng như em không
có chút ác cảm nào với đạo của anh. Nhưng sẽ không công bằng nếu như
em hoặc anh vì một lý do nào đó thiếu tự do mà phải theo tôn giáo
của người kia. Chúng ta là những người trưởng thành và tự do trong
chọn lựa. Em yêu anh, và em luôn tôn trọng mọi quyết định của anh.
- Em nói đúng. Chúng ta có tự do để chọn lựa với sự
hiểu biết và tín thác. Để có thể chọn lựa sáng suốt nhất, chúng
ta cần thành tâm thiện chí học hỏi để có một hiểu biết chắc chắn
nhất về đạo của mình, đồng thời cũng không quên tìm hiểu các tôn
giáo khác để có cái nhìn trung thực và khách quan nhất, bởi đạo
chúng ta đang theo không phải là mạc khải duy nhất của Thiên Chúa. –
Anh nói
- Em cũng nghĩ thế. Khi lý trí chúng ta đã có một hiểu
biết đầy đủ rồi thì hãy để cho con tim mình lên tiếng bởi bí quyết
của thành công, hạnh phúc nằm ở con tim chứ không phải lý trí.
- Và biết đâu địa
ngục, thiên đường là đâu (Kiều), đúng không em. Nên anh và em cùng cầu nguyện để chúng ta đi đúng con
đường Chúa muốn chúng ta đi. Con đường có thể dẫn hai ta về cùng một
đích: hạnh phúc đời này và hạnh phúc mai sau.
Cảm
ơn em vì tình yêu em dành cho anh. Chính vì yêu mà em đã thấu hiểu anh
như thế!
Rời
khỏi phòng Hà Phương, anh đến gặp cha xứ sở tại để được xưng tội.
Anh kể cho cha về quảng đời sinh viên vừa qua của anh, về những sai
lầm, những bước chân lạc nhịp. Anh cũng không quên kể về giấc mơ của
anh đêm qua.
- Cha thấy niềm tin và khao khát trong con vẫn cháy
bỏng.– Cha nói trong lời khuyên sau khi anh xưng tội.– Chỉ vì một vài
thay đổi về môi trường sống khiến con có những cái nhìn mới và muốn
có những trải nghiệm mới. Nhưng đó là chương trình của Chúa đối với
con. Bởi người ta không thể bay cao, đi xa khi còn quá yên ổn trong
chiếc nôi đức tin của mình. Cha tin một khi đã trở lại, con sẽ mạnh
hơn và những ai đến với con cũng được mạnh lên nhờ sự vững vàng đó.
Hơn nữa, con còn có một hậu phương vững chắc luôn nâng đỡ con qua lời
cầu nguyện. Hãy can đảm đi theo lý tưởng đích thực để tìm hạnh phúc
cho mình. Cuộc đời con đã trải qua nhiều thử thách, cám dỗ và sa
ngã. Nhưng Thiên Chúa có thể viết thẳng trên đường cong. Sa ngã, tội
lỗi giúp con nhận ra mình yếu đuối, bất toàn để cậy dựa vào ơn
Chúa nhiều hơn. Những sai lầm của bản thân cũng giúp con có cái nhìn
bao dung hơn với thế giới bất toàn và nhân loại yếu đuối này.
Dậy
đi con, đoàn chiên Chúa đang bơ vơ chờ những người mục tử có lòng
nhiệt huyết, bao dung đến để dẫn dắt họ tới những nơi có đồng cỏ
xanh và dòng suối mát. Hãy sống và trở thành người mục tử như thế.
Việc đền tội của con - Cha nói tiếp – con hãy đọc và suy niệm về
hình ảnh Vị Mục Tử nhân lành trong
Tin Mừng của Đức Giêsu theo Thánh Gioan chương 10 từ câu 1 đến câu 21.
Chúc con luôn bình an.
- Tạ ơn Chúa và cảm ơn Cha.
Ra
khỏi thánh đường, anh lang thang trong thành phố suốt ngày hôm đó. Anh
thấy phố xá hôm nay sao bình yên đến lạ. Người xe qua lại tấp nập sao
anh không thấy ồn ào. Tại phố phường lâu nay vẫn thế mà anh không cảm
nhận được hay tại lòng anh đổi thay.
Anh ngước mắt nhìn trời, nhẹ lướt
ánh nhìn trên vạn vật. Tia nắng ấm áp đã kéo bật những lộc non khỏi
sự khô khốc của cây cành, xua tan giá rét. Anh ngắm nghía từng chồi non. Anh cảm nhận được mùa
xuân đang đến khắp đất trời. Đó là cảm giác khi thấy những tia nắng đầu tiên
thắp sáng vạn vật. Những chồi non mới mọc ánh lên một màu tinh khôi. Những
khuôn mặt rạng ngời khi đón nhận những điều mới mẻ và tốt lành. Sự cảm nhận đó
ngân vang trong lòng anh không phải với đất trời, vạn vật mà với một cảm giác
lớn lao về sự khởi đầu, về sự sinh sôi hoan hỷ, về niềm tin chiến thắng không
gì có thể ngăn cản nổi và... về một tương lai tốt đẹp đang hứa hẹn ở phía
trước. Anh cảm nhận được ý nghĩa của niềm tin, của tuổi trẻ, của đổi thay
và của sự dấn thân hoàn toàn cho những mục đích linh thánh.
Mã số: 17-108
Sau bữa sáng, tôi rảo bộ. Đêm qua trời mưa. Sân còn ướt nhẹp. Những
bức băng rôn, biểu ngữ xô lệch. May thay hang đá dựng phía nhà thờ vẫn còn
nguyên. Phần thô đã xong, chỉ chờ lắp ánh sáng, đặt tượng là hoàn thiện. Cơn
mưa đêm đi qua rửa sạch tất cả bụi bặm trần ai bám víu mùa khô hanh. Tôi về
phòng toan soạn bài giảng thì cha Huy gọi điện:
- Bác đang làm gì đấy?
- Anh vừa ra xem hang đá, đêm qua mưa to.
- Bên em cũng mưa nhưng chả sao, em đầu tư gần ba mươi triệu nên
mưa thế chứ mưa nữa thì cũng muỗi đốt i-nốc.
- Ừ! Bên xứ chú giàu chứ bên anh nghèo xin mãi mới được vài triệu
nên phủ bạt, phụt sơn là xong.
- Hà hà. Thôi mai qua em uống rượu khai trương hang đá. Em làm bể
cá lớn, mai bác mời bác qua vớt cá uống rượu.
- Ừ! Để anh thu xếp vì tối mai đi dâng Lễ.
- Thôi sang xem có đồ gì dùng được thì ôm về. Bên em nhiều đồ lắm.
- Ừ! Mai anh sang.
- Nhớ sang nhé, em gọi cả mấy anh em thân thiết, mai bác sẽ bất
ngờ đấy!
…
Cha Huy là người cùng quê, ít hơn tôi một tuổi. Huy là em ruột của
chị dâu tôi. Gia đình tôi và gia đình Huy rất thân thiết. Lúc bố tôi làm trùm
chính thì bố Huy làm trùm hai. Bố tôi hiền lành, hòa nhã, chịu khó còn bố Huy
năng động, sáng tạo, mỗi tội tính nóng. Chúng tôi chơi thân từ nhỏ, cùng đi học,
cùng đi chăn trâu, cùng đi giúp Lễ. Hồi học lớp 6, Huy tò mò uống trộm rượu Lễ.
Uống thử thấy ngon, ngày nào Huy cũng dậy sớm đến giúp Lễ. Rót ra bao nhiêu rượu
thì Huy rót lại bấy nhiêu nước lã. Khi cha xứ phát hiện rượu Lễ ngày càng nhạt,
ngài liền đình chỉ không cho ai giúp Lễ nữa để truy tìm “thủ phạm”.
Bố tôi nghe biết, nọc tôi
ra đánh ba roi. Tôi mếu máo thanh minh mọi nhé. Bố tôi liên tục tra hỏi. Cuối
cùng tôi khai Huy chính là kẻ trộm rượu. Nghe vậy, bố tôi chạy lên trình cha xứ.
Cha xứ đang ăn cơm tức khí ném bát cơm xuống đất rồi gọi bố Huy lên. Vừa lên tới
nơi bố Huy lãnh trọn bài “dân ca và nhạc cổ truyền” của cha xứ. Cha xứ bắt hai
ông trùm về cùng con viết bản kiểm điểm đọc trước nhà thờ.
Ngay hôm đó Huy bị ăn một
trận đòn thập tử nhất sinh. Bố Huy cầm hai chân dốc ngược đầu Huy xuống giếng.
Bố tôi can ngăn kịp thời cứu Huy thoát chết. Huy ở nhà dưỡng thương ba ngày. Tối
Chúa nhật, tôi và Huy đọc bản kiểm điểm trước nhà thờ, bố tôi và bố Huy đứng
như trời trồng. Từ hôm đó, Huy cạch mặt tôi. Chừng hơn tháng sau, tôi đem hơn
hai chục viên bi tới xin lỗi. Hai thằng vặt xoài non, lấy trộm rượu của bố Huy
trốn lên gác chuông kết nghĩa huynh đệ.
Lớn lên, chúng tôi được
đưa xuống giáo phận xin Đức cha cho đi tu. Vậy là cuộc đời tu bắt đầu thật đơn
giản chỉ bằng cái gật đầu của Đức cha. Đức cha chỉ căn dặn, chúng con đi tu là
lội ngược dòng đời, cha mong các con luôn phải ghi nhớ đó là sứ vụ giữ gìn và
phát huy gia bảo Đức tin.
Tôi học xây dựng được một
năm thì Huy thi đỗ vào ngành sư phạm âm nhạc. Khi Huy nhập học xong, hai gia
đình quyết định hùn tiền mua cho anh em chúng tôi chiếc Cub 79. Tôi và Huy ở
cùng nhau suốt bốn năm Đại học. Từ mớ rau, con cá tới chuyện đời tu đều chia sẻ
cho nhau.
Ngày chúng tôi đỗ linh mục về vinh quy bái tổ, cha xứ cựu chia sẻ
lại kỷ niệm Huy uống trộm rượu Lễ xưa kia. Ngài bảo, bao nhiêu anh đi giúp Lễ
cho tôi mà giờ chỉ có hai anh liên quan đến vụ trộm rượu trở thành linh mục.
Chúa luôn vẽ đường thẳng trên những đường cong. Chúa có cách riêng để chọn người
vào làm vườn nho nhà Chúa…
* * *
Gió thổi lạnh sống lưng. Công viên mùa đông im lìm. Bên ghế đá,
Dung tựa đầu vào vai Nhật. Cô đung đưa theo cơn gió và cất tiếng hát dịu dàng:
“Mùa Noel đó, chúng ta quen bên giáo đường.
Mùa Noel đó, anh dắt em vào tình yêu…”. Nhật đưa tay siết chặt bờ vai.
- …Nhật biết không, đêm qua trời mưa.– Dung thỏ thẻ.
- Giữa mùa đông lại có mưa rào, lạ thật.– Nhật trần tình.
- Nhật biết không, trước Giáng Sinh thường có mưa đêm như mưa
rào. Mưa này như để gột rửa bụi trần cho Chúa Con lâm phàm. Dung gọi đó là mưa
rửa hang Nhật ạ.
- Trời ơi! Dung lãng mạn quá! Nhưng mà ngẫm đúng thật. Năm nào
cũng có những trận mưa như thế. Song Nhật chỉ thấy nhiều khi cất công cả tháng
trời làm hang đá nhưng chỉ cần mưa một cái là hỏng bét.
- Nhưng kỹ sư ơi! Kỹ sư có biết rằng, hang đá hỏng vì bản thân
nó không đạt tiêu chuẩn để chào đón Đấng Thiên Sai không?
- Thì… thì… khi công trình sập có thể do hai yếu tố, một là do
ngoại cảnh, hai là do kết cấu.
- Vậy năm nào cũng có mưa rửa hang, cớ sao chúng ta không làm
hang đá vững chắc.
- Ừ nhỉ! Có khi nào hang đá lòng cũng vậy không. Dung đúng là
triết gia. Không. Người có thể nhìn thấu suốt như Dung phải gọi là thần học
gia.
- Cái người cấp cho Dung bằng thần học đó chắc cũng phải là bậc
đức cao vọng trọng.
- Hè hè. Dung giỏi thật đấy. Nhật chỉ giỏi đốt hương xông khói
thôi.
- Bên Công giáo của Nhật còn có cả bộ môn “xông hương học” cơ
mà.
- Ây gu gu… Mấy hôm nữa về quê Nhật đón Giáng Sinh, Dung sẽ thấy.
- À đúng rồi! Việc đó Nhật sắp xếp ra sao.
- À ừ… Chúng ta sẽ về quê Nhật bằng xe máy. Dung và Nhật sẽ làm
MC.
- Thế còn Huy?
- Huy về từ sáng nay rồi. Huy đánh đàn nên về sớm.
- Nhật có sợ đưa Dung về sẽ gặp phiền phức không?
- Ừ… ừ… Sợ thì đã không đưa về. Đưa về thì không sợ.
- Ở bên Dung, Nhật có hạnh phúc không?
- Mình… mình… mình… cũng…
- Nhật không cần trả lời. Mình biết Nhật sẽ bối rối.
- Mình… mình… mình…
- Đã bảo không phải nói rồi mà…
- Nhưng mà mình yêu Dung…
- Cái gì? Cậu… cậu… vừa nói gì. Cậu vừa nói từ mà cậu không được
phép nói!
- Tại sao mình không được nói? Tại mình đi tu sao? Đi tu ư?
Mình… mình sẽ bỏ tu… bỏ hết... Dung hiểu không?
Bốp… - Một cái tát như trời giáng. Dung bật dậy nhìn thẳng vào mắt
Nhật. Nhật đưa tay xoa má. Dung chất vấn…
- Cậu có biết, cậu đang nói gì không?
- Mình chỉ làm theo tiếng con tim thôi…
- Sẽ không bao giờ có chuyện mình và cậu yêu nhau. Cậu có biết nếu
cậu bỏ tu vì một đứa con gái Tin lành như mình thì gia đình cậu, dân làng hàng
xóm, những người đồng đạo với cậu sẽ phản ứng thế nào không?
- Không… không… mình… mình không quan tâm. Tại sao chứ. Tại sao
mình và Dung không thể đến với nhau. Công giáo thì sao? Tin lành thì sao? Đi tu
thì sao? Mình yêu Dung. Rồi mình theo Tin lành, mình sẽ thành mục sư và chúng
ta sẽ ở bên nhau suốt đời.
- Cậu bị điên thật rồi! Cậu nói như thế sẽ chẳng ai để cậu làm
linh mục đâu!
- Linh mục ư! Linh mục là gì nếu không có trái tim, không có
tình yêu. Chúa Giêsu sinh ra đâu có phải để dành riêng cho người Công giáo.
- Vậy cậu có giỏi thì cậu làm linh mục đi, hãy làm cho mọi người
biết rằng Thiên Chúa là của cả nhân loại. Chúa Giêsu không phải là tài sản của
bất cứ ai, bất cứ tôn giáo nào… Cậu có làm được không?
- Không! Mình không cần làm linh mục. Mình chỉ cần Dung thôi. Chỉ
Dung là đủ…
…Nhật nhào đến ôm
Dung. Dung lùi lại gạt tay Nhật. Dung vung tay... Bốp... Một cái tát như trời
giáng ném vào Nhật. Nhật lùi lại. Tay bo má. Nhật ngồi xuống, nước mắt trào ra.
Dung hạ mình ghé sát Nhật. Cô lấy tay lau nước mắt Nhật rồi an ủi…
- Nhật biết không, cuộc chiến tranh thế giới thứ ba sẽ là cuộc
chiến tranh tôn giáo. Dung hiểu tình cảm Nhật dành cho Dung. Và thật lòng, Dung
cũng… cũng… quý mến Nhật. Nhưng Nhật ạ, chúng mình không thể yêu nhau, không thể
đến với nhau được. Nhật tỉnh táo đi. Dung xin lỗi…
- Vậy giờ Dung tính thế nào. Nhật sẽ rất đau khổ.
- Nhật bình tĩnh nghe Dung. Nhật phải làm linh mục, vì đó là ước
mơ của Nhật, là niềm hy vọng của gia đình và mọi người. Dung biết Nhật sẽ là
linh mục tốt. Dung và Nhật vẫn mãi là bạn thân. Dung sẽ giữ tấm ảnh Đức Mẹ
Fa-ti-ma Nhật tặng hôm sinh nhật.
- Dung không sợ những người đồng đạo lên án sao?
- Nhật à, sao mình phải sợ hãi khi làm việc đúng chứ. Bức ảnh đó
không chỉ là món quà sinh nhật đơn thuần mà đó còn là món quà đức tin Nhật tặng
Dung. Dung có quyền giữ cho riêng mình.
- Cảm ơn Dung!
- Dung muốn nói với Nhật một điều nữa, Dung mong rằng dù thế nào
thì chúng ta vẫn giữ nguyên tắc “tôn trọng sự khác biệt của nhau”. Dung nghĩ rằng,
chỉ có tôn trọng sự khác biệt mới giúp chúng ta đối thoại và xích lại gần nhau.
- OK. Dung. Nhật hiểu rồi. Dù Nhật biết, Nhật sẽ đau khổ. Nhưng…
nhưng… Nhật sẽ cố gắng. Nhưng quên Dung là điều thật khó.
- Nắng mai lên đẩy xa màn đêm. Nhật sẽ là một linh mục tốt. Đừng
phụ lòng Dung mong mỏi. Nhật nhé!
- Vậy kế hoạch về quê Nhật làm MC bị phá bỏ à Dung?
- Không! Dù xảy ra chuyện gì thì Dung vẫn giữ lời. Dung sẽ về
quê Nhật làm MC.
- Lạy Chúa. Tạ ơn Chúa. Vậy là tốt rồi. Cảm ơn Dung. Xin lỗi đã
làm Dung buồn lòng.
- Cậu lại khách sáo rồi. Sao phải xin lỗi chứ. Lý trí biết đúng
biết sai còn con tim không có khái niệm sai đúng.
* * *
Từ xứ tôi chạy tới xứ của Huy mất hơn nửa giờ đồng hồ. Quãng đường
không dài lắm nhưng xấu xa tội lỗi vô cùng. Xứ tôi được liệt vào những xứ hèn mọn.
Người dân chỉ trông vào cây lúa, con gà. Bù lại họ sống tình cảm coi cha xứ như
vị thánh sống. Thành ra, tôi nói gì họ cũng nghe, cũng đồng ý. Xứ Huy nằm giữa
thành phố. Giáo dân đông đúc, nhiệt tình, quảng đại. Huy là dân nghệ sĩ có khả
năng thuyết phục thế nên công việc mục vụ khá thành công. Hầu như cả giáo xứ
không ai trách móc, chống đối. Ở cái thời đại tranh tối tranh sáng này, linh mục
như vậy được xem là trọn bề nhân nghĩa.
Ngay khi về nhận xứ, việc làm đầu tiên của Huy thông báo kế hoạch
đập bay ngọn tháp cũ, xây hai ngọn tháp mới, kéo dài nhà thờ và dựng lễ đài
hoành tráng. Huy đến tận nhà những người bất đồng, ngồi ăn cơm uống nước với họ
nhưng tuyệt nhiên không động gì đến tháp chuông nhà thờ. Huy cứ đi hết nhà này
đến nhà khác khoảng chừng gần một năm thì ai nấy đều phục ông cha xứ sát đất.
Thế nên, từ khi Huy khởi công phá tháp cũ đến khi hoàn thành tháp mới chỉ mất
chừng nửa năm. Một bên tháp Huy đặt tượng Lòng Thương Xót, còn bên kia đặt tượng
Đức Mẹ Fatima.
Năm nào vào dịp Giáng Sinh, Huy cũng hô hào giáo dân đóng góp để
làm hang đá. Khi hoàn thiện, Huy thường mời các cha lân cận tới liên hoan, một
phần để khoe hang đá, một phần là cớ để anh em gặp gỡ, phần nữa là mời các đại
gia hào phóng lì-xì cho các cha. Thế nên ai cũng thích, được ăn được nói, được
gói mang về.
Mải nghĩ về Huy, tôi chạy xe chậm hơn bình thường. Con đường xấu
xa khiến xe của tôi bám đầy bụi trần. Qua cổng nhà thờ, tôi toan định tăng tốc
chạy vào nhà xứ thì có hai xe tải lớn án ngữ. Tôi đánh lái sang trái, lách sau
hai xe. Chiếc xe bụi trần dừng trước hòn non bộ. Huy tiến lại mở cửa. Tôi bước
xuống bắt tay Huy. Trời đất! Suýt chút nữa tôi ngất xỉu. Mục sư Hùng và phu
nhân của ông là Phương Dung đang đứng trò chuyện cùng mấy ông cha trong vùng.
Tôi đứng ngẩn tò te, tay bóp chặt tay Huy.
- Bất ngờ lắm phải không. Thôi bỏ tay em ra! – Huy lên tiếng khiến
tôi giật mình buông tay.
- À… ờ… chú mời cả vợ chồng Phương Dung à… Nhưng nhà thờ đẹp thế
mà lại đi dựng hai cái ô tô to vật vã trước cửa vậy. – Tôi trấn tĩnh và đánh lạc
hướng.
- À! Ô tô tải chở Kinh Thánh của vợ chồng Phương Dung. Họ đang
trên đường đưa về bản để tặng nên tiện thể ghé qua đây. Họ để ô tô ở đó nhằm
tránh nắng.
- À… ờ… vậy tốt quá! Chắc lát phải xin Phương Dung vài cuốn mới
được.
- Tưởng ai chứ bác thì Phương Dung có thể cho tất. Thôi bác vào
chào mọi người xong xuống chiến đấu. Hôm nay em chế món gỏi cá nhệch ngon thôi
rồi bác ạ.
- À… ờ… ờ… Đến chỗ chú lúc nào chẳng được ăn ngon…
Từ lúc nhìn thấy mục sư Hùng và Phương Dung, tôi như kẻ mất hồn.
Phương Dung vốn là bạn học cùng lớp Đại học với Huy. Tôi gặp Dung khi đi chơi với
Huy. Dung là cô gái xinh xắn dễ thương lại có kiến thức. Đặc biệt Dung theo Tin
Lành. Trò chuyện với Dung rất thú vị. Sau này, chúng tôi thường xuyên đi dự Lễ
của nhau, khi rảnh ra công viên ngồi chuyện trò. Đa phần nội dung trao đổi là về
điểm giống và khác nhau giữa Công giáo và Tin Lành. Có điều tôi luôn lép về trước
Dung khi nói về Kinh Thánh. Sau nhiều bàn thua nghiệt ngã, tôi quyết tâm ra sức
học Kinh Thánh khiến anh em tu cùng nể phục. Nhưng khốn thay, “lửa gần rơm lâu
ngày cũng bén”. Hồi năm tư, suýt nữa tôi bỏ tu nhưng Dung khéo léo từ chối lời
yêu và động viên tôi tu tiếp. Về sau, Dung lấy Hùng khi Hùng học năm thứ tư ở học
viện Thần Học Tin Lành. Thời gian đó tôi khủng hoảng nặng nề. Có những lúc con
tim muốn bốc cháy. Tới tận bây giờ mỗi khi nghĩ tới Dung, tôi lại thấy cổ hòng
nghẹn lại, tim đập loạn xạ.
* * *
Chiếc xe Cub 79 đỗ trước cổng. Nhật xuống mở cổng. Mẹ cậu tiến
ra. Phía sau xe, Dung thu mình như thỏ con. Mẹ cậu vội vàng ghé sát vào cậu nói
nhỏ…
- Trời ơi! Thằng giời đánh. Tao tưởng thằng Huy nói đùa ai dè
mày đưa con quỷ cái về thật. Mày vào nhà đi, thầy mày đang chờ đó.
- Thế là sao vậy u? U gọi ai là quỷ cái? Đây là Dung bạn học của
Huy về làm MC tối nay. Mà thằng Huy đã nói gì với thầy u?
- Tao không biết! Mày cứ vào nhà đi, thầy mày đang chờ.
Dung hoảng hốt giật giật vai áo Nhật. Hoàng Nhật không nói, chạy
xe vào trước cửa nhà. Nhật toan định dừng xe thì bất ngờ… Lạch… cà… lạch… cà… lạch…
ù… òa… rào… Nhật và Dung không hiểu điều gì đang diễn ra. Cô cậu chỉ thấy toàn
bộ quần áo, người ngợm ướt nhép. Thì ra bố Nhật hất cả chậu nước rửa ấm chén
vào hai đứa. Hất xong, bố Nhật chỉ thẳng tay vào đuổi hai đứa ra khỏi nhà. Mẹ
Nhật nước mắt ngắn nước mắt dài chạy theo con thì bị bố Nhật bắt quay vào nhà.
Nhật chạy thẳng lên nhà thờ tìm Huy. Nhìn bộ dạng hai người ướt
nhép, Huy phần nào hiểu vấn đề nghiêm trọng. Bất ngờ từ trên xe, Nhật nhảy xuống
đấm vào mặt Huy. Huy kịp lách người nên cú đấm trượt qua má.
- Thằng chó này! Tao làm gì mày mà mày mách lẻo?
- Anh hiểu lầm rồi! – Huy lên tiếng.
- Lầm cái gì. Lầm mà thầy tao hất nước đuổi ra khỏi nhà.
- Em chỉ… em…
- Thôi! Nhật và Huy im đi! Bình tĩnh còn lo đêm Giáng Sinh đó! –
Phương Dung lên tiếng.
- Tao sẽ xử mày sau! Nhớ cái mặt tao này! – Nhật vừa nói vừa chỉ
vào mặt.
- …Chú Nhật… chú… chú Nhậ…ậ…ật… À cả cậu Huy đây nữa! Về xem đưa
thầy đi viện. Thầy… thầy đang đau tim. – Chị dâu Nhật mặt cắt không còn giọt
máu.
- Thầy… thầy… làm sao? – Nhật hỏi.
- Chú về đi! Về đi rồi thấy… - Chị dâu Nhật trả lời.
- Nhật và chị cứ về đưa bác đi viện đi. Em ở lại cùng Huy lo
chương trình đêm nay. Nhật an tâm, Dung có thể làm được mà. – Dung đưa ra
phương án.
- Anh về lo cho bác đi! Ở đây có em và Dung rồi! – Huy trấn an
Nhật.
Đêm Giáng Sinh trong bệnh viện. Nhật vò tai bứt óc. Mẹ và anh trai
Nhật ngồi im. Thỉnh thoảng, chị dâu nhật động viên, mọi chuyện đã rồi chú cố gắng
vượt qua đừng để bố mẹ và anh chị lo lắng nữa. Nhật thấy mình có lỗi. Nhật thấy
mình vô dụng. Nhật đi đi lại trên hành lang bệnh viện. Phía xa, mọi người nô nức
đón Giáng Sinh chỉ có gia đình Nhật trong hoàn cảnh cơ hàn. Bỗng một ngôi sao
băng bay ngang, lao thẳng về phía nhà thờ, nơi có MC Phương Dung.
* * *
Sau bữa trưa, tôi rảo bộ hút thuốc. Trong nhà thờ có vài cụ già
đang đọc kinh. Bóng tháp chuông phủ kín hai chiếc xe tải. Huy tự hào vì xây được
tháp nhà thờ cao nhất giáo phận nên đi đâu cũng khoe. Nhà thờ dài vậy nhưng
cũng chẳng đủ cho giáo dân dự Lễ Chúa nhật. Tôi không thấy đáng mừng vì mấy ai
bỏ Lễ Chúa nhật. Tôi còn thấy lo nữa, bởi nhẽ giáo dân chỉ thích bề ngoài, tự
hào nhà thờ to, tháp chuông cao song thực chất số người đi Lễ, đọc kinh ngày
thường suy giảm rõ rệt. Khi Huy mới về nhận xứ, ngày thường tôi qua dâng Lễ thấy
giáo dân dự Lễ đông, chật kín nhà thờ, giờ ngày thường Lễ thưa thớt nhìn xuống
mà chán ngán, chỉ có vài giáo dân già nua ngồi lọt thỏm trong ngôi nhà thờ rộng
như mê cung. Có hôm khi giảng Lễ, tôi dừng lại nhờ các cụ đếm kể cả tượng xem
được bao nhiêu. Các cụ nghe vậy phì cười nhưng sau ai cũng trùng xuống. Hình
như họ cũng lo lắng.
Tôi vòng xuống phía cuối hai chiếc xe tải chở Kinh Thánh. Chiếc
bật lửa trên tay rớt xuống đất. Tôi cúi xuống nhặt thì chợt phát hiện có mấy
người quần áo rách rưới nằm dưới gầm xe. Theo cảm quan, tôi biết đó là những
người ăn xin khắp thành phố tụ về đây nghỉ trưa. Tôi tiến lại lên tiếng…
- Sao các vi lại chui vào đây nằm vậy, nguy hiểm lắm!
- Ngày nào chúng tôi cũng nằm nghỉ trưa dưới hai ngọn tháp này,
hôm nay xe đậu ở đây nên chúng tôi chui vào đây. – Một người phân bua.
- Lạy Chúa tôi! Sao các vị không ra hang đá kia, nằm đó nguy hiểm
lắm! Nhỡ lái xe không biết thì chết!
- Chúng tôi không dám vào đó đâu, lát mấy người trong nhà thờ ra
sẽ đuổi đánh chúng tôi dữ lắm. – Người ăn xin trả lời.
- Các vị cứ vào hang đá nghỉ, cứ bảo cha Nhật mời vào! Hang đá
đó làm cho người nghèo chứ đâu làm cho người giàu.
- Vâng! May quá cảm ơn ông.
- Các vị biết không, ngày xưa Chúa Giêsu khi sinh ra còn nghèo
hơn cả các vị bây giờ. Ngài nghèo hơn cả chữ “nghèo” đấy.
Mấy người ăn xin nghe vậy cười tươi, lục đục vào hang đá. Tôi
châm điều thuốc hút. Giữa mùa đông, trời cao xanh, nắng đẹp, nhả một làn khói
quyện như rồng bay, tôi lẩm nhẩm “đúng là đời”. Bỗng tiếng phụ nữ vang lên…
- Nghĩ gì vậy cha Nhật? – Thì ra Dung đã đứng đó chứng kiến mọi
việc.
- Nghĩ về đời thôi, nhiều cái lạ lắm Dung ạ! – Tôi thủng thẳng.
- Lạ gì! Nói nghe xem!
- À! Mình đang nghĩ cách kiếm tiền để mua Kinh Thánh tặng giáo
dân…
- Một cái tháp thì mua được bao nhiêu cuốn Kinh Thánh?
- Nhưng Kinh Thánh đâu có nuôi sống được người nghèo, thuộc mà
không thực hành thì cũng bằng thừa.
- Làm linh mục, lý lẽ ra phết. Hình như chiến tranh thế giới thứ
ba đang bắt đầu. Nhưng cha Nhật có biết không, một bữa cơm chỉ đảm bảo sự sống
cho người ta một ngày nhưng nửa câu nói hay nuôi sống người ta cả đời.
- Thôi thua! Mình về đây tối còn đi dâng Lễ. – Tôi lủng bủng.
- Ừ! Về đi! Nói chuyện lát nữa, tối về lại đưa chén lên rồi bẻ
ra… Haha…
- Nhớ đấy!
Tôi tức tối đi vào mở cửa xe, ngồi hồi lâu định thần. Chẳng chào
hỏi gì ai tôi lẳng lặng cho xe chuyển bánh. Dung đứng khoanh tay, đầu lắc, miệng
cười trông thật đáng ghét. Tôi thấy cổ họng nghẹn lại, tim đập liên hồi. Nhìn
vào gương chiếu hậu, bóng ngọn tháp chùm kín người phụ nữ. Chiếc điện thoại
rung chuông báo tin nhắn của Dung T.L: “Đêm trước! Mưa rửa hang...”
Mã số: 17-109
Gia đình là nơi
cuộc sống bắt đầu
…và tình yêu không
bao giờ kết thúc.
Mẹ và em đang ngồi đối diện nhau trước bàn thờ của gia
đình. Điểm nổi bật của bàn thờ là bức phù điêu khắc họa hình ảnh
Đức Maria và ba trẻ Fatima do chính anh trai làm. Đó là món quà ý
nghĩa nhất anh tặng mẹ sau khi tốt nghiệp Đại học chuyên ngành điêu
khắc. Điều đặc biệt của bức tượng là chuỗi tràng hạt do tay mẹ kết
từ những hạt cườm và được đặt không cố định trên đôi tay Đức Mẹ. Mẹ
bảo anh phải làm như thế để khi nào đi xa, mẹ lại mượn cỗ tràng hạt
ấy mang theo bên mình như nhắc nhở bản thân luôn có Đức Mẹ song hành.
Sau mỗi cuộc hành trình trở về, mẹ lại trả cỗ tràng hạt ấy vào
tay Đức Mẹ.
Bên cạnh bàn thờ là bức hình chụp cả gia đình. Đó là
tấm hình duy nhất có đầy đủ các thành viên được chụp sau khi tôi tốt
nghiệp đại học. Khi đó em tôi đã lên năm. Tôi còn nhớ, lần đó chúng
tôi đã phải làm nhiều cách để em cười thật tươi. Đôi mắt nhắm tít,
miệng mở méo xệch, nhưng đó là nụ cười đẹp nhất trong khả năng có
thể của em. Ba thì khác, ông là người duy nhất không cười trong bức
hình này.
Kính
mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà… Mẹ
vừa đọc Kinh Kính Mừng vừa áp từng ngón tay của mẹ vào từng ngón tay
của em. Mẹ bắt đầu với bàn tay phải và đối diện là em với bàn tay
trái. Sau mỗi Kinh Kính Mừng,
một cặp ngón tay của hai người được áp vào nhau. Lần lượt như thế
cho đến lúc hết một chục kinh thì hai bàn tay mẹ đã chắp lại với
hai bàn tay em trong tư thế cầu nguyện. Tuy nhiên, tay em còn bé quá nên
các ngón tay mẹ phải cúi xuống như muốn ấp ủ, chở che cho em.
Sáng
danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần… Mẹ
đọc Kinh Sáng Danh, đồng thời
ngửa hai bàn tay ra phía trước và em từ từ úp hai bàn tay lên lòng
bàn tay mẹ để cùng dâng của lễ lên Chúa hợp trong lời Kinh Sáng Danh. Tay mẹ dâng lễ vật
còn em trở thành của lễ dâng.
Mẹ và em đã chơi “trò chơi lần chuỗi” này hàng trăm lần
đến nỗi em đã quá quen với những động tác đó. Để hình thành được
những phản xạ như thế, mẹ đã phải kiên nhẫn và dịu dàng với em rất
nhiều. Rồi không biết tự bao giờ, em đã dành thế chủ động. Cứ mỗi
sáng thức dậy và trước khi đi ngủ, em đều bắt Mẹ phải chơi trò này.
Với mẹ đó là việc đạo đức không thể bỏ, còn với em, đó là một
niềm vui không thể thiếu.
* * *
Vừa tan học, tôi liền chạy ngay đến bệnh viện vì sáng
nay mẹ chuyển dạ và ba đã đưa mẹ đến đó. Gửi xe xong, tôi vội vàng
quên cả việc lấy vé. Chỉ khi được bảo vệ nhắc nhở tôi mới giật
mình quay lại. Ba ngồi ngay ở dãy ghế của hành lang khoa sản. Đôi mắt
ông không nhìn vào phòng sinh nhưng hướng ra cửa sổ với hai hàng mi
ngấn lệ. Ánh mắt đó là ánh mắt quen thuộc ta thường bắt gặp nơi
đây. Tim tôi đập thình thịch. Nghẹn ngào hồi lâu tôi mới dám mở lời
chào ba và hỏi:
- Mẹ đã sinh chưa ba?
- Mẹ sinh được vài tiếng rồi con ạ! – Ba trả lời rất
nhanh, nhưng giọng ba run run, pha chút buồn buồn mà ai cũng có thể
nhận thấy.
- Mẹ và em khỏe cả không ba?
- Khỏe cả. – Ba đáp lạnh lùng
- Sao ba có vẻ không vui?
Ba
im lặng, tiếp tục nhìn ra cửa sổ như để tránh ánh mắt tôi.
Mẹ mang thai em khi tôi đã 17 tuổi. Mang thai ở tuổi 45
không phải là điều hiếm hoi ở quê tôi. Có nhiều gia đình, con sinh mẹ
cũng sinh là chuyện bình thường. Từ lúc biết mình có thai, mẹ đã
tỏ ra lo lắng. Mọi người động viên rằng, các con đã lớn, rồi sẽ rời
mái ấm để lập nghiệp, sự ra đời của một đứa trẻ lúc này sẽ là
niềm vui cho cả gia đình. Biết là thế nhưng ba mẹ đều hiểu những rủi
ro có thể xảy ra cho mẹ lẫn con khi sinh nở ở tuổi đó.
Hằng ngày, gia đình tôi vẫn cầu nguyện để cuộc sinh nở
này tốt đẹp nhất là cho mọi người biết vâng theo ý Chúa. Bởi trong
thế giới hôm nay, người ta dễ dàng giết một sinh linh bé bỏng, không
có khả năng tự vệ khi còn trong bụng mẹ và cho đó là việc bình
thường thì việc khước từ mọi lời khuyên để giữ lại sự sống này
trước những rủi ro khác cũng là một việc khó. Tuy nhiên, ba mẹ quyết
không làm trái ý Thiên Chúa. Việc mong chờ ngày mãn nguyệt khai hoa
của mẹ diễn ra trong hồi hộp và lo âu.
Em tôi được sinh ra mạnh khỏe, khuôn mặt bầu bĩnh, ít
khóc, hay cười. Nó ngoan hơn những đứa trẻ cùng tuổi khác. Mẹ và
chúng tôi đều rất vui vì cuộc sinh nở thành công. Nhưng điều này không
được thể hiện trên khuôn mặt ba. Bởi ba đã biết những khiếm khuyết
của em ngay khi em vừa cất tiếng khóc chào đời.
Thời gian đầu, tôi chẳng nhận thấy dấu hiệu gì khác
biệt nơi em. Nhưng càng lớn, em tôi trông càng chẳng giống ai trong gia
đình. Đôi mắt một mí của em, mẹ bảo giống diễn viên Hàn Quốc, nhưng
ngày một bị xếch lên và thiếu linh hoạt. Mặt như luôn cười nhưng thực
ra miệng em không đóng lại được. Chân tay em cũng to và ngắn hơn bình
thường. Đầu ngắn và bé, gáy rộng và phẳng, cổ ngắn, vai tròn. Trông
em cứ hao hao giống một ai đó mà tôi đã từng gặp. Hóa ra em mắc một
hội chứng mà phụ nữ mang thai ở tuổi mẹ rất hay gặp phải – hội
chứng Down, với tỉ lệ 1/30 ca mang thai. Em tôi rơi vào trường hợp không
may mắn đó. Ba ngày càng buồn và ít nói. Ông chỉ biết tìm niềm vui
trong công việc và phó sự chăm sóc em cho mẹ.
- Chúng ta sẽ đặt tên con là gì hả anh?– Mẹ hỏi ba
- Tên gì cũng được, tùy em chọn.– Ba đáp hững hờ
Tên tôi và anh trai đều do ba đặt, nhưng lần này ba để
vinh dự này cho mẹ. Có lẽ ba không thể đặt nhiều hy vọng cũng như
gửi gắm nhiều ước mơ của ba nơi em như ở hai anh của nó. Sau nhiều
ngày suy nghĩ và cân nhắc, mẹ cũng đã chọn được một cái tên thật ý
nghĩa cho em – Phước Nhân.
- Tại sao mẹ lại đặt tên em là Phước Nhân?– Tôi hỏi
- Mẹ đặt tên em là Phước Nhân để muốn nhắc nhở bản thân
cũng như mọi người rằng: được sinh ra làm người đã là hồng phúc rồi
con ạ!
- Mẹ có buồn khi em con khiếm khuyết không?
- Mẹ đã từng rất buồn. Nhưng nhờ cầu nguyện, mẹ không
còn buồn nữa. Mẹ cảm ơn Chúa và Đức Mẹ đã gửi em con đến cho mẹ.
Mẹ hạnh phúc vì có Phước Nhân.
Trái với thái độ lạnh lùng của ba, mẹ luôn dành cho
Phước Nhân một sự chăm sóc đặc biệt. Tôi có cảm giác rằng mẹ yêu
thương và chăm sóc cho Phước Nhân nhiều hơn khi mẹ chăm sóc hai anh nó
cộng lại. Điều đó cũng đúng thôi, vì Phước Nhân đã phải chịu nhiều
thiệt thòi hơn cả.
- Với mẹ,- Mẹ nói -
Phước Nhân là một kiệt tác hoàn hảo của Thiên Chúa. Em con
hoàn hảo theo cách của nó. Khiếm khuyết chỉ là điều chúng ta nhìn
thấy mà thôi. Mẹ nghĩ Thiên Chúa nhân từ và bản thân em không thấy
điều đó là khiếm khuyết, là dị tật. Em con dạy cho mẹ bài học về
sự bình an. Với Phước Nhân, mẹ không phải lo lắng em hư hỏng trước
những cám dỗ của cuộc đời như lo lắng cho các con. Mẹ cũng không
phải đặt nhiều hy vọng để rồi buồn phiền như khi các con không vâng
lời hay gặp thất bại.
- Như thế hóa ra anh con và con là nỗi buồn của mẹ? –
Tôi cố ý hỏi đùa nhưng mẹ vẫn trả lời rất thành thật:
- Ý mẹ không phải thế. Các con đều là niềm vui của mẹ.
Mỗi các con đều có một sứ mệnh riêng giữa cuộc đời này. Nhưng với
các con, ba mẹ phải lo lắng nhiều hơn. Mẹ không phải tự an ủi mình
nhưng mẹ tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa. Chúa
không bao giờ cho ai tất cả, cũng chẳng lấy hết tất cả của ai. Ngài
luôn công bằng và muốn cho chúng ta đều được hạnh phúc. Em con xứng
đáng là một người thầy cho mỗi chúng ta học hỏi và bắt chước về
đường đức hạnh. Điều quan trọng là mỗi chúng ta phản ứng với em như
thế nào mà thôi.
- Mẹ có thể nói rõ hơn không?
- Ở Phước Nhân chất chứa một sự im lặng mà thế giới
náo nhiệt hôm nay đang thiếu. Em luôn thể hiện sự ngạc nhiên trước mọi
sự mà chúng ta đã đánh mất khi lớn lên. Sự thánh thiện trong tâm hồn
mỗi người đã bị xã hội hôm nay bóp nghẹt thì trong em vẫn sống động
và dồi dào. Ở em cũng có một sự đơn sơ hiền lành mà mỗi chúng ta
nhiều khi không có.
- Như thế điều chúng ta cho là khiếm khuyết hóa ra lại
là điểm mạnh của em?
- Khiếm khuyết của Phước Nhân chỉ là chuyện tái ông thất mã thôi con ạ! Em con
có đầy đủ những tố chất để làm một công dân Nước Trời mà mỗi
chúng ta khó lòng đạt được khi đã có dư đầy ở đời này.
Phước Nhân ra đời đã làm xáo trộn sự quân bình, xáo
trộn các mong ước và kỳ vọng của cả gia đình. Với ba, đó cứ như là
ngày tận thế của ông vậy. Ba không làm gì hơn ngoài việc chu toàn
trách nhiệm của một người cha bình thường khi làm việc và lo lắng
để chu cấp đầy đủ cho mẹ con chúng tôi. Rồi đi ngủ. Rồi đi làm.
Ngoài ra, ba chẳng dành chút tình cảm đặc biệt nào cho Phước Nhân.
Nhưng Phước Nhân chẳng biết cũng chẳng quan tâm đến điều đó. Em vẫn
hồn nhiên vui vẻ. Tuy nhiên, mẹ có phần chạnh lòng về thái độ của
ba.
- Con
cái là hồng ân của Chúa. Con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban. Em
nghĩ, Phước Nhân chẳng có tội gì cả. Vì vậy anh không nhất thiết
phải lạnh lùng như thế!– Mẹ nói
- Anh biết không ai có lỗi trong chuyện này, nhưng anh cảm
thấy thật khó để tự hào về nó như những đứa trẻ bình thường khác.
– Ba đáp
- Anh không thấy con chúng ta thật tuyệt vời sao. Nó không
xinh đẹp, không mạnh khỏe như các anh nó nhưng nó là một đứa trẻ
ngoan. Nó đơn sơ và hiền lành. Nó không làm cho chúng ta phải phiền
lòng. Rồi đây, anh và em cũng chẳng phải lo lắng con mình hư hỏng.
Chúng ta cũng không cần phải lo con mình học trường gì, làm việc gì,
xây dựng gia đình ra sao… và muôn điều khác chúng ta phải lo lắng cho
con cái giữa xã hội đầy biến động hôm nay. – Mẹ nói với thái độ
xác tín và vui vẻ.
- Em thật hài hước. Em nghĩ con người sống trên đời này
chỉ để thở thôi sao? – Ba cười nhạt
- Em nghĩ điều đáng xấu hổ nhất ở mỗi người là khiếm
khuyết, là dị tật về nhân cách, về lối sống. Em tin Phước Nhân làm
được nhiều hơn những gì chúng ta có thể nghĩ. Vì trong con có tình
người và nó vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa. Điều đó quan trọng hơn
mọi thứ khác.
Mẹ vẫn thường mua cho Phước Nhân những bộ đồ thật đẹp,
những đồ chơi thật dễ thương. Trước những món quà mới, một đứa trẻ
như Phước Nhân thật chẳng mấy hào hứng. Nhưng đó không phải là lý do
để chúng tôi không cho phép mình được có niềm vui khi quan tâm, chăm
sóc em. Mẹ nói Phước Nhân được phép hưởng quyền lợi như những đứa
trẻ khác. Thậm chí, em cần phải được yêu thương và quan tâm nhiều hơn.
Đi đâu mẹ cũng không quên dắt em theo như để khoe với mọi người đứa con
tuyệt vời này của mẹ. Mỗi lần như thế, em đều ngoan ngoãn mặc cho
mẹ muốn làm gì thì làm và em trông thật bảnh bao trong bộ quần yếm
bò – sơ mi trắng. Nếu Phước Nhân biết nó khiếm khuyết mà được mẹ ưu
ái như thế chắc nó phải ngạc nhiên biết mấy, thậm chí còn cảm động
biết là dường nào. Em còn có thể nhớ và gọi đúng tên tất cả những
người thân quen. Ai cũng bảo em thật tình cảm và đáng yêu.
Hằng ngày, mẹ vẫn dành nhiều thời gian để chơi với em.
Nhất là những khi đọc kinh cầu nguyện, em luôn hiện diện bên mẹ. Mẹ
không mong Phước Nhân lành lặn như những người khác nhưng mẹ luôn nhắc
nhở chúng tôi cầu nguyện để Phước Nhân được yêu thương.
Khi người ta quá chú tâm để sống tốt nhất có thể, họ
sẽ không còn quan tâm tới việc mình sẽ chết ra sao và sau cái chết
sẽ như thế nào. Mẹ là người như thế. Mẹ đã vắt hết sức mình để
yêu thương một cách công bằng. Tình mẹ êm ái như bãi cát dài không
đụn cao đụn thấp, như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Mẹ ra đi cũng
nhẹ nhàng và êm ái như vậy. Ngày mẹ mất, ba lặng im, chúng tôi khóc
còn Phước Nhân cười. Mười lăm tuổi, em vẫn không hiểu được thế nào
là nỗi đau mất mẹ. Em vẫn chơi đùa với các cháu và có phần thích
thú khi thấy nhiều người hơn; loa đài, trống chiêng rộn rã hơn ngày
thường. Nhưng trong những bữa cơm và các giờ kinh hôm sau, hai hàng mi
em ngấn lệ khi nhìn về phía thiếu vắng bóng người.
* * *
- Chào ba, con vừa về. Phước Nhân và Thỏ đâu ba?– Tôi hỏi
- Hai chú cháu đang chơi trong nhà con ạ.
- Em con thế nào ba?
- Em con khỏe và ngoan. Em con là một đứa trẻ tuyệt vời.
Ba không phải lo lắng nhiều cho nó. Ba đã hiểu rằng, nếu ta cố tình
tránh né nỗi đau bằng mọi giá, ta sẽ không bao giờ cảm nếm được dư
vị của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Cái khốn khổ của ba đến từ
việc dành quá ít thời gian để yêu thương. Có can đảm thương yêu trước
nghịch cảnh thì mới nhận được niềm vui yêu thương con ạ.
- Nhìn thấy ba khỏe mạnh và bình an như thế, chúng con
ở xa cũng thật yên tâm ba ạ! Con vào thăm cháu đây.
Con
người ta có quyền chọn lựa và giờ ba đã chọn cách sống tốt nhất
cho mình. Mái tóc hoa râm của ba dường như đã bớt những sợi bạc. Vẫn
suy tư nhiều nhưng khuôn mặt ba cũng đã ít hơn những vết hằn khắc khổ
mà ba đã cố tình khắc lên mình. Từ ngày mẹ mất, nếu không có Phước
Nhân chắc gì ba còn khỏe mạnh và lạc quan như thế.
- Thỏ ơi! Ba đã về.
Không
có tiếng trả lời. Tôi lặng lẽ tiến vào nhà. Nhìn qua khe cửa. Hai
chú cháu đang mải chơi nên không nghe tôi gọi. Trước bàn thờ Fatima là
con gái tôi và chú nó – Phước Nhân – đang chơi “trò chơi lần chuỗi”.
Nhưng lần này, người chủ động đọc kinh là Thỏ thay cho bà nội nó.
Dường như hai chú cháu chẳng đủ kiên nhẫn, không lúc nào đọc đủ mười
kinh nhưng bốn bàn tay đã chụm vào nhau. Tay Thỏ bé quá nên những
ngón tay vĩ đại của chú nó phải cúi xuống để chở che và vỗ về cho
bàn tay non nớt của cháu.
Sáng danh Đức Chúa
Cha… và Đức Chúa Con… và Đức Chúa Thánh Thần… Phước Nhân ngửa hai
bàn tay và bé Thỏ nhẹ nhàng úp bàn tay xinh xắn đỗi hồn nhiên.
Mã số: 17-110
Mặt trời đã lên cao, những chùm nắng chen nhau luồn qua ô cửa sổ
và trải đầy trên hành lang tu viện. Đang thả hồn theo những suy nghĩ miên man,
bỗng tôi nghe tiếng chị trực phòng khách:
- Duyên ơi, lúc nãy em có điện thoại. Con gái của chị Lan ở xứ
Phương Hòa báo tin là chị Lan mới qua đời lúc 9 giờ em à.
Ngẩn người trong mấy giây tôi vội thưa:
- Vậy hả chị, em cảm ơn chị. Xin chị cầu nguyện cho linh hồn
Ysave.
Tôi liền gọi cho chị Huệ, trưởng hội Legio của giáo xứ.
- Chị Huệ ơi, chị Lan mất rồi đó.
- Dạ thưa sơ chúng con đang ở nhà chị Lan đây. Gia đình mới đưa
chị ở bệnh viện về, hội đoàn chúng con cùng giáo xứ đang lo sắp xếp nhà cửa và
bàn với gia đình về giờ giấc an táng cho chị.
- Họ cho mình tổ chức theo nghi thức Công giáo hả chị?
- Dạ họ đồng ý rồi. Có người nhà của chị Lan ở Hưng Yên lên nữa.
- Vậy thật là may. Cảm ơn Chúa.
* * * *
Đến giúp giáo xứ Phương Hòa được hai tháng, cha sở nhờ đưa Mình
Thánh Chúa cho bệnh nhân, đây là cơ duyên tôi được gặp chị. Chị Lan không phải
người ở đây, gia đình chị ở tận Hưng Yên. Khi lấy chồng, chị theo anh về đây sống
đã gần 30 năm và chị mới được nhận vào
giáo xứ hơn hai tháng nay.
Theo lời kể của những người trong Hội Legio, cả hai anh chị cùng
làm việc ở Sài gòn. Từ khi quyết định lấy Nam, chị đã trả một giá thật đắt. Anh
không chịu theo đạo mà gia đình chị là đạo gốc nên ba mẹ chị nhất định không chấp
nhận một thằng rể ngoại đạo. Thế là chị chọn tình yêu và từ bỏ tất cả, bỏ Chúa,
gia đình, bà con họ hàng, làng xóm. Chị bỏ đi biệt xứ lên vùng cao nguyên xa
xôi này…
Đã gần 3 năm nay, từ khi biết mình mắc chứng bệnh hiểm nghèo là
ung thư phổi giai đoạn cuối. Chị vô cùng sợ hãi. Chị phải chết khi tuổi đời mới
50 sao? Chị hoảng loạn thật sự và thế là theo ngày tháng, chị hoàn toàn suy sụp.
Gia đình tìm mọi cách chạy chữa cho chị nhưng không kịp nữa.
Trong những ngày tháng khủng khiếp này tâm hồn chị thật túng quẩn. Không ai có
thể giúp chị, dù là chồng con, những người chị yêu thương nhất. Giờ đây chị còn
một mình Mẹ Maria mà thôi. Thật ra, dù không giữ đạo nhưng trong chị niềm tin vẫn
không hoàn toàn mất đi. Cuộc sống của chị một mình nơi xa lạ với muôn ngàn khó
khăn. Chị vẫn nhớ lời người mẹ yêu quý căn dặn trước khi qua đời: “Con phải nhớ đọc kinh, xem lễ và nhất là lần
chuỗi Mân Côi, để dù không có Mẹ nhưng Mẹ Maria sẽ luôn ở bên con”. Thương
mẹ nhưng chị không thực hiện được hết di nguyện của mẹ. Chị chỉ cầu nguyện cùng
Mẹ Maria những khi gặp gian nan khốn khó. Và Mẹ đã luôn giúp chị.
Cách đây gần 2 tháng, chị quyết định xin chồng cho gặp Cha để
xin xưng tội, rước lễ. Sau nhiều lần thuyết phục, anh mới đồng ý. Đáng lẽ ra
trường hợp của chị là không được nhưng vì chị bệnh quá nặng nên cha sở cũng cho
phép. Chị cũng tìm cách liên lạc với gia đình, chị có số điện của cậu em út. Nhờ
đó mà năm ngoái khi Bố qua đời, chị cũng chạy về thọ tang. Nhưng gia đình vẫn
không đón nhận chị. Giờ nghe tin chị bệnh nặng thế này, chắc là họ cũng xót
thương…
Từ ngày chị được xưng tội, rước lễ trở lại, chị vui lắm. Lúc nào
trên tay chị cũng có tràng chuỗi, chị không ngừng nghỉ kêu xin lòng thương xót
của Mẹ Maria. Đây là nguồn an ủi duy nhất
cho chị trong những cơn đau đớn triền miên. Nhất là có các anh chị trong Hội
Legio thường xuyên đọc kinh, thăm viếng, động viên nên chị thêm lòng tin tưởng
phó thác vào Chúa. Tuy vậy, trong chị vẫn còn một nỗi lo lắng đó là Chúa có tha
thứ cho chị không, chị đã bỏ Chúa hơn 30 năm rồi còn gì. Chị không dám xin Ngài
tha thứ. Chị chỉ chạy đến với Mẹ thôi, vì chị tin rằng không có người mẹ nào lại
từ chối con mình. Dù đứa con có xấu xa, tội lỗi đến đâu.
Mỗi khi cơn đau hành hạ, chị cố gắng hết sức đọc kinh kính mừng,
Có những lúc không thở nổi và gần như ngất đi, chị thấy hai người mẹ ở bên
mình. Mẹ của chị và Mẹ Maria. Thật ấm áp biết bao.
Thời gian gần đây, chị không xin cho mình khỏi bệnh nữa, chỉ xin
Mẹ Maria cầu cùng Chúa tha thứ cho chị. Xin Ngài đón nhận chị và gia đình chị nữa.
Chị lo cho anh Nam và 3 đứa con đang sống trong lầm lạc. Đứng trước cái chết gần
kề, chị cảm thấy không còn điều gì cần thiết hơn là được sống trong ơn nghĩa
Chúa.
Chị đã nói với Mẹ thật nhiều. Hy vọng rằng Mẹ sẽ nhậm lời…
Cách đây một tháng, chị phải nhập viện vì cơn đau dữ dội làm chị
như không thở được. Nhất là những ngày gần đây chị rất mệt, không ăn uống gì được
nhưng chị muốn rước Chúa. Hôm qua, tôi đến thăm và đem Mình Thánh Chúa cho chị.
Khi được rước Chúa Giêsu Thánh Thể, chị mỉm cười trông thật hạnh phúc.
Sau này hỏi Linh, con gái út đang chăm sóc chị,
- Trước khi mất mẹ có nói
gì không Linh?
-
Sau khi sơ về, mẹ con nói với con: “Hãy
kêu các anh chị đến đây với mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Mẹ chuẩn bị về với Chúa
rồi.” Chúng con tập trung bên mẹ nhưng có biết cầu nguyện là gì đâu. Thương
mẹ lắm và cũng lầm rầm khấn vái xin “Bà Chúa” cho mẹ được bớt đau đớn. Đến hai giờ chiều mẹ con yếu dần, và đi vào hôn
mê cho đến 9 giờ sáng nay, mẹ nhẹ nhàng
từ giã cõi đời.
* * *
Gia đình chị Lan đã ở cái xóm núi này hơn 30 năm rồi nhưng chỉ
vài tháng gần đây người ta mới biết chị có đạo. Nhất là hôm nay, Khi chị qua đời,
quý biện họ, anh chị em trong Hội Legio cùng các đoàn thể khác đã ngày đêm túc
trực đọc kinh, cầu lễ cho chị. Trái ngược với suy nghĩ của mọi người, chị bị
ung thư phổi chắc chết không ai dám đến gần. Nhưng không, đám tang chị thật ấm cúng, suốt hai ngày đêm luôn có người đọc
kinh, cầu lễ, viếng xác và hiện diện cùng với gia đình.
Nhìn chị da bọc xương mà
ai cũng xót xa. Cơn bệnh ung thư đã lấy đi dần sinh lực của chị. Từ một phụ nữ
xinh đẹp giờ chỉ còn một cơ thể gầy guộc, khẳng khiu. Thương chị, anh và các
con đã cố tìm thầy chạy thuộc nhưng không sao dành lại chị từ tay tử thần. Chị
rất đau đớn nhưng không dám than khóc vì sợ chồng con buồn, chị chỉ ôm chặt chuỗi
hạt vào lòng và thầm thỉ cầu xin Đức Mẹ. Ban đầu anh tưởng chị nhớ người mẹ đã
mất khi chị còn nhỏ, nhưng không phải, đây là Bà Maria nào đó. Dù không thấy,
nhưng mỗi lần cầu xin, chị như được an ủi và bớt vật vã, đau đớn hơn.
Trước kia, Nam rất ghét chị đọc kinh, không cho chị đi Nhà Thờ.
Giờ đây, anh không thể làm gì cho chị được nên bằng lòng để cho chị cầu nguyện
với Chúa. Anh cảm thấy thật hối hận vì bấy lâu nay đã ngăn cấm chị. Thì ra đạo
Công giáo không toàn là chuyện mê tín dị đoan như anh nghĩ. Người Công giáo
cũng thật tốt, dù không bà con họ hàng gì với gia đình anh nhưng họ đã giúp cho
vợ anh nhiều lắm. Nhờ họ cầu nguyện mà chị đến lúc chết đã không còn tuyệt vọng
nữa. Vậy nếu đúng như chị nói thì bên kia cái chết quả thật còn có một đời sống
khác sao?
Ước nguyện của chị là khi chết được chôn cất theo nghi thức Công
giáo, anh và các con cùng đến Nhà Thờ với chị lần cuối trước khi đưa chị ra huyệt
mộ. Dù không muốn chút nào, nhưng đã hứa với chị rồi. Gia đình tất cả gồm anh
và 3 người con trai và Linh là con gái út. Chỉ có Linh là ít ngỡ ngàng vì đã
cùng Mẹ vào nhà thờ được một vài lần. Còn lại mọi người thật hết sức lạ lùng và
bỡ ngỡ.
Phía nhà chị có các anh chị em và mấy người bà con ở Hưng Yên
cũng lên. Nhờ có họ cùng với giáo xứ lo cho chị những ngày qua. Anh và các con
làm theo những gì họ yêu cầu. Dù không hiểu nhưng đây là điều cuối cùng có thể
làm cho chị được vui.
Anh thật không ngờ có rất
nhiều người mà anh không hề quen biết lại đến dự lễ tang của vợ anh và đưa chị
ra đến huyệt mộ. Mấy hôm nay trời mưa, đường thật lầy lội. Vì nghĩa trang giáo
xứ không còn chỗ nên chị phải chôn trên triền núi cao. Quan tài đưa lên thật vất
vả, thế mà mọi người hết sức tận tình như là lo cho người thân của họ vậy.
Lời cảm ơn của cậu Sang em chị, cắt đứt ngay dòng suy tư của
Nam. Anh chăm chú lắng nghe. “Kính thưa
cha sở, quý sơ, quý Hội đồng Giáo xứ, quý Hội đoàn, ca đoàn, bà con bạn bè cùng
toàn thể cộng đoàn dân Chúa. Con xin
đại diện cho gia đình tang quyến có đôi lời cảm tạ. Chị của con, Ysave Nguyễn
Thị Lan đã từ bỏ Chúa, gia đình, giáo xứ, làng quê để đến nơi đây. Gần 30 năm
qua chị như con chiên đã đi lạc, nhưng giây phút cuối đời chị đã được giáo xứ
đón nhận và chăm sóc như một người con. Chị của con đã được trở về cùng Chúa.
Đây là niềm an ủi lớn cho gia đình chúng con. Xin Chúa trả công vô cùng cho Cha
cùng giáo xứ. Xin cầu nguyện cho chị chúng con được sớm về hưởng kiến nhan
thánh Chúa trên quê trời và cho mong ước của chị có thể thành hiện thực. Tang
gia chúng con đồng bái tạ”.
Hơn ai hết, anh biết mong ước của chị không chỉ là được chết như
một người con Chúa mà còn một điều quan trọng nữa là anh và các con được biết
và tin Chúa. Đây là điều mà chị đã nói với Nam nhiều lần và tha thiết hơn cách
đây một tuần. Lúc đó anh chẳng quan tâm, chỉ ậm ừ cho qua vì thương chị quá chứ
anh nào biết Chúa là gì. Anh trộm nghĩ nếu Chúa có thật thì Ngài hãy cứu người
vợ yêu dấu của anh đi. Người đã cùng anh san sẻ cuộc sống vợ chồng bao nhiêu
năm qua, người đã hy sinh cả đời vì chồng, vì con, vì gia đình bé nhỏ này…
Chúa không chữa lành thân xác chị nhưng hình như đã cho chị được
chết bình an. Chỉ có một điều chị còn lo lắng là anh và các con. Anh luôn cảm
phục chị đã tha thứ cho anh những lúc yếu
đuối và ngay đến lúc chết vẫn lo cho bố con anh. Vì thế, mong muốn của chị có
đúng không?
Lúc này, rất nhiều thắc mắc hiện ra trong đầu Nam và nhất định
anh sẽ tìm hiểu cho rõ. Vì khi mọi người đến lo cho tang lễ của chị có nhiều
người lạ, có cả cha ở nhà thờ và mấy bà sơ nữa. Khi hỏi lý do, anh được trả lời
đây là việc người có đạo phải làm, vì tình anh chị em trong giáo họ, giáo xứ,
vì là con cùng một Cha trên trời.
Ba ngày sau khi chị qua đời, buổi tối, mọi người còn đến nhà cầu
nguyện cho chị thật đông. Anh và các con cũng tham dự. Những lời kinh tuy nghe
không hiểu nhưng cũng giúp anh phần nào
nhẹ bớt nỗi mất mát lớn lao này. Nhất là khi mọi người tha thiết cầu xin với
người Mẹ mà chị vẫn hằng kêu cầu khi còn sống.
“Lạy Mẹ xin yên ủi chúng
con luôn luôn. Mẹ từ bi xin phá những nổi u buồn. Vì đời con gieo rắc biết bao
đau thương và tràn lan gai góc vướng trên con đường….”
* * *
Một tuần sau ngày chị qua đời. Hôm nay chủ nhật, cả nhà sẽ ra
nghĩa trang thăm chị. Anh đã thức dậy từ sớm, chuẩn bị mọi thứ, đặc biệt là hai
chậu lan tím mà chị thích sẽ đem để trên
mộ chị.
Nhìn lên bàn thờ, qua khung ảnh, chị như đang mỉm cười với anh.
Nam nhủ thầm: “Lan ơi, chắc là em đã yên
nghỉ. Hãy phù hộ cho anh thay em lo cho các con. Bố con anh rất muốn gặp lại em”.
Làn hương nhẹ bay trong gió sớm mang theo nỗi niềm của người ra
đi và cả người ở lại. Phía chân trời màu nắng bình minh gợi lên bao niềm tin và
hy vọng về hạnh phúc sum vầy của những kẻ có niềm tin…
Mã số:
17-116
Cứ như mọi buổi sáng, tôi thức giấc trong tình yêu quan phòng của
Chúa. Tôi cảm tạ Chúa và mở toang cánh cửa sổ cho ánh bình minh rực rỡ ló rạng
len lỏi vào căn phòng. Rồi lại mỉm cười, hít thở thật sâu để tận hưởng cho trọn
giây phút tuyệt vời này. Trong ánh ban mai, những tia nắng ấm áp đem lại cho
tôi niềm vui, bình an, cảm giác sảng khoái, thư thái và nguồn sức sống vô tận để
khởi động cho một ngày mới.
Có lẽ hôm nay là một ngày bận rộn đối với tôi. Tôi lại phải tiếp
tục chạy đua với cuộc sống bộn bề hằng ngày. Thế nhưng, mọi thứ đã được chuẩn bị
kĩ càng từ tối hôm trước. Vác cái balô ôm trọn cả sống lưng bằng vải thổ cẩm
trên vai, tôi phi thẳng xuống chỗ để xe. “Chiếc xe huyền thoại – Cub 50” kia rồi!
Đi thôi!”. Dong xe ra, tôi đạp máy. “Phành phạch… phành phạch… Nổ rồi. Sao hôm
nay ngoan thế? Bình thường “nhõng nhẽo” lắm cơ mà!” - Tôi thầm nghĩ, cười khoái
chí rồi chạy vù đi. Buổi sáng hôm nay thật đẹp. Trời trong xanh, thoáng đãng
mang lại bầu không khí mát mẻ, dễ chịu, pha thêm chút gió đông se lạnh, làm cho
tâm hồn mỗi người tràn đầy hân hoan. Khi xe lăn bánh, ngôi nhà nơi tôi đang cư
ngụ dần dần khuất đi sau lưng bằng những khu xóm, những con đường, những tòa
nhà cao vút và bóng dáng của ngôi nhà thờ trang nghiêm… Tôi đi học. Tôi là một
sinh viên.
Ra khỏi cái hẻm chật hẹp và quanh co nhưng cũng đã trở nên rất đỗi
gần gũi là đến những con đường đã được đặt tên, tôi có thể dễ dàng lưu thông tới
trường. Nhà tôi gần chợ nên khiến cho nơi này sầm uất, sôi nổi hơn hẳn so với
nhiều khu vực khác ở Sài Gòn. Hai bên đường là sự nhộn nhịp, ồn ào của các quán
ăn, các cửa hàng, các lái buôn… Mọi người trở nên náo nhiệt vào mỗi sáng. Các cụ
già thì đang khỏe khoắn trong các bài tập dưỡng sinh nhẹ nhàng ở gần đó. Tôi vẫn
chưa phải ngửi mùi khói bụi nhiều vì chưa đến giờ cao điểm. Điều này cũng trở
thành một niềm vui đơn sơ và lý thú đối với tôi. Đường sá vẫn còn ít xe cộ qua
lại. Nhờ vậy, tôi còn có thể ngửi thấy mùi sữa đậu nành thơm lừng nồng nàn xông
lên tận mũi, mùi phở ngất ngây đến quyến rũ, sẵn sàng kích thích vị giác của bất
cứ ai cùng mùi xôi nhẹ nhàng, thoang thoảng… dọc theo con đường. "Mình
cũng phải tranh thủ kiếm thứ gì đó lót dạ khi đến trường chứ!". Nghĩ vậy
nên tôi lái xe chậm lại, tạt vào một quán ăn nhỏ bên đường:
- Cô ơi, lấy cho cháu hộp
bánh cuốn nóng như mọi hôm nhé! Lấy nước mắm không cay nha cô!
- Được rồi, chờ cô xíu
nhé! – Cô bán hàng vui vẻ mỉm cười đáp lại.
Cuộc sống không chỉ đơn thuần dừng lại ở những “mùi”, những hoạt
động, những cảnh vật quen thuộc ấy mà nó còn chứa đựng, hứa hẹn biết bao điều
thú vị vào buổi sáng hôm đó. Chỉ đợi vài phút ít ỏi khi chờ mua đồ ăn sáng
nhưng tôi diễm phúc được chứng kiến một câu chuyện cổ tích có thật. Một câu
chuyện tình yêu tuyệt diệu mà tôi dám cá rằng nhiều người, đặc biệt là các bạn
trẻ đều không thể tin được. Thế nhưng, nó đang hiện ra trước mắt tôi một cách
lãng mạn, chân thật, huy hoàng và rực rỡ. Tôi đã thấy một điều thật hay, thật đẹp,
thật gần gũi, song, thật đặc biệt và thật hiếm trên phố Sài Gòn hoa lệ này. Thật
không phí thời giờ Chúa ban chút nào!
Cách độ khoảng hai, ba mét, tôi gặp một “đôi bạn trẻ” ước chừng
đã ngoài bảy mươi có vẻ đang rất hạnh phúc. Vì không còn cụm từ nào diễn tả nỗi
niềm này hay hơn, đúng hơn nên tôi gọi đó là “HẠNH PHÚC”. Hạnh phúc theo đúng
nghĩa mà lý trí có thể hiểu và con tim có thể cảm thấu được. Nhìn hình dáng bên
ngoài thì ông bà cũng chẳng có gì nổi bật so với biết bao con người khác đang
mưu sinh, vất vả trên đất Sài gòn. Hai ông bà ăn mặc rất đỗi bình dị, không cầu
kì, không trau chuốt. Rất may mắn vì tôi còn nhìn được màu áo sơ-mi của ông vì
nó đã sờn, đã bạc một cách thái quá. Phải chăng vì đã bầu bạn với ông quá lâu
năm? Đó là chiếc áo sơ-mi màu nâu sậm với những đường may đơn giản kèm theo vài
vết khâu vá. Nếu nó còn mới thì gần giống màu da của ông. Màu da bánh mật mà đã
bị rám nắng. Thiết nghĩ, màu da đó đã phản ánh cách chân thực của sự khổ cực,
hy sinh, chịu sương, chịu gió, dãi dầu sớm hôm suốt chừng ấy năm trong cuộc đời
ông lão. Khuôn mặt phúc hậu cùng đôi mát sáng ấy cho tôi nhiều tín hiệu của ánh
nhìn đầy thiện cảm, của sự tôn trọng, nể phục và quý mến đối với ông. Cái mũ
màu xanh rêu bộ đội, có thêm cả sợi dây quai dài xuống tới cổ có vẻ cũng đã đồng
hành cùng ông không biết đã bao nhiêu năm. Vì chưng, tôi cũng chẳng định hình
được nó còn ánh lên được cái màu rêu của chiếc mũ kia không nữa. Mái tóc ngắn
ngắn, xoăn xoăn của bà thì bạc phơ, không còn chút nào gọi là "muối
tiêu" như dân gian thường hay so sánh. Thân hình gầy gò, tiều tuỵ nhưng
không thể ẩn đi sự trìu mến và niềm nở, rạng rỡ trên khuôn mặt bà. Bà cũng thật
giản dị trong bộ áo bà ba xưa cũ, cũng đã sờn, đã bạc, đã hao mòn như ông. Trên
cổ tay bà có đeo một chuỗi mân côi màu đen bình dị, là dấu hiệu nhận biết đứa
con có lòng sùng kính Trái Tim Đức Mẹ. Chắc hẳn, ông bà là người Công Giáo. Vì
thế, tôi lại càng thấy sự thân thiện và gần gũi hơn đối với hai cụ.
Có lẽ cuộc đời của hai con người này đã trải qua rất nhiều sóng
gió của thời cuộc, của biết bao sự lao đao, vất vả tìm miếng cơm manh áo, của sự
đong đo chật vật, của sự mưu sinh trong cuộc sống cơ hàn này. Tôi nghĩ là tôi
đoán đúng. Phải! Tôi thấy ông chở bà trên chiếc xe đạp thô sơ, cũ kĩ và xuống cấp
để… đi bán vé số. Họ là người nghèo sao? Không! Họ giàu lắm! Giàu đến nỗi không
thể đếm cho cùng. Họ giàu tình yêu của sự chân thành chất phác, tình yêu của sự
thủy chung tuyệt đối, tình yêu của sự gắn kết trọn hảo và họ giàu tình yêu trọn
vẹn của một kiếp người. Trong nỗi cơ cực nhưng không vắng bóng sự cố gắng vươn
lên. Họ thật sự giàu có, giàu tình yêu đang chan chứa tỏa lan nơi tâm hồn ông
bà. Đối với tôi, họ là những vĩ nhân. Điều tôi đang nhìn thấy là hình ảnh đẹp
nhất khi tôi bắt đầu chập chững bước chân ướt, chân ráo lên Sài Gòn cho đến thời
điểm này. Cái đẹp mà con mắt tôi nhìn thấy là tình yêu vô bờ bến nơi ông bà
dành cho nhau. Ở chừng tuổi này, cái tuổi dành cho sự nghỉ ngơi, tịnh dưỡng phải
được ưu tiên hàng đầu. Thế nhưng, cuộc sống éo le đưa đẩy họ trong cảnh thiếu
thốn, trong lúc bóng đã xế chiều mà họ vẫn phải lao đao kiếm sống. Dù vậy họ vẫn
bên nhau, cùng nhau lao động và cùng nhau song hành. Đặc biệt, họ làm một điều
mà thậm chí những người trẻ như tôi đây, đang trong tuổi yêu rạo rực và cháy bỏng,
đầy rung động và đam mê, mộng mơ và điên dại mà còn lấy làm e ngại: đèo nhau
trên chiếc xe đạp cũ khắp phố phường Sài Gòn. Hạnh phúc! Tôi lặp đi lặp lại từ
này vì chưng, chính tôi đây cũng ngạc nhiên, cũng nghẹn ngào, cũng đang vỡ òa
trong cõi lòng trước nỗi niềm ấy của “đôi bạn” này.
Họ đang dừng lại bán vé số cho một phụ nữ trạc bốn mươi đang đi
bộ trên vỉa hè. Tôi đứng sau họ độ vài thước nên dễ dàng quan sát hết thảy.
- Hai bác ơi, cho cháu coi mấy tờ vé số nhé! – Người phụ nữ lên
tiếng vẫy gọi niềm nở.
- Dạ được, cô coi rồi mua giúp chúng tôi heng! – Bà cụ đáp lại bằng
nụ cười móm mém, tươi tắn và vui mừng.
Bà đưa cho người phụ nữ những tấm vé số được sắp nếp gọn gàng từng
xấp một. Vừa coi, vừa bắt chuyện:
- Thế ngày nào hai bác cũng đi bán thế này hả?
- Vâng. Chúng tôi nghèo mà đã quá tuổi lao động rồi, còn ai thuê
chúng tôi đâu.– Ông đáp.
- Thế hai bác không có con cháu gì hả?
- Có chứ! Chúng tôi có một đứa con trai nhưng nó đã ra đi cách
đây khoảng hai chục năm trong một vụ tai nạn giao thông rồi. – Nói đến đấy, đôi
mắt cụ bà đỏ hoe, rưng rưng trong khóe mắt. Như thể nỗi đau lại một lần nữa bóp
nghẹt lấy con tim mà không gì có thể xoa dịu hay bù đắp được.
- Ôi! Cháu xin lỗi. – Người phụ nữ vội vàng tiếp lời. – Thế mỗi
ngày hai bác bán được nhiều không?
- Cũng tàm tạm cô ạ! Đủ chén cơm cho chúng tôi sống qua ngày.-
Ông cụ đáp.
- Bác đạp xe thế này thì đi được bao xa?
- Tùy ngày cô ạ! Ngày nào bán được nhiều thì đi ít, ngày nào bán
được ít thì đi nhiều.
Người phụ nữ mỉm cười:
- Cháu lấy 10 tờ. Cho cháu gửi tiền hai bác.
- Cám ơn cô nhiều nhé! Cứ gặp nhiều người như cô thế này thì hôm
nay chúng tôi được nghỉ sớm rồi. Cám ơn cô!
- Dạ, không có gì đâu hai bác.
- Chào cô nhé!
Nói rồi, ông lão ngồi lên yên xe đèo bà đi tiếp trên con đường
dài. Bỗng, nghe một tiếng thất thanh nhưng quen thuộc:
- À hai bác ơi! – Người phụ nữ vừa rồi lên tiếng gọi một lần nữa.
- Sao thế hả cô? – Bà ngạc nhiên đáp
- Cháu đã mua mấy tờ vé số này rồi. Nhưng bây giờ cháu muốn biếu
lại hai bác. Coi như để giúp hai bác thêm phần nào. Hai bác nhận nhé!
- Ồ không cô ơi! Cô có lòng như thế thì chúng tôi cám ơn. Cô đã
giúp chúng tôi nhiều lắm rồi cô ạ! Nhưng chúng tôi còn làm được, còn đi được
thì chúng con còn làm, còn đi chứ. Đâu có ỷ nại vào lòng tốt của cô được. Cô là
một người nhân ái. Chúa sẽ trả công cho cô. Thôi, tạm biệt cô. Chúng tôi đi
đây. - Ông cụ mạnh mẽ trả lời.
Nói rồi, ông bà tiếp tục đi, đi trong sự ngỡ ngàng của người phụ
nữ trung niên đó và cả tôi nữa. Bánh xe đạp ấy lăn được bao nhiêu vòng thì thể
hiện được bấy nhiêu sự kính trọng, nể phục của tôi dành cho ông bà bằng cái lặng
lẽ, cố gắng, thật thà, chất phác, tự trọng mà ông bà đã thực hành và cách
riêng, nêu gương cho chính bản thân tôi.
Tôi bất thần trong tích tắc. Cảnh tượng này làm lòng tôi run
lên, xúc cảm trong sự xao xuyến, bồi hồi và có chút gì đó rạo rực trong tâm trí
về một “đôi bạn trẻ” khác: là ông bà nội của tôi. Ông bà tôi cũng có một cuộc đời,
một cuộc hôn nhân rất đỗi hạnh phúc. Đến nỗi mà mẹ tôi từng nói: “Từ ngày mẹ về
làm dâu, chưa thấy ông bà to tiếng với nhau khi nào". Có nhiều người cho rằng
đây là điều không thể, nhưng xin thưa đó là sự thật. Và giả như ông bà có lớn
tiếng hay giận hơn nhau điều gì mà con cháu biết thì tôi nghĩ đó cũng chỉ là những
chuyện vặt vẽ, nhỏ nhặt, không đáng bận tâm, dễ dàng bỏ qua được. Đồng thời,
đây cũng hẳn là sự khôn ngoan Trời ban cho các cụ – người mà tôi hết lòng mến mộ
và kính yêu. Tôi tin điều đó. Vì chưng, tuổi thơ tôi đã có rất nhiều kỉ niệm
cùng ông bà. Hồi đó, nhà tôi nghèo, còn đun bằng bếp lửa. Ông thì chẻ củi, bà
thì ngồi căn bếp, đun nồi nước sôi dùng cho cả nhà. Tôi hay xuống xin “giành”
việc của bà. Con nít hay tò mò, hay quậy phá ấy mà. Còn bà thì hướng dẫn tôi
coi bếp và thích nhìn cháu chơi, để cháu nghịch mấy cái than củi. Đơn giản là
vì cháu thích và cũng không nguy hiểm gì. Phần ông, chẻ củi gần đó mà cứ vừa
đùa, vừa nói, vừa chọc ghẹo tôi và cả… bà. Rồi sáng sớm, hai ông bà ngồi cùng
nhau nhặt mười mấy bó rau muống để giúp bác tôi trong việc kinh doanh. Đứa cháu
nhỏ cũng còn là trẻ con, cũng thích nghịch ngợm, cũng ngồi đó phá phách và
thích thú coi ông bà làm việc… Gia đình tôi tràn ngập tiếng cười khi có ông bà.
Từ cuộc sống, hình ảnh và những bài học của ông bà để lại cho lũ cháu đàn con
thì trở nên bất hủ và vô giá. Đối với bà, ông nội tôi mãi là người chồng, người
yêu, là chàng tân lang, là người bạn đời thuỷ chung vẫn còn sống mãi trong trái
tim này. Bởi lẽ, khi tôi về chơi, cùng trò chuyện thì bao giờ bà cũng kể về
ông. Bà thuộc từng hành động, từng cử chỉ, từng thói quen, sở thích... của ông.
Nghĩ tới đây, khóe mắt tôi cay cay xuống tận sống mũi: ông nội tôi đã mất cách
đây hơn bốn năm rồi. Nhưng tôi hằng tin rằng: Ông sống mãi trong bà và đàn con
cháu.
- Cháu ơi, bánh cuốn của cháu xong rồi nè! – Cô bán hàng lay động
tay tôi.
Tôi giật mình như đang thăng hoa, không biết mình đang ở tầng
mây thứ mấy, đang làm gì hay đang ở đâu vậy. Vội vàng móc tờ mười ngàn trong
túi ra đưa cho cô ấy.
- Cháu gửi cô nhé! Cám ơn cô rất nhiều!
Tôi muốn đi theo ông bà bán vé số kia để cảm nhận thêm những giá
trị tinh hoa nơi họ. Thế nhưng, ông bà cứ đi thẳng, còn tôi phải rẽ trái rồi. Cầu
mong ông bà sẽ luôn hạnh phúc bên nhau và cuộc sống của ông bà sẽ được cải thiện.
Đặc biệt, xin Chúa chúc phúc và ban muôn hồng ân cho hai con người cao thượng
này.
Nguyện
Chúa xuống tình hải hà
Yêu
thương, gắn kết, chở che gia đình
Tình
yêu có Chúa giữ gìn
Mãi
luôn êm ái trong cánh tay Người.
Thế rồi, tôi lại quay về với cuộc hành trình của mình. Tôi lái
chiếc xe huyền thoại đó đi thêm khoảng vài trăm mét thì dừng lại:
- Mày ra đây lâu chưa? Đợi tao có lâu không?
- Tao mới ra. Tao tưởng mày đợi tao.
Hai đứa phá lên cười. Thì ra là đứa nào cũng trễ vài phút như
nhau. Đó là Tuyết – bạn chung lớp với tôi. Tôi thường qua chở nó đi cùng. Chúng
tôi đi học, đi trong niềm vui, trong tiếng cười giòn giã bởi những câu chuyện
vui, bất ngờ của nó và của tôi. Tôi cũng kể cho Tuyết nghe về bức tranh tuyệt mỹ
mà tôi vừa chiêm ngắm. Nó cũng rạo rực, bần thần y như tôi. Chúng tôi đến trường
trong ánh nắng rực rỡ của Sài Gòn, trong tâm tình tạ ơn Đấng Quan Phòng, trong
sức sống tràn trề và tinh thần tươi trẻ, năng nổ, đầy nhiệt huyết của tuổi sinh
viên.
Cuộc
đời đẹp lắm ai ơi!
Muôn
màu, muôn sắc của bao tâm hồn
Lao
đao, vất vả khốn cùng
Hay rằng
no ấm, tiện nghi mọi bề
Cho
dù nhỏ, lớn, cao niên
Thì
bình minh vẫn chiếu soi không từ
Nên
xin cứ mãi sống yêu
Yêu
thương tình nghĩa chứa chan nhiệm màu
Sẻ
chia ngọt bùi cùng nhau
Sống
chung một kiếp trọn đời ở bên.
Mã số:
17-117
Ở đời, thường có những biến
cố bất chợt xảy đến không thể ngờ trước, cũng như có những cuộc hạnh ngộ ngoài
dự đoán của ta. Đối với Hoàng cũng thế, anh định lên máy bay sẽ đánh một giấc
cho lại sức, vì đêm qua anh mải bận rộn tiệc tùng với bao tình cảm quyến luyến,
nên giờ cần ngủ bù. Nhưng vừa ngồi xuống ghế, anh chợt nhìn sững người bên cạnh
và ngập ngừng hỏi:
- Có phải cậu là…Thịnh?
Rồi Hoàng ôm chầm lấy anh
ta, đấm thùm thụp vào lưng bạn:
- Trời ơi! Mười mấy năm
nay cậu đi đâu biệt tăm, sao chẳng liên lạc với tớ?
- Cậu trốn mất, sao mình
tìm được.
- Ừ nhỉ! Nhà cậu dời đi được
gần một năm thì nhà mình cũng dời về thành phố sống chung với nội nên…
Thịnh cười thật tươi:
- Quả là sự an bài tuyệt vời
của Đức Chúa Trời!
Hoàng ngạc nhiên kêu lên:
- Cậu…
Thịnh gật đầu cười hiền:
- Giờ mình là mục sư, một
thành viên của Tu Hội Đại Kết Taizé. Cậu có nghe nói về những buổi cầu nguyện
Taizé chưa?
- Mình có dự mấy lần hồi
còn sinh hoạt giới trẻ. Mình tưởng đó là phương pháp cầu nguyện của Công Giáo
Đông Phương?
- Không phải cậu ạ, là sáng kiến của một mục sư Tin Lành đấy. Cộng
đoàn Taizé do thầy Roger Schutz - một người Tin Lành lập ra, vào
năm 1940 . Đây là một Tu Hội Đại Kết tại làng Taizé, tỉnh
Saône-et-Loire, thuộc vùng Bourgogne, miền tây nước Pháp. Cộng đoàn này hiện
có hàng trăm anh em tu sĩ thuộc nhiều Giáo Hội Kitô khác nhau như: Công
Giáo, Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo... đến từ khoảng 30 quốc
gia trên thế giới. Năm 1986, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến
chia sẻ những sinh hoạt với cộng đoàn nhỏ bé này.
- Ồ! Vậy mục đích của Tu Hội là gì?
- Mục đích của Tu Hội Đại
Kết là hiệp nhất các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội Kitô: Công Giáo, Tin
Lành, Chính Thống, Anh Giáo… nhằm cổ vũ sự thống nhất đức tin và hiệp thông giữa
các cộng đồng Kitô giáo. Lý tưởng của cộng đoàn là cổ vũ mạnh mẽ cho nền công
lý và hòa bình của thế giới thông qua việc cầu nguyện và chiêm
niệm.
- Thế à? Nhưng một cộng đoàn tôn giáo hỗn hợp như vậy thì mọi
người sống và hoạt động thế nào?
- Các thành viên khấn độc thân, sống cộng đoàn, tận hiến trong
điều kiện sống giản dị nhất và sống bằng chính sức lao động của mình. Trọng tâm
của đời sống cộng đoàn Taizé là các tu sĩ cầu nguyện chung với nhau ba lần mỗi
ngày. Cộng đoàn được thành lập để chia sẻ với những người nghèo khổ nhất và sẵn
sàng đón tiếp những ai cần đến họ. Lúc đầu, tu hội tập hợp những trẻ em bị mồ
côi cha mẹ trong chiến tranh thế giới thứ hai và nhận nuôi các em. Dần dần, nhà
Taizé tiếp nhận thêm rất nhiều người cơ nhỡ. Họ đến sống với các em đường phố,
các tù nhân, các người bệnh ở giai đoạn cuối, những người sống trong cảnh khốn
cùng... Mỗi năm, có hơn 100.000 thanh niên từ khắp nơi trên thế giới hành hương
đến Taizé để cầu nguyện, học Kinh Thánh,
chia sẻ, và làm việc cho cộng đoàn. Hiện nay, Tu Hội này có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới như
Ấn Độ, Bangladesh, Philippines, Algérie, Brasil, Kenya, Senegal,
Hoa Kỳ…
- Thế cộng đoàn giúp được gì về phương diện tâm linh cho những
người mình phục vụ?
- Các tu sĩ này đã giúp nhiều người tìm được giá trị của chính
mình qua tình yêu của Thượng Đế, lòng tử tế và tình nhân loại, qua thiên nhiên,
không phân biệt tôn giáo, màu da, chính kiến.
- Bây giờ vị mục sư thành lập vẫn còn làm bề trên à?
- Không, thầy mới mất năm 2005. Nhưng trước đó, vào năm 1998, thầy Roger đã chỉ định
thầy Alois - một người Công Giáo gốc Đức sẽ
làm người kế nhiệm mình. Năm vừa rồi thầy Roger qua đời, thầy Alois lên làm Bề
Trên Tổng Quyền của Cộng đoàn Taizé.
Rồi Thịnh kể cho Hoàng
nghe cơ duyên nào đưa cậu gia nhập cộng đoàn này. Cuộc đời thường có những cơ
may bất ngờ xảy đến, Thịnh cũng gặp được điều may lành như thế. Thấy anh học giỏi,
ngoan hiền lại có ước mơ làm bác sĩ, nên vừa xong tú tài, người cô ruột ở Mỹ đã
tài trợ cho sang du học. Được gần hai năm, có lần mấy người bạn Tin Lành rủ anh
tham dự giờ cầu nguyện Taizé do một mục sư hướng dẫn. Lúc đầu anh định đi thử
cho biết, sau thấy hay nên đến dự thường xuyên. Rồi một lần trong giờ cầu nguyện,
Thịnh nghe rõ tiếng Chúa mời gọi trong tâm hồn: “Hãy đi làm cho muôn dân thành
môn đệ Ta, làm phép Báp-tem cho họ nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức
Thánh Linh” ([1]).
Suốt mấy tháng liền, anh cứ nghe tiếng mời gọi ấy vang vọng mãi trong lòng, anh
đến trao đổi với mục sư và được hướng dẫn tận tình. Sau đó, anh về trình bày với
người cô ước muốn làm mục sư để mang Lời Chúa đến cho mọi người và bà đã ủng hộ
anh. Thịnh chọn theo Tin Lành, vì người đầu tiên anh gặp gỡ và đã ân cần giúp đỡ anh là mục sư
trong Tu Hội Đại Kết Taizé này.
Hoàng thắc mắc:
- Cậu từ bỏ ước mơ từ nhỏ
của chúng ta à?
- Mình thấy Chúa Cứu Thế
Giêsu không hề học y khoa ngày nào mà vẫn chữa được đủ thứ loại bệnh. Ngài chỉ
dùng Lời để chữa được cả hồn lẫn xác. Với lại, sau một thời gian học Kinh
Thánh, mình ngộ ra một điều: “Vinh hoa đời này không bền vững, chỉ khi nào mình
sống cho Chúa, lúc đó đời mình mới thực sự có ý nghĩa”.
Hoàng bị đánh động bởi câu
nói vừa rồi. Anh thấy thẹn trong lòng, bởi mang tiếng là đạo gốc mà mấy năm qua
mãi lo học, anh đã lơ là với Chúa. Anh suy nghĩ nhiều về lời nói của bạn: “Vinh
hoa đời này không bền vững, chỉ khi nào mình sống cho Chúa, lúc đó đời mình mới
thực sự có ý nghĩa”. Cuối cùng, anh quyết định từ chối thư mời làm việc của bệnh
viện, cũng như những hứa hẹn của gia đình Cindy Nguyễn. Anh xin vào chủng viện,
dâng hiến đời mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ mọi người.
***
Dẫu là ai và ở tuổi nào,
con đường theo Chúa cũng vương bóng thánh giá. Bác sĩ Hoàng vào chủng viện được
một năm thì nhận công tác trưởng ban y tế của nhà chung. Thầy trưởng ban y tế
cũ tỏ ra không hài lòng, khi tình cờ biết được thầy Hoàng hay liên lạc với một
người bạn là mục sư, thầy ấy liền đi mách với cha giám đốc. Trong một lần gặp
nhau, cha giám đốc có hỏi thầy về người bạn mục sư đó. Thầy đã kể cho cha nghe
tương quan của thầy và mục sư Thịnh, cũng như động lực nào khiến thầy đi tu.
Hai người là bạn thân, chơi chung với nhau từ nhỏ. Có một điều
khác nhau là hai đứa không cùng đạo. Khi Hoàng và Thịnh vừa học xong lớp năm
thì bà nội của Thịnh bị tai biến, gia đình anh phải về sống chung với bà. Hai
người xa nhau từ đó. Anh bạn ngày xưa, nay là một mục sư Tin Lành của Tu Hội Đại
Kết Taizé.
Cha giám đốc giờ hiểu rõ ngọn nguồn, ngài còn khích lệ thầy cứ
tiếp tục phát triển tình bạn đó. Thầy Hoàng nói cho cha nghe ước nguyện của thầy
là: “Cầu nguyện cho người bạn được ơn quay về hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công Giáo”. Cha bảo thầy hãy kiên trì cầu nguyện, nhưng xin Chúa thực hiện
chương trình của Ngài trên cuộc đời người bạn theo như ý Chúa.
***
Thời gian thấm thoát trôi, cuối cùng ngày mong đợi đã đến. Những
tấm thiệp in đậm tên của mười tiến chức đã được gửi đi. Khuôn viên Tòa Giám Mục
đang được dọn dẹp, trang hoàng chuẩn bị cho ngày lễ. Còn một tuần nữa là đến
ngày phong chức, Đức Cha cho gọi thầy Hoàng lên nói: “Thầy chưa được chịu chức
trong đợt này”. Thầy chỉ biết cúi đầu nhận tin mà chết lặng trong lòng.
Thầy Hoàng vào nhà nguyện
nhìn lên Thánh Giá Chúa, tâm hồn nặng trĩu, đầu óc rối bời. Thầy thấy dường như
Chúa Giêsu trên núi Sọ cũng có tâm trạng như mình khi kêu lên: “Lạy Cha, sao
Cha bỏ con?”. Nhưng một lúc sau Người lại thưa: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn
Con trong tay Cha”, thầy thấy trong lòng nhẹ đi đôi chút. Thầy chẳng biết nói
gì với Chúa, chỉ lặp đi lặp lại một câu:
- “Lạy Chúa, xin cứ thực
hiện chương trình của Chúa trên cuộc đời con… Giêsu ơi, xin tiếp sức cho con… Lạy
Mẹ Maria, xin đồng hành cùng con”.
Khi tâm hồn đã lắng dịu,
thầy Hoàng gọi cho mục sư Thịnh. Thầy vừa bấm máy vừa nghĩ: “Phải chăng đây là
sự an ủi của Chúa, khi Người sắp đặt cho Thịnh về nước trong lúc này?”. Bên kia
đầu dây là giọng nói thân quen:
- Mình đây Hoàng ơi. Cậu gọi
mình giờ này chắc có chuyện gì à?
- Có chuyện thật rồi cậu ạ!
Mình… mình không được chịu chức đợt này.
- Sao lại thế?
- Mình cũng không biết nữa,
chỉ nghe Đức Cha nói vậy thôi.
Cả hai cùng im lặng, một bầu
khí trầm buồn phủ quanh hai người. Một lúc sau, Thịnh hỏi:
- Hiện giờ cậu đang ở đâu?
- Mình ở trong nhà nguyện
từ chiều đến giờ.
- Tốt lắm! Cậu ở thêm một
giờ nữa đi, mình sẽ hiệp ý cầu cùng Đức Chúa Trời cho cậu.
- Mình cám ơn cậu.
Thầy Hoàng cứ ngồi đó, đầu
óc rỗng tuếch, đôi mắt ráo quảnh nhìn lên Nhà Chầu. Mọi hôm, ai ngồi lại trong nhà
nguyện giờ này là làm mồi cho muỗi. Nhưng sao hôm nay chẳng có con muỗi nào đến
quấy rầy thầy Hoàng, không biết vì chúng bác ái với thầy hay vì tâm hồn tê tái
làm thầy không còn cảm giác nữa.
Một lúc sau, mục sư Thịnh
nhắn tin: “Ngày mai, cậu hãy xin ra ngoài và đi với mình”.
***
Sáng hôm sau, mục sư Thịnh
đưa thầy Hoàng ra vùng ngoại ô, đến gia đình em gái của anh ấy. Suốt quãng đường
hơn ba mươi cây số, hai người im lặng trong đồng cảm. Nơi hai người đến là một
cánh đồng, mùa gặt vừa xong chỉ còn trơ lại gốc rạ. Một câu hỏi chợt đến trong
trí thầy Hoàng: “Vụ mùa đã xong, phải chăng Chúa không cần thợ gặt nữa?”. Thầy
ngồi trên đê, ánh mắt nhìn xa xăm. Bất chợt, thầy thấy mãi tít đàng kia thấp
thoáng mấy người nông dân, tiếng họ văng vẳng đang khiển trâu kéo cày chuẩn bị
mùa vụ mới. Đôi mắt thầy ánh lên niềm vui, đầu khẽ gật gù.
Xa xa giữa cánh đồng, có vài đống rơm cháy sắp tàn còn vương lại
chút khói bay lãng đãng. Gió mát rượi mang theo mùi khói rơm thoảng nhẹ làm thầy
Hoàng nhớ về tuổi thơ của hai đứa; một thời đầy ắp những kỷ niệm ngây ngô.
Thịnh luôn là người chu đáo, mọi thứ được chuẩn bị sẵn cạnh đống
rơm, dưới gốc cây si bên bờ đê. Có một cậu bé mang ra cho anh mấy con cá lóc
xâu trong sợi dây chuối. Anh rút một mớ rơm, vùi cá vào trong và châm lửa. Khói
bốc lên nghi ngút, vật vờ xoay tứ phía, ập vào mặt làm anh ho sặc sụa. Thầy
Hoàng ngồi nhìn bạn mà lòng thấy nhẹ vơi.
Thịnh là thế, lúc nào gặp nhau Hoàng cũng thấy ấm lòng, vì anh
luôn sẵn sàng đồng cảm và sẻ chia. Mấy năm ở chủng viện, thầy cũng có chơi thân
với vài thầy khác, nhưng ngoài cha linh hướng ra, thì anh là người mà thầy dễ
chia sẻ nhất. Ở bên anh, Hoàng như sống lại tuổi thơ của mình, không giấu diếm
nhau điều gì, luôn được lắng nghe và thấu hiểu, dẫu “không cùng chung lối”.
Tuy bằng tuổi nhau, nhưng Hoàng là con út trong gia đình, còn Thịnh
là anh cả; nên lúc nào anh cũng tỏ ra quan tâm và thấu cảm những nỗi lòng của
Hoàng. Hoàng thích anh ở chỗ luôn thẳng thắn, chân tình trong tôn trọng và cùng
giúp nhau thăng tiến.
Thời gian Hoàng học triết và thần học ở chủng viện, mỗi lần liên
lạc hay những dịp về thăm là anh khích nhau bằng cách đặt ra những câu hỏi hóc
búa và gay cấn, để Hoàng phải đào sâu và nắm vững kiến thức cũng như những giáo
huấn của Giáo Hội.
Thịnh đã nướng cá xong, anh đặt chúng trên mớ rơm mang đến bên bạn.
Anh lên tiếng kéo Hoàng về thực tại:
- Nào, cậu thử xem cá bây giờ có ngọt như ngày xưa không?
Thầy Hoàng hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra như muốn xua đi tất
cả những u uẩn trong lòng. Thầy xoay qua nhún vai và mĩm cười với bạn. Hai người
vừa nhâm nhi vừa nhắc lại những chuyện ngày xưa rồi cùng cười vui vẻ. Thịnh
nói:
- Cậu nhớ không, ngày xưa cậu là người bắt cá chiến nhất trong
đám. Bọn xóm trên rất phục tài bắt cá của cậu. Còn mình, lần nào cũng chỉ được
vài con nhỏ xíu. Vậy mà khi nướng xong, cậu toàn bắt mình ăn con lớn. Thú thực
với cậu có bữa mình rất ngớn, nhưng để cậu vui mình lại cố ăn cho hết.
Thầy Hoàng ngồi gật gù ra vẻ đắc chí:
- Ngày xưa chúng mình nghịch thật, nhưng rất vui và vô lo, chứ
không phức tạp như bây giờ.
- Cậu lau tay đi rồi ăn cái này!
- Sao lại có kem nữa?
- Mình nhờ Hồng Thu mua đấy. Cậu nhớ không, hồi đó hai đứa mình
thường ăn chung một cây cà lem. Cậu thích kem sầu riêng còn mình thì thích đậu
xanh nên mình hay nhường cho cậu chọn. Đến lúc ăn, mình chỉ giả vờ liếm qua rồi
để cho cậu mút. Vậy mà cậu cũng phát hiện ra và la mình: “Cậu ăn bạo vào, cậu
mút như thế làm sao tớ dám cắn miếng to chứ?”. Mười mấy năm qua mình vẫn nhớ những
kỷ niệm này.
Thầy Hoàng rất cảm kích trước tấm lòng của bạn. Anh không hề
khuyên giải gì trước nỗi buồn to lớn của
thầy, nhưng lại là liều thuốc thật hữu ích khi anh giúp thầy sống lại tuổi
thơ; một thời hồn nhiên, vô tư, chỉ sống cho hiện tại.
***
Những cơn gió chiều mát rượi lướt qua, vuốt ve vầng trán lấm tấm
mồ hôi. Trong mớ tóc đang mết vào trán, một vài sợi đã bật ra phất phơ theo
gió. Sự âu yếm của thiên nhiên đã giúp thầy Hoàng tỉnh giấc. Mùi rơm thoảng nhẹ
làm thầy muốn kéo dài giấc ngủ để mơ về tuổi thơ. Thịnh ngồi kế bên thấy bạn ngọ
ngoạy thì mỉm cười quan tâm:
- Cậu tỉnh rồi à? Dậy uống miếng nước dừa cho khỏe, dừa ở đây ngọt
lắm cậu ạ!
Thầy Hoàng uể oải ngồi dậy, lấy tay vỗ vỗ trán nói:
- Gió mát, ngủ ngon thật. Mình cám ơn cậu về chuyến đi này.
- Chúng ta là bạn bè, cậu đừng nói thế. Chuyện của cậu cũng là
chuyện của mình. Này, uống nước dừa đi cho khỏe, mình phải đi mãi đàng kia mới
tìm được nhánh trúc làm ống hút đấy.
- Cần gì, cậu bày vẽ quá!
- Cậu quên à? Ngày xưa, tụi xóm trên phục cậu sát đất, chúng đặt
cho cậu biệt danh là “Hoàng bác học”, vì cậu là người đầu tiên trong nhóm đã
nghĩ ra cách lấy nhánh trúc làm ống hút đấy.
- Cậu nhớ được nhiều chuyện thế à?
- Mình vẫn nhớ như in ấy. Nhưng có điều mình muốn nói với cậu:
Ngày xưa, cậu là người mạnh mẽ, thông minh và nhanh nhạy nhất trong bọn, nên
mình nghĩ cậu sẽ vượt qua được biến cố này. Mình sẽ cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời
cho cậu.
- Cám ơn cậu, mình đã thấy nhẹ đi rất nhiều rồi. Nhớ ngày xưa
hai đứa mình cùng ước mơ làm bác sĩ để cứu giúp bệnh tật cho mọi người. Rồi bây
giờ chúng ta lại có chung ước nguyện hiến thân phụng sự Chúa và loan truyền
danh Chúa để mọi người được cứu độ. Mình quyết theo Chúa đến cùng, nên cậu cứ
yên tâm.
- Mình tin cậu.
- À! Khi nào cậu đi?
- Lần này mình về định tìm nơi lập “huynh đoàn”, bởi mình thấy
cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam còn mênh mông quá. Cậu thấy thế
nào, nếu mình dùng phương pháp cầu nguyện Taizé để truyền giáo?
- Ồ! Sáng kiến hay đấy! Hiện thời, cầu nguyện Taizé ở Giáo Phận
Sài Gòn này đang thu hút khá đông giáo dân tham dự. Một số Giáo Phận cũng có thực
hiện, nhưng chưa phổ biến lắm. Hồi còn ở Đại chủng viện Thánh Giuse, mình có
nghe cha phụ trách bảo: rất nên phát triển phong trào này. Phần đông những người
tham dự đều có nhận xét tương tự như sau: “Giờ cầu nguyện Taizé rất hữu ích và đánh
động đối với những người tham dự, cách riêng là các bạn trẻ. Các bài đọc
trong Tin Mừng, các Thánh Vịnh, Kinh Lạy Cha… các bài hát nhẹ nhàng, tiết tấu
chậm rãi, lời cầu nguyện ngắn gọn được dùng trong giờ cầu nguyện Taizé rất thực
tế, dễ hiểu mà sâu sắc. Điểm độc đáo gây
ấn tượng và cảm động nhiều hơn cả, có lẽ là vào cuối giờ cầu nguyện, những người
tham dự được mời cầm lấy ngọn nến nhỏ của mình, tượng trưng cho những niềm vui,
nỗi buồn, thử thách, hy vọng, đắng cay trong cuộc sống để mang lên cung thánh,
ngồi với nhau thành vòng tròn. Ở giữa họ là cây Thánh Giá lớn được sắp bằng nến
của những người tham dự. Mọi người cùng hiệp thông trong thinh lặng, với tâm
tình cảm mến và thờ lạy. Những phút giây này thật trái ngược với đời sống thường
nhật mà họ luôn phải đối diện, bầu không khí thân mật đem lại cho họ cảm giác của
con người tự do, có khả năng lột bỏ mặt nạ và chia sẻ những tâm tình sâu kín nhất.
Hiệu quả là sau những lần tham dự giờ cầu nguyện Taizé, cuộc sống của một số
người được biến đổi.
Thầy Hoàng kể cho mục sư Thịnh những kết quả khả quan thầy đã
ghi nhận được, bạn thầy liền trả lời:
- Đó là nhận định chung của các nhóm cầu nguyện Taizé cậu ạ. Có
một số anh chị em tôn giáo bạn, lúc đầu họ đến tham dự vì hiếu kỳ, nhưng sau thấy
hay nên đến dự thường xuyên và cũng có nhận định tương tự như vậy. Ngày xưa,
chính mình cũng thấy như thế. Còn bây giờ, mình cảm nhận rõ hơn sự hiện diện và
ơn ban của Đức Thánh Linh nơi các thành viên tham dự; cũng như năng lực biến đổi
siêu vượt của Lời Chúa. Vì thế, mình không ngần ngại đi bất cứ nơi đâu, khi được
mời đến thiết lập những nhóm cầu nguyện Taizé. Mình ước mong cho mọi người được
tin nhận biết Chúa để được cứu độ.
***
Nói về việc truyền giáo, Thầy Hoàng rất phục tinh thần truyền
giáo của bạn. Thỉnh thoảng anh được về nước, nhưng có nơi nào mời là anh hăng
hái lên đường, không ngại đường xá xa xôi, gian nan, vất vả với những chuyến
hành trình dài, kể cả lên những vùng Cao Nguyên. Anh luôn ước mong được mang Lời
Đức Chúa Trời đến khai sáng cho các anh chị em dân tộc thiểu số. Anh còn vận động
mọi người trợ giúp tài chánh cho việc “Học hỏi Lời Chúa” trong một số giáo xứ
nghèo của Công Giáo. Có năm, anh gửi cho thầy Hoàng gần một nghìn quyển Kinh
Thánh Tân Ước Công Giáo loại nhỏ, để thầy chuyển đến cho các giáo xứ vùng sâu
vùng xa. Cũng có đôi lần thầy Hoàng tỏ ra ái ngại, anh nói:
- Cậu nghĩ ngợi làm gì, Kinh Thánh nói: “Dù thế nào đi nữa, miễn sao Chúa Cứu Thế
được rao truyền thì tôi vui mừng” ([2]).
Suốt thời gian bước theo lời mời gọi của Chúa cho đến nay, thầy
Hoàng luôn được “truyền lửa” từ nhiệt huyết truyền giáo của anh bạn mục sư này.
Có thể nói rằng, Chúa đã dùng anh để làm mẫu cho sứ vụ mà Chúa muốn trao cho thầy.
Có lần thầy Hoàng thấy anh phờ phạc và sút hẳn vì những chuyến
đi dài, nên nhắc khéo thì được bạn trả lời:
- Phải! Phải! Chính vì “nhiệt tình nhà Chúa đã thiêu đốt tôi” ([3]).
Hơn nữa, Kinh Thánh nói: “Về phần tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí của cải và phí
cả chính mình tôi nữa vì linh hồn anh chị em” ([4]).
Đó chính là ước nguyện của mình nên mình luôn cố gắng hết sức có thể.
***
Qua lời nhận định của mục sư bạn về kết quả khả quan của phương
pháp cầu nguyện Taizé, cũng như sáng kiến cho nhiệt huyết truyền giáo của anh,
trong trí thầy Hoàng bật lên một câu hỏi: “Phải chăng, gia nhập Tu Hội Đại Kết,
để phổ biến phương pháp cầu nguyện Taizé trong công cuộc truyền giáo tại Việt
Nam, là “mùa vụ mới” mà Chúa muốn trao cho con?”.
Thấy thầy Hoàng ngồi thẩn thờ, mục sư Thượng lên tiếng:
- Cậu đang nghỉ gì thế?
- À…Mình…mình cũng có ước nguyện như cậu. Mình nghỉ, nên phổ biến
rộng rãi phương pháp cầu nguyện Taizé, vì đây sẽ là một trong những phương thế
truyền giáo hữu hiệu hiện nay.
Khi về đến chủng viện, thầy Hoàng đã báo cho gia đình việc hoãn
phong chức của thầy. Hôm sau, thầy xin đến một đan viện để tĩnh tâm tìm ý Chúa
về “sứ vụ mới” mà Chúa vừa khơi gợi. Trong những ngày đó, thầy tắt điện thoại,
không liên lạc cũng không gặp gỡ ai, suốt mấy ngày liền, thầy chỉ lo cầu nguyện.
Mã số:
17-118
Chị Thanh Loan vừa mở quyển Kinh Thánh ra, câu đầu tiên đập vào
mắt chị: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy
chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,10). Chị ngồi ngẫm nghỉ câu
Lời Chúa này và thấy thật thấm thía. Trong vòng bốn năm qua, có nhiều biến cố
đau thương xảy đến với gia đình chị. Biến cố đầu tiên và lớn nhất in đậm trong
đời mà chị cứ ngỡ như mới hôm qua.
Chiều đó, chị ngồi một mình trong phòng khách nhớ lại những việc
xảy đến trong ngày và thầm nghĩ: Dân gian thường nói: “Phúc bất trùng lai, hoạ
vô đơn chí”, có lẽ câu nói đó không đúng với trường hợp của chị trong lúc này;
bởi nội một ngày mà có nhiều điều may mắn đến với gia đình chị. Lúc sáng, anh
chị Hưng Thịnh mang đến cho vợ chồng chị tiền lợi nhuận hàng năm công ty chia
cho các người hùn vốn, năm nay lợi nhuận tăng gần gấp đôi năm trước. Mấy năm
qua, anh Đức Trọng chồng chị cùng góp vốn làm ăn với họ. Anh đã gom gần hết vốn
liếng trong nhà đưa cho chị Thịnh, anh rất tin tưởng chị vì là bạn học của anh
suốt những năm phổ thông. Anh Hưng chồng chị Thịnh, sau khi du học về đã thành
lập công ty “Xuất nhập khẩu thủy hải sản” này. Trưa đó, chị Thanh Loan đãi cả
nhà bữa cơm thịnh soạn.
Buổi chiều, thầy hiệu phó của Đức Hạnh hẹn gặp anh chị bảo là có
việc quan trọng. Hai người đang lo không biết có chuyện gì, thì thầy đến cho
hay:
- Con gái của anh chị được tuyển đi du học, bởi cháu luôn đạt loại
giỏi suốt tám năm qua. Trong cuộc thi vừa rồi, trường ngoại ngữ đã chọn tài trợ
cho Đức Hạnh và hai em của trường khác.
Nghe vậy anh chị vừa mừng, vừa lo. Thầy nói tiếp:
- Xin anh chị đừng ngại, cháu được “học bổng toàn phần”, nên gia
đình không phải lo gì cả. Mọi chi phí đều được tài trợ trong suốt sáu năm cháu
học bên Singapore. Nếu anh chị đồng ý thì xin anh theo tôi đến trường gặp thầy
hiệu trưởng để làm thủ tục cho cháu.
- Để chúng tôi hỏi cháu xem sao.
Được cha mẹ đồng ý, Đức Hạnh hớn hở ra mặt vì đó là ước mơ của
em. Anh Đức Trọng liền chuẩn bị xe để đi với thầy hiệu phó.
Khách vừa về, hai anh em Đức Hiền và Đức Hạnh cũng ra chào mẹ đi
lễ chiều thứ bảy đầu tháng. Chị Thanh Loan nghe niềm hạnh phúc tràn dâng trong
lòng. Ngồi trên bộ salon nhung êm mượt, chị tưởng như mình là “thiên thần hạnh
phúc” trên thiên đường.
Chị Thanh Loan rất tự hào về gia đình mình. Bạn bè luôn nhìn chị
với ánh mắt ngưỡng mộ, vì anh Đức Trọng chồng chị là người đàn ông mẫu mực, hết
lòng yêu thương vợ con và chăm lo cho gia đình. Suốt mười mấy năm qua, anh luôn
là cây cao bóng cả, là điểm tựa cho cuộc đời chị và các con. Hai đứa con chị đều
ngoan và học giỏi. Chúng là niềm hãnh diện cho chị khi đi họp phụ huynh cũng
như lúc gặp gỡ bạn bè.
Nhưng cuộc sống trần gian chỉ là cuộc lữ hành chứ không là bến đỗ,
cho nên có hợp rồi có tan và mọi sự không có gì là bảo đảm cả. Chị đâu ngờ rằng,
anh Đức Trọng chồng chị chiều đó đã “đi mãi không về”. Sau khi làm giấy tờ cho
con gái xong, anh chạy về được một đoạn thì bị tai nạn và đã qua đời.
Suốt mấy tuần liền chị Thanh Loan gần như điên loạn. Chị bị suy
sụp hoàn toàn vì không còn điểm tựa. Hai đứa con của chị chỉ biết nhìn mẹ mà
khóc. Sáng nào hai anh em cũng đi lễ cầu xin Chúa và Đức Mẹ giúp gia đình vượt
qua khó khăn. Mẹ của chị lên ở một thời gian để lo cho con gái và hai cháu. Tối
nào mấy bà cháu cũng đọc kinh và lần một chuỗi trước bàn thờ Đức Mẹ cầu xin cho
chị được chóng bình phục. Còn chị, ngồi chung đó mà không đọc kinh, ánh mắt
ngây dại, thẫn thờ…có khi khóc thét lên trong vật vã.
***
Nhưng với thời gian, nỗi buồn của chị Thanh Loan cũng nguôi
ngoai dần. Phải mất mấy tháng chị mới hồi phục. Sau biến cố tang thương của gia
đình, chị nhận ra sự mong manh của kiếp người nên tìm đến nương ẩn nơi Chúa và
Đức Mẹ. Nhờ những lời kinh Mân Côi hằng ngày, chị thấy bình tâm và an vui trong
cuộc sống.
Rồi cũng tới ngày Đức Hạnh lên đường nhập học, chị nhắn nhủ con
gái ở nơi xứ người phải cố gắng lo giữ đạo. Em hứa với mẹ:
- Mẹ yên tâm, con sẽ nhớ lời mẹ dặn.
Nhà càng vắng hơn khi chỉ còn lại có chị và con trai. Đức Hiền
đi học suốt ngày, mình chị ở nhà vừa trông tiệm tạp hóa, vừa lần chuỗi kính Đức
Mẹ để cầu nguyện cho các con.
Thời gian chầm chậm trôi qua, mới đó mà đã đến ngày giỗ đầu của
anh Đức Trọng chồng chị. Nhân tiện, chị Thanh Loan mời anh chị Hưng Thịnh đến
bàn chuyện, chị định xin rút lại một phần vốn để làm việc kinh doanh. Nào ngờ,
họ tuyên bố một câu thẳng thừng:
- Ngày xưa, chồng chị hùn vốn mà không có giấy tờ giao kèo gì cả.
Bây giờ anh ấy mất rồi, công việc làm ăn cũng khó khăn nên coi như số lợi nhuận
từ trước đến giờ được trừ vào vốn, số còn lại khi nào có tiền chúng tôi sẽ hoàn
lại cho chị từ từ.
Quá bất ngờ trước sự tráo trở của họ, chị Thanh Loan bị suy sụp
và mất ngủ cả tuần. Trong cơn giận dỗi và bất an, chị định làm lớn chuyện, vì
những cổ đông kia cũng là bạn bè của chồng chị. Nhưng khi đang bấm điện thoại định
nhờ người giúp thưa kiện, chị chợt thấy vòng chuỗi đeo ở cổ tay, chị liền buông
điện thoại xuống và tháo chuỗi ra lần hạt xin Đức Mẹ cứu giúp. Nhờ Mẹ ban ơn,
chị dần lấy lại sự bình tĩnh để giải quyết vấn đề. Chị tự nhủ: “Thôi thì, của
đi thay người. Có gì quan trọng đâu mà phải tiếc nuối, giận dữ cho phát bệnh chứ!
Đến khi nhắm mắt xuôi tay đâu có ai mang theo được gì. Nếu thưa kiện này nọ chỉ
tội tốn kém và thêm gây thù chuốc oán mà thôi. Lòng người thay trắng đổi đen là
lẽ thường tình, mình thiếu khôn ngoan khi làm ăn với họ thì lấy đó làm bài học
cho lần sau”. Chị an tâm kính cẩn cầm chuỗi hạt Mân Côi nguyện cầu và thấy tâm
hồn tìm được sự bình an thư thái trong ơn phúc lành của Chúa và Mẹ ban cho.
Sau biền cố đó, Chị Thanh Loan càng thêm xác tín vào ơn trợ lực
của Chúa và Đức Mẹ. Chị tham gia vào hội Legio để kính mến Đức Mẹ hơn. Chị càng
sống tin tưởng phó thác vào Chúa thì càng thấy bình an, thanh thản trong tâm hồn.
Hai đứa con chị vẫn mạnh khỏe, ngoan hiền; chúng là niềm vui và nguồn an ủi cho
cuộc sống của chị.
Thời gian thấm thoát trôi, Đức Hiền đã ra trường và có việc làm
phù hợp với chuyên môn đã học. Chị Thanh Loan nhận ra điều đó là ân ban của
Chúa và Đức Mẹ nên đã xin một lễ tạ ơn. Chị chỉ còn lo cho Đức Hạnh, phải hai
năm nữa cháu mới ra trường.
***
Nhưng cuộc đời không luôn bằng phẳng, êm ả như ta mong ước. Nửa
đêm đang an giấc mộng lành, điện thoại di động báo chuông liên hồi, chị Thanh
Loan giật mình thức giấc vội cầm máy nghe:
- “Hello Tu Đuc Hanh is mother…!!”.
Có chuyện gấp nên sáng ra chị bốc vé bay gấp qua Singapore với
con gái đang trong bệnh viện. Khi đi, chị không quên chuỗi hạt Mân Côi quàng cổ
như có Đức Mẹ luôn đồng hành, chở che. Chị luôn xác tín, trên mọi nẻo đường Mẹ
sẽ luôn gìn giữ chị an bình và gặp nhiều quý nhân giúp đỡ tận tình. Quả thật,
khi ta tin tưởng vào Chúa và Đức Mẹ, thì sẽ luôn sự quan phòng đỡ nâng, có khi
là những điều tốt đẹp ngoài sự mong đợi của ta.
Từ khi ra khỏi nhà, chị luôn thầm thĩ lần chuỗi, xin Đức Mẹ cùng
đồng hành với chị. Ngồi bên cạnh chị trên máy bay là một người Tin Lành, nhỏ
hơn chị bảy tuổi. Anh tên Trọng Nhân, là thành viên của một công ty liên doanh
giữa Việt Nam và Singapore, anh sang bên đấy dự cuộc họp quan trọng của công
ty. Biết chị là người Công Giáo, anh tỏ ra rất thân thiện, vui vẻ. Thấy anh là
người tốt, lại có hiểu biết và đồng cảm nên chị cũng cởi mở:
- Do con gái tôi mê học quá, căng thẳng cạnh tranh nơi xứ người
nên bị stress khá nặng, đến nỗi không nhớ cách đường đi đúng luật, đã bị cảnh
sát bắt vô bệnh viện.
Trọng Nhân trấn an chị:
- Chẳng phải một mình con chị bị như vậy đâu, có khi không phải
do cháu ham học, nhưng đó là quy chế của nhà tài trợ. Các học sinh được cấp học
bổng đòi buộc tiêu chí học lực luôn phải cao hơn so với các du học sinh tự túc
chị ạ.
- Thảo nào! Hai bạn cùng lớp với con gái tôi, năm trước cũng phải
về Việt Nam xả stress, lưu điểm một năm mới khỏe lại để học tiếp. Sao mà gian
nan thế? Thật, tôi chẳng ham chút nào.
- Tội nghiệp các em du học sinh lắm chị ạ, ít nhiều gì cũng
không thoát khỏi stress trong một giai đoạn nào đó. Đến nỗi có vài trường hợp tự
tử, khi người thân không biết nâng đỡ tinh thần kịp thời. Thật vô cùng đáng tiếc.
Cầu mong sao các bạn trẻ biết giải tỏa stress trong niềm tin Tôn Giáo và có những
người phụ trách giỏi, biết hướng dẫn đúng theo tâm lý…, để cứu vãn nhiều tài
năng trẻ cho tương lai.
Trọng Nhân còn trao đổi với chị nhiều vấn đề khác cách vui tươi,
khiến chị quên đi nỗi lo trong lòng. Khi xuống sân bay, chị Thanh Loan định đón
tắc xi đến bệnh viện như đã được hướng dẫn. Nhưng không ngờ khi Trọng Nhân gặp
anh đồng nghiệp người Singapore và kể cho anh nghe trường hợp của chị, anh ta
liền đồng ý đưa chị đi, vì anh có người bạn làm bác sĩ tâm lý ở bệnh viện đó.
Anh còn ghi mấy chữ cho bạn của anh, nhờ anh giúp chữa trị cho con của chị. Cả
anh này và vị bác sĩ kia cũng là người Tin Lành.
Chị Thanh Loan rất cảm động khi gặp được những người tốt giúp đỡ
cách tận tình. Chị thầm cám ơn Chúa và Đức Mẹ đã an bài cho chị cách tuyệt vời.
Chị nghe rất ấm lòng khi cảm nhận được tình Chúa, tình người; dù chị và họ không
quen biết, không cùng ngôn ngữ và không cùng tôn giáo…
Vì anh người Singapore phải bận việc, không thể lên gặp người bạn
bác sị được, nhưng anh đã gọi điện thoại trao đổi với bạn về vấn đề của con chị.
Lúc đến cổng bệnh viện, chị Thanh Loan cám ơn họ rối rít, cả hai người cùng nói
với chị:
- Chị đừng như thế! Chúng tôi chỉ sống theo lời dạy của
Chúa thôi. Vì chúng ta là anh chị em của
nhau, cùng là con của Đức Chúa Trời và Đấng Cứu Thế Giêsu đã cứu độ chúng ta.
Chị Thanh Loan rất cảm phục
lòng bác ái và tinh thần sống đạo của hai anh Tin Lành này. Đức tin của chị như
được tăng thêm qua cuộc gặp gỡ vừa rồi; đồng thời chị cũng tự vấn về cách sống
đạo của mình.
***
Từ trước đến nay chị Thanh Loan chỉ nghe nói:
Singapore là một trong những đất nước sạch đẹp và văn minh, giờ đến nơi và chứng
kiến tận mắt chị thấy quả đúng như vậy. Suốt chặng đường từ sân bay đến bệnh viện,
xe chạy hơn ba mươi phút mà chị không thấy một miếng rác nào trên đường phố. Những
cây kiểng và bồn cỏ hai bên đường được cắt tỉa gọn đẹp. Những con đường giao
thông đa phần là đường một chiều nên không thấy kẹt xe. Đường rộng, lưu lượng
giao thông nhiều nhưng rất trật tự, mỗi loại xe đều đi đúng làn đường và tốc độ
đã quy định.
Đường phố đã sạch đẹp,
trong bệnh viện còn sạch đẹp hơn. Từ khuôn viên bên ngoài cho đến phòng ốc bên
trong, tất cả đều được thu dọn, sắp xếp tinh tươm. Các nhân viên của bệnh viện
phục vụ cách vui vẻ, tận tình. Chị bước vừa bước vào liền được tiếp đón ân cần
và khi chị đưa giấy báo của trường, là có người dẫn chị đến tận phòng bệnh của
con gái chị.
Thời gian ở bệnh viện, chị
Thanh Loan quan sát thấy người dân Singapore quả rất văn minh. Một hôm khi đang
đi dọc hành lang bệnh viện, chị thấy phía trước có em bé chừng ba tuổi đang được
mẹ dắt đi, trên tay em cầm một nắm giấy bánh kẹo, đến chổ thùng rác em buông
tay mẹ ra, chạy lại bỏ rác vào thùng. Nhưng lúc đi, em bé cầm rác không chặt
làm rơi mấy miếng nhỏ mà hai mẹ con không hay, cô y tá đi sau thấy vậy liền cúi
xuống nhặt những mảnh giấy đó bỏ vào thùng rác. Quả là một cử chỉ đẹp và văn
minh.
***
Cùng đồng hành với con gái
dạo quanh bệnh viện, thỉnh thoảng em lại bắt mẹ cùng đọc kinh cầu nguyện
trong mấy phút. Em nói:
- Chúa là trên hết rồi đến Đức Mẹ. Con yêu mến Đức Mẹ nhiều lắm
mẹ ạ.
Lúc khác, Đức Hạnh lại dặn chị:
- Trong thẻ con có nhiều tiền, nên mẹ lấy cho người nghèo nhiều
đi, ai cần thì cho hết đi…”. Bây giờ con không cần gì hết, con chỉ xin Chúa và
Đức Mẹ cho con khỏe lại thôi. Con nhức đầu vì phải học nhiều, không thích nữa
đâu…!
Có lúc con chị lại nhép miệng lẩm bẩm, nói năng bất thường làm
chị nghe nhói đau trong lòng. Chị càng cầu nguyện khẩn thiết hơn, xin Chúa và Đức
Mẹ cứu chữa cho con của chị. Thật tội nghiệp cho con gái, gia đình đâu dám mộng
cao, chỉ tại thấy con mê học từ thuở thiếu niên rồi được học bổng du học toàn
phần từ A đến Z nên phải chiều, dù chị rất lo cho con khi phải đi học xa nhà từ
năm lớp mười.
Nhờ sự chăm sóc ân cần của các y bác sĩ trong bệnh viện cũng như
sự giúp đỡ tận tình của bác sĩ tâm lý đạo Tin Lành, con gái chị Thanh Loan rất
nhanh bình phục. Chị cũng nhận ra đó là do ân ban của Ơn Trên. Bởi Đức Hạnh
trong lúc bệnh cũng luôn nhớ đến Chúa, Mẹ. Thật lạ lùng, các bác sĩ cũng ngạc
nhiên khi thấy con gái chị chỉ hơn ba tuần đã hoàn toàn bình phục. Lúc đầu, nhà
trường rất quan tâm khi nghe bác sĩ nói cháu bị stress nặng, cần về gia đình
thư giãn một thời gian…Nhưng khi thấy con chị chóng bình phục như vậy thì họ
cũng an tâm phần nào. Tuy nhiên, theo lời đề nghị của bác sĩ, nhà trường cũng đồng
ý cho cháu về gia đình nghỉ dưỡng, lưu điểm lại năm sau sang học tiếp. Nhờ có học
bổng toàn phần trong sáu năm nên cháu được ưu ái miễm phí tất cả. Chị hết lòng
tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, cùng cám ơn nhà trường về vấn đề này.
Lúc trở về, Chị Thanh
Loan ngồi trên máy bay bên cạnh con gái, nhìn vẻ mặt thanh thản, hồn nhiên của
con lúc ngủ làm chị thấy an lòng. Lần này, chị cảm nhận rất rõ sự quan phòng,
can thiệp của Chúa và Đức Mẹ trên cuộc đời và gia đình chị. Nhìn lại những biến
cố đã qua, chị nhận ra rằng: khi gặp những thất bại, đau khổ, bất trắc trong cuộc
sống, chị mới chạy đến kêu cầu với Chúa và Đức Mẹ cách thành tâm, tha thiết;
còn lúc được vui vẻ, hạnh phúc và những điều may lành ít khi chị nhớ đến Chúa,
Mẹ để tạ ơn các ngài. Dẫu là thế, nhưng chị luôn xác quyết: Chỉ có Chúa và Đức
Mẹ là điểm tựa vững chắc trong mọi cảnh huống của cuộc đời chị.