GIÁO PHẬN QUI NHƠN
BAN MỤC VỤ GIA ĐÌNH VÀ BAN MỤC VỤ VĂN HÓA

 

 

SỔ TAY
TÂN PHÚC ÂM HÓA
GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC

 

 


IMPRIMATUR

Qui Nhơn, ngày 01 tháng 12 năm 2013

X Matthêô Nguyễn Văn Khôi

Giám mục giáo phận Qui Nhơn

 

 

Tủ sách Nước Mặn 09

 


LỜI GIỚI THIỆU

 

 

Trong khung cảnh trước và sau ngày khai mạc Năm Đức Tin (11.10.2012), Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII tại Rôma, từ ngày 7 đến 28 tháng 10 năm 2012, với chủ đề: “Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”.

Tân Phúc-âm-hóa là rao giảng Tin Mừng bằng nhiệt tình mới, với những phương pháp mới và những cách diễn tả mới, cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Cuộc Tân Phúc-âm-hóa phải bắt đầu từ mỗi gia đình công giáo là Hội Thánh thu nhỏ, nhờ đó mỗi Kitô hữu tái khám phá và làm mới lại đức tin của mình, đổi mới cuộc sống theo tinh thần Phúc Âm, để có thể ra đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ khác một cách hăng say và có hiệu quả.

Vì thế, trong năm 2014 này, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi mọi người Công giáo Việt Nam cùng nhau phúc-âm-hóa đời sống gia đình và thúc đẩy các gia đình tham gia tích cực vào sứ vụ loan báo Tin Mừng.[1] Cũng trong năm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng đặc biệt về gia đình, từ ngày 5 đến 18 tháng 10, với chủ đề: “Các thách đố mục vụ của gia đình trong bối cảnh Tân Phúc-âm-hóa”.

Việc Tân Phúc-âm-hóa đòi buộc mỗi gia đình công giáo không những phải là những cộng đoàn cầu nguyện, phục vụ sự sống, mà còn phải gia tăng đức ái để trở thành những cộng đoàn yêu thương kiểu mẫu, trong đó mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa, và cuối cùng phải trở thành những cộng đoàn tham gia vào sứ vụ phúc-âm-hóa của Giáo Hội.[2]

Để giúp các gia đình công giáo thực hiện công cuộc Tân Phúc-âm-hóa, Ban Mục Vụ Gia Đình và Ban Mục Vụ Văn Hóa của Giáo Phận Qui Nhơn xin gửi đến các gia đình quyển SỔ TAY TÂN PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC gồm 2 phần. Phần I với tựa đề “Mối bận tâm hiện nay của Hội Thánh về gia đình”, gồm những văn bản hướng dẫn của các vị chủ chăn. Phần II với tựa đề “Một số chỉ dẫn thực hành”, gồm 54 đề tài cụ thể được biên soạn ngắn gọn dựa theo giáo huấn của Hội Thánh và được tập hợp thành 3 đề mục: “Gia đình giáo dục”, “Gia đình sống đạo” và “Gia đình truyền giáo”.

Tôi trân trọng giới thiệu quyển sổ tay này với các gia đình như một nỗ lực nhỏ bé nhằm giúp các gia đình thực hiện việc Tân Phúc-âm-hóa chính mình, để trở thành những cộng đoàn sống đức tin và truyền bá đức tin trong môi trường sống của mình.

 

              Qui Nhơn, Chúa nhật I Mùa Vọng, 01.12.2013

              X Matthêô Nguyễn Văn Khôi

              Giám mục giáo phận Qui Nhơn

 

 

 

 

 

PHẦN I
MỐI BẬN TÂM HIỆN NAY
CỦA HỘI THÁNH VỀ GIA ĐÌNH



 

THÔNG CÁO 
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
 
VỀ VIỆC TÔN KÍNH TỔ TIÊN

Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.

Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:

I. Giáo hội Công Giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc

1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-2-1946).

2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).

3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.

Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964)

Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông cáo này.

II. Thể thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est

1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.

Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.

2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.

Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).

3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.

Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.

Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.

Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965

Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492

§1 Người tín hữu không được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức của người không Công giáo.

§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh lợi.

 


QUYẾT NGHỊ
VỀ LỄ NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN

Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974, đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:

“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).

1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.

2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.

4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.

5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.

6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.

Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974

                   Ký tên:

- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế

- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho

- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long

- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ

- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang

- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột

- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn


THƯ CHUNG 2007
của HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
về GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

 

GIÁO DỤC HÔM NAY
XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI NGÀY MAI

 

Kính gửi: Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam.

 

LỜI MỞ

1. Từ Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lần thứ X tổ chức tại Toà Tổng Giám Mục Hà-nội từ 08 đến 12-10-2007, chúng tôi, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc 26 giáo phận Việt Nam, xin gửi lời chào thân ái và lời chúc bình an đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại. Đặc biệt, trong tình hiệp thông liên đới và lời cầu nguyện, chúng tôi bày tỏ niềm cảm thông và phân ưu sâu sắc đối với các thân nhân và nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ ngày 26-09-2007 và cơn bão số 5 (Lekima) ngày 02-10-2007.

2. Anh chị em thân mến,

Với các thư trước, chúng ta đã đào sâu việc thực hành đức tin qua phong cách sống mầu nhiệm Thánh Thể (2004), sống Lời Chúa (2005) và sống Đạo (2006). Tiếp tục theo đuổi định hướng đó và trong viễn ảnh chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm vào năm 2010, Thư Chung năm nay lấy giáo dục Kitô giáo làm chủ đề. Điều đó thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng và đặc biệt hơn nữa, tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đã đến lúc cần phải cương quyết nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.

3. Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn từ Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần.

I. NỀN TẢNG GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

Chúa Cha Và Công Trình Tạo Dựng

4. Công trình giáo dục Kitô giáo, trước khi là công khó của con người, đã là kế hoạch của Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, ban cho con người khả năng đạt tới chân lý và tự do (x. Hc 17, 3 &7), Thiên Chúa Cha đã định hướng công trình sáng tạo vũ trụ của Ngài bằng một đường lối sư phạm mềm dẻo phù hợp với lợi ích và thái độ đón nhận của con người. Thuở ban đầu, vì Dân Ngài chọn còn cứng lòng nên Thiên Chúa xem ra nghiêm khắc (x. Lv 26, 14-46; Đnl 28, 15-45), nhưng dần dà, từng bước một, Ngài tỏ cho họ thấy Ngài vẫn là một Thiên Chúa “thành tín trong mọi lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm” (Tv 144, 13b).

 

Chúa Con Và Tin Mừng Cứu Độ.

5. Đường lối sư phạm của Chúa Cha cốt là để chuẩn bị cho Chúa Con đến “dạy dỗ loài người mong chờ và đón nhận ơn cứu độ”. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định mình “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 6, 14). Muốn nắm bí quyết sự sống đích thật, con người phải đến thụ huấn tại trường học của Chúa Giêsu. Nhưng học nơi trường Chúa Giêsu không chỉ là học làm người theo nghĩa nhân bản mà còn là học “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

Chúa Thánh Thần Và Vai Trò Tác Thành.

6. Những con người đầu tiên xuất thân từ trường học của Chúa Giêsu là các tông đồ. Chúa Giêsu là thầy dạy nhưng chính Thánh Thần mới là Đấng tác động để giáo huấn của Chúa Giêsu, qua lời rao giảng của tông đồ, trở thành sức mạnh biến đổi tâm hồn người nghe. Nhờ Thánh Thần, Thánh Phaolô đã cảm thấy lời rao giảng của ngài được đón nhận 'như chính Lời Thiên Chúa' (x. 1 Thes 2,13). Ngài còn quả quyết: “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba, Cha ơi” (Rm 8,14-17).

Giáo Hội Và Sứ Mạng Giáo Dục.

7. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội sứ mạng lên đường dạy dỗ muôn dân. Từ đó, giáo dục trở thành sứ mạng gắn liền với sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng thế giới. Giáo Hội chính là người Mẹ “săn sóc toàn diện đời sống con người, kể cả đời sống trần thế, trong mức độ liên hệ với lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế Giáo Hội thông phần vào việc mở mang và phát huy nền giáo dục” (TN/GD, lời mở đầu). Sứ mạng của Giáo Hội là tạo điều kiện để mọi người đều được hưởng một nền giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 2).

Sứ mạng đó được thể hiện thế nào trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đó là vấn nạn cần phải đặt ra, nếu chúng ta muốn có những định hướng cụ thể cho sứ mạng giáo dục Kitô giáo của Giáo Hội Việt Nam.

II. HIỆN TÌNH GIÁO DỤC KITÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM

Những Dấu Hiệu Lạc Quan

8. Dù còn phải đối diện với vô vàn khó khăn của thời đại - cơn khủng hoảng về chân lý, về các giá trị đạo đức, chủ nghĩa tương đối - lãnh vực giáo dục hiện nay, trong môi trường xã hội cũng như Giáo Hội, đã được quan tâm hơn và đang có những chuyển biến tích cực. Về phía xã hội, hiện đang có nhiều nỗ lực lành mạnh hóa môi trường giáo dục, bài trừ bệnh thành tích và tiêu cực trong học hành thi cử. Về phía phụ huynh, không ít người sẵn sàng chắt chiu dành dụm từng đồng cho con cái ăn học. Những trung tâm luyện thi, lớp ngoại khóa mọc lên như nấm khắp nơi mà vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu học viên mỗi lúc một gia tăng.

9. Về phía người Công giáo, sự hiện diện của giới trẻ trong môi trường giáo dục xã hội đã phần nào được bình thường hóa: lý lịch Thiên Chúa Giáo không còn bị kỳ thị và phân loại như trước đây. Nhờ đó, số sinh viên Công giáo bậc đại học đã tăng lên đáng kể, ngay cả tại những miền thôn quê. Trong lãnh vực đức tin, các lớp giáo lý dự tòng và hôn nhân ngày càng đông học viên cho thấy giới trẻ Việt Nam ngày nay, ngược với trào lưu dửng dưng tôn giáo phương Tây, vẫn còn quí trọng những giá trị Kitô giáo.

10. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và tin học ngày càng được xử dụng rộng rãi hơn trong mọi lãnh vực xã hội, cũng đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hóa ngành giáo dục trong xã hội cũng như Giáo Hội.

Những Mối Quan Ngại

11. Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu lạc quan, cũng không thiếu những điều đáng quan ngại. Trước hết phải kể đến những lệch lạc trong quan niệm về giáo dục. Do ảnh hưởng của não trạng duy kinh tế, nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng. Vì phải chạy theo công ăn việc làm, người ta không còn dành thì giờ cho các cuộc sum họp đầm ấm gia đình, những bữa ăn đông đủ càng lúc càng hiếm hoi. Tương quan vợ chồng, cha mẹ, con cái vì thế mà mỗi lúc một lỏng lẻo suy yếu. Hậu quả là môi trường gia đình, vốn được mệnh danh là “mái ấm”, không còn nồng nàn tình cảm như xưa.

Chủ nghĩa khoa bảng cũng đang gây ra nguy cơ đưa gia đình vào thái độ háo danh. Bậc phụ huynh và ngay cả con cái, muốn có bằng cấp chủ yếu là để được nở mày nở mặt, để có công ăn việc làm tốt, mà quên đi rằng mục đích cao đẹp nhất của giáo dục là “ngày nay học tập ngày mai giúp đời”.

12. Điều cũng đáng quan ngại là bất cập trong phương cách giáo dục. Hình như người ta chỉ quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế mà coi nhẹ chiều kích phẩm cách làm người. Học sinh đến trường nghĩ đến đối phó với thi cử nhiều hơn là học làm người. Nhà trường quan tâm đến chỉ tiêu và kỳ tích nhiều hơn là đến sứ vụ xây dựng thực lực cho học sinh.

13. Chủ nghĩa giáo điều trong giảng dạy vẫn còn là một hiện tượng khá phổ biến. Thầy cô thường dạy cho học sinh cách sao chép nguyên mẫu kiến thức, ấn định những bài văn mẫu, làm bài theo đáp án mẫu nhiều hơn là huấn luyện họ biết sáng tạo, tìm tòi bằng chính nỗ lực riêng của mình.

14. Mặt trái của phương tiện truyền thông cũng là một trong những yếu tố tác hại giáo dục. Tuy góp phần thắp lên nhiều điểm sáng về những giá trị nhân bản, truyền thông cũng tạo cơ hội cho nhiều lạm dụng đáng tiếc. Vì thiếu ý thức, người sử dụng - phần lớn là giới trẻ - thay vì thận trọng gạn lọc để tiếp thu tinh hoa, lại sa vào cạm bẫy của những loại hình văn hóa phi đạo đức.

15. Trong lãnh vực đức tin, nhiều bậc phụ huynh công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thông truyền đức tin cho con cái, không tổ chức hoặc không lo lắng cho con em tham dự những lớp giáo lý tại giáo xứ.

Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng dạy chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền.

Những bất cập trên đây đòi chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng tinh thần Tin Mừng. Cụ thể là phải đề ra phương hướng để hành động cho Kitô hữu Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện nay.

III. ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC KITÔ GIÁO

16. Ý thức sứ mạng quan trọng đối với tương lai Giáo Hội và tiền đồ dân tộc, Giáo Hội Việt Nam muốn dấn thân trong sự nghiệp giáo dục để thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho mọi người cách hiệu quả và thiết thực hơn. Trong tinh thần đó, chúng tôi kêu gọi những người có trách nhiệm giáo dục và mọi Kitô hữu Việt Nam hãy chú trọng hơn nữa đến sứ mạng cao cả này, một sứ mạng mang nhiều đặc tính biệt loại so với nền giáo dục xã hội trần thế.

Một Sứ Mạng Mang Tính Phổ Cập.

17. Cũng như Đức Giêsu được sai đến với muôn dân (xem Lc 4,18-19), Giáo hội cũng có sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người (Mc 16,15), không phân biệt thành phần, đẳng cấp xã hội hay điều kiện kinh tế. Sứ mạng đó không phải chỉ là sứ mạng của riêng thành phần nào, nhưng bao trùm toàn thể Giáo Hội mọi nơi mọi thời, mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn (x. TH/KTHGD 1).

18. Sứ mạng đó bắt đầu bằng công cuộc nhập thế do công đồng Vatican II đề ra. Trước khi truyền đạt đức tin, Giáo Hội có sứ mạng “phục vụ lợi ích của xã hội trần thế và xây dựng một thế giới nhân đạo hơn” (TN/GD 3). Muốn vậy, Giáo Hội cần phải có chỗ đứng trong nền giáo dục của bất kỳ thể chế xã hội nào. Tại Việt Nam, điều đáng lạc quan là giáo dục, từ trước vẫn được coi là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước, nay đã được “xã hội hóa”. Theo định hướng đó, tư nhân, thậm chí người nước ngoài, có quyền mở trường tư thục.

19. Nhưng cũng đáng tiếc là đối với các tổ chức tôn giáo tại Việt nam, cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt: tôn giáo chỉ có quyền mở trường tư thục cấp mẫu giáo. Dù vẫn không ngừng nỗ lực làm tất cả những gì được phép để thể hiện sứ mệnh nhập thế, như mở lớp tình thương, lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo hoặc khuyết tật, Giáo Hội công giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt nam và, vì không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất đắc dĩ.

20. Trong lãnh vực đức tin, có lẽ hình ảnh đẹp nhất để diễn tả nét sinh động của nền giáo dục Kitô giáo là hình ảnh cành nho của Chúa Giêsu (x. Ga 15, 16). Hình ảnh đó đặc biệt rõ nét hơn trong hoạt động của các giáo lý viên. Họ giống như những cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa.

21. Theo nghĩa đó, mọi Kitô hữu chúng ta đều là giáo lý viên, bởi vì qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi tham gia vào một công trình giáo dục trong đó, theo lời Đức Gioan Phaolô II, “mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác” (TH/KTHGD 7). Học và dạy cũng là củng cố đức tin cho mình và cho anh chị em mình (x. Lc 22, 31-33). Bao lâu còn là phần tử của Giáo Hội lữ hành, chúng ta còn là học trò và còn là thầy dậy đức tin bằng chứng từ cuộc sống của chúng ta.

Các Đối Tượng Ưu Tiên

22. Tính phổ cập của nền giáo dục Kitô giáo một mặt không miễn trừ trách nhiệm cho bất kỳ ai, một mặt cũng đòi buộc Kitô hữu không được loại trừ bất kỳ đối tượng nào. Muốn thế, Kitô hữu cần quan tâm hơn đến những thành phần thường bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt, lãng quên: người thất học, trẻ em không có điều kiện đến trường, thành phần cô lập do mặc cảm hay bị kỳ thị. Chúa Giêsu khẳng định rằng sứ mệnh hàng đầu của Ngài là loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, lao tù, mù lòa, bị áp bức (Lc 4, 18ss).

23. Trong bối cảnh công nghiệp hóa của những xã hội đang phát triển, nghề nông thủ công truyền thống không còn đủ lợi tức nuôi sống người lao động, rất nhiều người trong họ không còn con đường nào khác hơn là trở thành di dân về thành thị tìm công ăn việc làm. Họ phải chịu bao nhiêu thứ thiếu thốn thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần trên đất khách quê người. Để có thể duy trì phần nào đời sống đức tin có nguy cơ bị công ăn việc làm vùi dập. Họ cần phải hòa mình vào bầu khí đạo đức của các giáo xứ nơi họ tạm cư. Cha xứ và giáo xứ địa phương cũng cần phải sẵn lòng nâng đỡ, chia sẻ, đón tiếp dân, tạo điều kiện để họ sớm hội nhập vào các sinh họat đạo đức và văn hóa nơi họ sinh sống. Lời Chúa và khung cảnh tình thân của giáo xứ là môi trường và là điều kiện cần thiết để an ủi và khích lệ đức tin của họ nơi Thiên Chúa, Đấng có đủ quyền năng biến cảnh sống tha hương của họ thành cuộc hành hương đầy ý nghĩa hướng về Quê Trời.

24. Thiếu nhi và giới trẻ cũng là những thành phần rất đáng quan tâm ở hàng ưu tiên. Thiếu nhi, những trang giấy trắng đang chờ in những hình ảnh tươi đẹp, cần phải được thụ hưởng một nền giáo dục chân chính về nội dung và hiệu quả về phương pháp, làm vốn liếng hành trang hữu ích cho suốt cuộc hành trình làm người và đức tin.

25. Giới trẻ, “tương lai của Giáo Hội và thế giới” (HT/VH 38), cần phải nhận được sự hướng dẫn tận tình từ các nhà giáo dục và các thế hệ đi trước để nhiệt huyết tuổi trẻ của họ thực sự được vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội và Giáo Hội.

Môi Trường Giáo Dục

26. Trách nhiệm giáo dục đức tin thuộc về mọi Kitô hữu. Tuy vậy, trong thực tế, các “nhà giáo” mới thực sự là những người được trao phó trách nhiệm giáo dục chuyên nghiệp. Đức Gioan Phaolô II trong Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân đã thiết tha kêu gọi các giáo viên đang giảng dạy tại các trường Công giáo hay không Công giáo tích cực làm nhân chứng cho Tin Mừng (x. TH/KTHGD 6). Như thế ngoài cuộc sống mẫu mực của một nhà giáo, họ còn là đại sứ của Đức Kitô nơi học đường bằng chính đời sống và lương tâm Kitô hữu. Mọi người sẽ nhìn thấy họ mà gặp được Thiên Chúa.

27. Đại chủng viện và Học viện Công giáo, những trung tâm giáo dục có hệ thống nhân sự và phương tiện đầy đủ nhất, phải đóng đúng vai trò của mình bằng việc “đào tạo những người sẽ đảm nhận công việc huấn luyện giáo dân” (x. TH/KTHGD 7). Các cơ sở này không những chỉ cung cấp cho Giáo Hội những thầy giáo, mà còn đào tạo các môn đệ của Chúa Giêsu. Mỗi học viên sẽ rời học viện vào một lúc nào đó khi mãn trường hay khi đi nhận một nhiệm vụ mới, nhưng không bao giờ rời trường học của Chúa Giêsu, vị Thầy muôn thuở của các nhà giáo dục đào tạo.

28. Gia đình là Giáo Hội tại gia, là trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Mọi thành viên của gia đình, ông bà, cha mẹ và các anh chị em sống đạo nhiệt thành làm thành truyền thống đức tin gia đình. Nơi đây, đức tin được truyền thụ qua những lời cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và qua những mẫu gương đức tin. Gia đình còn là “chiếc nôi của sự sống và tình yêu” (GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia đình cảm nghiệm tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp hình dung trước những mối tương quan liên vị trong xã hội.

29. Trong nền giáo dục Kitô giáo, gia đình không thể tách rời khỏi giáo xứ. Nếu tại gia đình, đức tin được truyền thụ bằng phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài học được giảng dạy ngay giữa thực tế. Tại giáo xứ, đức tin được thông truyền nhờ giảng giải và việc cử hành phụng vụ. Chính khi đối chiếu và đón nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu thương nhau và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng cố.

30. Với những lớp huấn giáo là những phương cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và huấn giáo cho các học viên chuẩn bị lãnh các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể hiện đức tin với các thành phần khác của cộng đòan và được tham dự cách ý thức vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích. Đó là những hình thức tham gia trực tiếp và hữu hiệu vào công trình giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 4).

31. Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là những môi trường không thể thiếu để giáo dục Kitô giáo được triển nở tòan vẹn và quân bình.

Tính Toàn Diện Của Giáo Dục Kitô Giáo

32. Là Mẹ và là Thầy, Giáo Hội Công giáo có bổn phận thông truyền cho mọi người, nhất là các Kitô hữu, một nền giáo dục toàn vẹn. Mục tiêu hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin. Giáo dục đức tin không chỉ là truyền lại cho tín hữu những định tín, nhưng còn giúp cho tín hữu sống đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể, vì 'đức tin không có việc làm là đức tin chết' (Gia. 2,17). Các tín hữu, nhờ được huấn luyện, sẽ trở thành men, thành muối và ánh sáng cho trần gian.

33. Vì con người là linh hồn nhập thể, khi giáo dục đức tin, Giáo Hội cũng nhằm đến giáo dục con người toàn diện để giúp họ nhận ra phẩm giá của mình. Khi ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình, Kitô hữu cũng nhận lấy sứ mạng để sẵn sàng lên đường loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cho người chưa tin và củng cố lòng tin của anh chị em mình. Phẩm giá Kitô hữu luôn là những bài học suốt đời còn tiếp tục, vì tín hữu mãi là khách hành hương. Phẩm giá ấy đang hình thành và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung. Cũng như sứ mạng tín hữu mãi mãi là được sai đi, tới cánh đồng lúa chín đang thiếu thợ gặt (x. Mt 9,37). Vấn đề giáo dục Kitô giáo ở đây hôm nay là quyết tâm bồi dưỡng phẩm giá để thực thi sứ mạng và càng biết thực thi sứ mạng, phẩm giá lại càng được củng cố hơn.

34. Con người sống trong xã hội không phải là một ốc đảo, nhưng liên đới với nhau trong niềm vui cũng như ưu sầu. Xã hội tính là một nét nổi bật của con người. Giáo dục Kitô giáo góp phần cổ võ tình liên đới, làm cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm đối với xã hội và công ích, cùng xây dựng một cuộc sống tốt đẹp an bình.

35. Luôn ý thức về sứ mạng làm chứng cho Chân lý, Giáo Hội của Đức Kitô trải qua mọi thời đại đã góp tiếng nói của mình qua những giáo huấn mang tính xã hội. Nhờ đó, Giáo Hội chia sẻ với nhân loại 'những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng' (x. GS 1). Với giáo huấn của mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Khi đưa ra những chủ trương và đường lối của mình trong lãnh vực xã hội, Giáo Hội thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình trước những trào lưu đi ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và đạo đức xã hội.

36. Giáo dục Kitô giáo còn nhấn mạnh việc huấn luyện lương tâm: Huấn luyện lương tâm không chỉ là giảng dạy cho nhau những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý nhưng còn là tập cho nhau hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Bởi vì “lương tâm là luật tự nhiên vốn phản ảnh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các nghĩa vụ căn bản của con người” (GHXH/GH 140), nên “lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân càng tránh được độc đoán, mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý” (GS 16). Khi có lương tâm ngay thẳng, con người sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phảm giá và sự sống con người hơn.

37. Sau hết, vì luôn là một sinh họat gắn liền với một không gian nhất định, giáo dục phải được liên kết với truyền thống văn hóa của không gian ấy. Đặt vấn đề giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam có nghĩa là đặt vấn đề phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam. Dân tộc chúng ta luôn tự hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống ấy nếu trong quá khứ đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh những danh nhân làm vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam.

38. Giáo dục là cả một công trình lâu dài không thể hoàn thành ngay. Tuy nhiên từng bước một, cần phải đưa ra những mục tiêu mũi nhọn cho từng giai đoạn. Đại hội năm nay đề ra phương hướng chấn chỉnh lại nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam, có nghĩa là phương hướng đó sẽ được thể hiện trong những năm tới. Cụ thể, chúng tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa hãy thực hiện ba bước sau đây:

- 2008: chấn chỉnh môi trường giáo dục gia đình công giáo.

- 2009: chấn chỉnh việc đào tạo giáo lý viên.

- 2010: chấn chỉnh cơ sở giáo dục các giáo xứ.

 

LỜI KẾT

39. Anh chị em thân mến,

Giáo dục Kitô giáo là công trình học và sống làm con người và làm con Chúa. Đây là trách nhiệm của mọi Kitô hữu mọi nơi mọi thời. Thế hệ trước có trách nhiệm chuyển giao đức tin cho thế hệ sau. Thế hệ sau tiếp nhận, củng cố và bàn giao cho thế hệ hậu sinh. Lịch sử là một cuộc hành trình qua đó Kitô hữu chia sẻ đức tin cho nhau dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.

Giáo dục Kitô giáo còn là một sứ mạng cấp bách. Sự thay đổi choáng ngợp của nền văn minh thời đại không cho phép chúng ta chần chừ trì hoãn, nếu không muốn bị đẩy vào nguy cơ tụt hậu. Hơn bao giờ hết phương châm mà chúng ta phải nêu cao là: “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai”.

Dưới sự bảo trợ của Mẹ La Vang, thánh Giuse, các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin mời anh chị em cùng chung vai gánh vác mọi phận vụ của công trình giáo dục Kitô giáo để, với đức tin sống động, Giáo Hội Việt Nam sẽ nỗ lực làm vinh danh Chúa hơn và góp phần xây dựng hạnh phúc cho mọi người.

Hiệp thông cùng anh chị em trong tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa.

Hà Nội ngày 12 tháng 10 năm 2007

X Phêrô Nguyễn Văn Nhơn X Giuse Ngô Quang Kiệt

Chủ tịch HĐGM/VN                   Tổng thư ký HĐGM/VN

 

THƯ CHUNG 2013
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
GỬI CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA

 

HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TẠI VIỆT NAM
VÀ CÔNG CUỘC TÂN PHÚC-ÂM-HÓA

 

Anh chị em thân mến,

“Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em” (x. 2Cr 13,13). Chúng tôi, các giám mục từ 26 giáo phận Việt Nam, quy tụ tại Trung Tâm Mục Vụ Sài Gòn để tham dự Đại hội lần thứ XII của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin cảm ơn anh chị em đã cầu nguyện nhiều cho chúng tôi để Đại hội diễn ra cách tốt đẹp và bình an. Nay Đại hội đã kết thúc, qua Thư Chung này, chúng tôi muốn chia sẻ với anh chị em những công việc đã làm trong Đại hội, cách riêng về sứ vụ Tân Phúc-Âm-hoá.

1. Bước vào Đại hội trong khung cảnh Năm Đức Tin, chúng tôi vui mừng được nghe biết về những hoa trái thiêng liêng nơi các tín hữu cũng như các cộng đoàn giáo xứ, giáo phận, dòng tu, đã tích cực học hỏi và nỗ lực canh tân đời sống đức tin. Các cuộc cử hành phụng vụ và sinh hoạt mục vụ đã giúp cho đức tin của mỗi người được thanh luyện, củng cố và đổi mới. Đồng thời, khi nghe biết về những khó khăn và thử thách mà một số cộng đoàn phải đối diện, chúng tôi hiểu rằng sống đức tin luôn luôn là một thách đố, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, người môn đệ Chúa Giêsu vẫn được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng yêu thương của Chúa, trở thành chất xúc tác cho việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống.

Ngoài ra, chúng tôi cũng lắng nghe và góp ý cho nhau về nhiều sinh hoạt và công việc của Hội Thánh tại Việt Nam , cách riêng là công trình xây dựng Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Đại hội cũng dành nhiều thời giờ cho việc bầu chọn Ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục cũng như các chủ tịch của các Ủy ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục trong nhiệm kỳ mới.

2. Giờ đây chúng tôi muốn chia sẻ với anh chị em về định hướng và chương trình mục vụ trong những năm tới. Trong ba năm qua (2010-2013), tất cả chúng ta đã cùng nhau học hỏi và sống ý nghĩa Giáo Hội: mầu nhiệm – hiệp thông – sứ vụ. Định hướng đó và tinh thần của Năm Đức Tin cần được tiếp nối bằng nỗ lực “Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”, cũng là chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII, diễn ra tại Rôma, từ ngày 7 – 28 tháng 10 năm 2012. Thật vậy, ánh sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên khuôn mặt các Kitô hữu và ánh sáng ấy phải lan đến những người khác, giống như từ ngọn nến phục sinh, vô vàn những ngọn nến khác được thắp lên trong Đêm Vọng Phục Sinh.[3]. Ngoài ra, chúng ta còn được nhắc nhở cách riêng về sứ mệnh đó trong năm nay, khi Hội Thánh tại Việt Nam kỷ niệm 25 năm tuyên phong 117 chứng nhân đức tin (19.06.1988 – 19.06.2013), là những hoa trái thánh thiện của công cuộc phúc-âm-hóa.

3. Mục tiêu của phúc-âm-hóa là dẫn mọi người vào cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó gặp gỡ Thiên Chúa Cha của Người, cũng là Cha của chúng ta, và để đời sống mình được biến đổi theo tinh thần Phúc Âm. Như thế, trước hết chính bản thân chúng ta phải được phúc-âm-hóa, phải củng cố và làm mới lại đức tin của mình, rồi mới có thể giúp những anh chị em đã xa rời đức tin tái khám phá vẻ đẹp và ánh sáng đức tin. Ngày nay, khi một số người chỉ còn là Kitô hữu trên danh nghĩa, chúng ta hãy sống cho đúng với ơn gọi Kitô hữu của mình trong niềm vui, hãy chiếu tỏa sức hấp dẫn của Tin Mừng cho những người chung quanh.

Phúc-âm-hóa là sứ vụ mang tính toàn diện, vì “ánh sáng đức tin không chỉ soi chiếu đời sống nội bộ của Hội Thánh hoặc chỉ để xây dựng thành đô vĩnh cửu trong thế giới mai sau, mà còn giúp chúng ta xây dựng xã hội hiện nay nhằm hướng tới một tương lai hi vọng”.[4] Chính Chúa Giêsu dạy chúng ta hướng đi này. Người đứng về phía những nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và những người bị gạt ra bên lề xã hội phải trở thành đòi hỏi thiết yếu trong sứ vụ phúc-âm-hóa.[5]

4“Tân Phúc-âm-hóa” không phải là rao giảng một Phúc Âm mới vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8), nhưng là “mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả”.[6] Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt, văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm.

Công cuộc Tân Phúc-âm-hóa đòi duyệt lại toàn bộ các sinh hoạt mục vụ ở tất cả mọi bình diện, nghĩa là phải thực hiện cuộc hoán cải từ trong tâm thức đến định hướng và phương pháp khi làm mục vụ. Từ kinh nghiệm của các nước đã có nhiều Kitô hữu bỏ đạo, nếu chúng ta không nhanh chóng thực hiện cuộc hoán cải mục vụ này, thì trong tương lai không xa, Hội Thánh tại Việt Nam cũng có thể rơi vào tình trạng băng giá của mùa đông đức tin như một số nơi trên thế giới.

Chương trình canh tân đời sống đức tin cần được lồng vào trong tổng thể của kế hoạch mục vụ mà Hội Đồng Giám Mục trình bày trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”. Thư Chung ấy là chương trình hành động của Hội Thánh tại Việt Nam trong nhiều năm. Dựa trên định hướng căn bản này, chúng tôi mời gọi anh chị em hãy cùng với chúng tôi thực hiện kế hoạch mục vụ kéo dài 3 năm (2014-2016):

– Năm 2014: Phúc-âm-hóa đời sống gia đình;

– Năm 2015: Phúc-âm-hóa đời sống giáo xứ và các cộng đoàn;

– Năm 2016: Phúc-âm-hóa đời sống xã hội.

5. Trong năm 2014 sắp tới, chúng ta hãy cùng nhau phúc-âm-hóa đời sống gia đình và thúc đẩy gia đình tham gia tích cực vào sứ vụ loan báo Tin Mừng. Hội Thánh được gọi là gia đình của Thiên Chúa và mỗi gia đình Kitô hữu được gọi là Hội Thánh tại gia. Việc canh tân Hội Thánh phải được bắt đầu từ mỗi gia đình, do đó, Hội Thánh đặc biệt quan tâm đến các gia đình. Cách cụ thể, mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã loan báo triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại lệ vào tháng 10 năm 2014 về “Những thách đố mục vụ đối với gia đình trong bối cảnh Phúc-âm-hoá”. Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 cũng nhấn mạnh: “Trước cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Hội Thánh nhận thấy cần phải tăng cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạtđộng quan trọng, nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận”.[7]

6. Để thực hiện những mục tiêu trên, xin anh chị em hãy xây dựng gia đình mình thành một cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin Mừng.

– Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, thờ phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia. Hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia đình trở thành lời kinh sống động. Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên đây là đòi hỏi quan trọng trong đời sống gia đình công giáo. Vì thế, cùng với việc siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết xin anh chị em duy trì giờ kinh chung trong gia đình, và cố gắng đưa Lời Chúa vào giờ kinh này.

Gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl  3,12-13).

– Gia đình là cộng đoàn phục vụ sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm, giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình.

– Gia đình là cộng đoàn tham gia vào sứ vụ phúc-âm-hóa, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng hành động cụ thể. Chính đời sống yêu thương hiệp nhất trong gia đình công giáo, ngay giữa những khó khăn và thử thách của cuộc đời, tự nó đã là lời chứng âm thầm nhưng có sức thuyết phục của Tin Mừng. Ngoài ra, theo truyền thống tốt đẹp, gia đình công giáo còn là nơi vun trồng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đồng thời, khi có thể, xin anh chị em hãy mạnh dạn chia sẻ và giới thiệu Đức Kitô cho người khác.

7. Để đồng hành với các gia đình trong sứ mệnh cao cả nói trên, chúng tôi đề nghị một số việc mục vụ sau:

Việc chuẩn bị cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình là đòi hỏi khẩn thiết hơn bao giờ hết. Các bạn trẻ cần ý thức và sống đời hôn nhân như một ơn gọi và sứ mệnh cao quý, được chọn lựa với ý thức, tự do và trách nhiệm. Đôi bạn Kitô hữu còn được mời gọi sống bí tích Hôn Phối như dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu của tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, một tình yêu phong nhiêu, duy nhất và bất khả phân ly. Để được như thế, cần có sự chuẩn bị xa, chuẩn bị gần, và chuẩn bị trực tiếp cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân

Trong bối cảnh có nhiều biến động về văn hóa-xã hội ngày nay, chúng tôi thiết nghĩ cần phải nhắc lại chân lý này: định chế gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Định chế này dựa trên bản tính con người, do chính Thiên Chúa thiết lập, hướng đến thiện ích của chính gia đình và xã hội; vì thế, mọi cá nhân và tập thể xã hội cần nhìn nhận và tôn trọng định chế này.

Đồng hành với các gia đình trẻ ngày nay là yêu cầu mục vụ quan trọng, để giúp họ sống tình yêu vợ chồng với tinh thần trách nhiệm, phục vụ sự sống, biết hòa hợp tình thương trong tổ ấm gia đình với trách nhiệm xây dựng Hội Thánh, xã hội và đất nước.

Với những anh chị em đang gặp khó khăn vì hôn nhân đổ vỡ và gia đình ly tán, một đàng chúng ta vẫn phải nêu cao lý tưởng đời sống hôn nhân công giáo, đàng khác phải đồng hành và nâng đỡ họ, thay vì bày tỏ thái độ lên án và loại trừ.

Hiện nay, có nhiều nhóm, hiệp hội, phong trào tu đức và tông đồ đang dấn thân chăm lo mục vụ gia đình theo những cách thế và mức độ khác nhau. Những phong trào này cần được các mục tử đồng hành và hướng dẫn, nâng đỡ và khích lệ, để họ góp phần cách cụ thể và hài hòa với chương trình mục vụ chung trong mỗi giáo xứ, giáo phận.

Các giáo phận nên quan tâm đến việc đào tạo giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân chuyên trách mục vụ gia đình. Những người này sẽ cộng tác với các giám mục giáo phận trong việc xây dựng và triển khai những chương trình mục vụ gia đình trong giáo phận cũng như giáo xứ. Chúng tôi cũng muốn gửi lời kêu gọi đặc biệt đến anh chị em văn nghệ sĩ và giới truyền thông công giáo. Ước mong anh chị em vận dụng tài năng Thiên Chúa ban, để tôn vinh vẻ đẹp đích thực của tình yêu hôn nhân và gia đình. Các linh mục tương lai cũng cần được chuẩn bị chu đáo hơn về mục vụ gia đình, để có thể đồng hành với các gia đình cách hữu hiệu.

 Anh chị em thân mến,

Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ với anh chị em những thao thức mục vụ cũng như những đề nghị cụ thể, nhằm góp phần vào nỗ lực “Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”. Ước mong những đề nghị này được anh chị em - cách riêng, các linh mục là những cộng tác viên gần gũi của hàng giám mục - đón nhận để cầu nguyện, suy nghĩ, khai triển và thực hiện ở nhiều cấp độ: gia đình, giáo xứ, giáo phận. Hướng về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những tấm gương sáng ngời trong sứ mệnh phúc-âm-hóa, chúng ta hãy thân thưa với các ngài:

Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con thảo của Cha trên trời, là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô, là thành phần trung kiên của Hội Thánh, xin giúp chúng con biết trân trọng di sản đức tin mà các ngài đã truyền lại cho chúng con bằng máu và nước mắt. Xin cho chúng con mạnh dạn sống đức tin trong gia đình cũng như xã hội, theo tấm gương xán lạn của Thánh Gia Thất, để chiếu tỏa ánh sáng đức tin khắp nơi nơi; nhờ đó chúng con có thể tích cực góp phần thi hành sứ mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào trên quê hương Việt Nam thân yêu.

Làm tại Trung tâm Mục vụ Sài Gòn, ngày 10-10-2013

+ Cosma Hoàng Văn Đạt       + Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Giám mục Bắc Ninh              Tổng giám mục Hà Nội

Tổng thư ký HĐGM.VN         Chủ tịch HĐGM.VN

(đã ký)                                     (đã ký)


THƯỢNG HỘI ĐỒNG ĐẶC BIỆT
VỀ GIA ĐÌNH

 

Tháng Mười 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình trong các ngày 5-18 tháng Mười, năm 2014 với chủ đề “Các Thách Đố Mục Vụ Của Gia Đình Trong Bối Cảnh Tân Phúc Âm Hóa”. 

Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một buổi họp báo đã được tổ chức tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, cho hay: để chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng vào năm tới, cuộc họp lần thứ năm của Hội Đồng Thượng Hội Đồng Thường Lệ đã diễn ra trong các ngày 7-8 tháng Mười vừa qua để đưa ra Tài Liệu Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một trình bày tổng quát về chủ đề, các trích dẫn thánh kinh và huấn quyền về chủ đề, và một bản câu hỏi về các thách đố chính của gia đình hiện đại. Sau đây là nguyên văn Tài Liệu Chuẩn Bị.

I. Thượng Hội Đồng: Gia đình và việc phúc âm hóa

Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, được Chúa trực tiếp ủy thác cho các môn đệ của Người, vẫn tiếp diễn trong Giáo Hội trong suốt giòng lịch sử. Cuộc khủng hoảng xã hội và tâm linh, hết sức hiển nhiên trong thế giới ngày nay, đang trở thành một thách đố mục vụ trong sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội liên quan tới gia đình, vốn là viên đá sinh tử xây dựng nên xã hội và cộng đồng Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc công bố Tin Mừng về gia đình trong bối cảnh này đã khẩn trương và cần thiết hơn. Sự quan trọng của chủ đề này được phản ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục; Thượng Hội Đồng này sẽ là một hành trình gồm hai giai đoạn: đầu tiên, một Phiên Khoáng Đại Đặc Biệt trong năm 2014, nhằm xác định “status quaestionis” (tình huống của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và đề nghị của các giám mục trong việc công bố và sống thực Tin Mừng Gia Đình một cách khả tín; thứ hai, một Phiên Khoáng Đại Thường Lệ trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ dẫn có thể áp dụng được trong lãnh vực chăm sóc mục vụ cho các con người và gia đình.

Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những năm gần đây nay đã xuất hiện do hậu quả của nhiều tình huống khác nhau, từ tập tục sống chung khá phổ biến mà không dẫn tới hôn nhân, đôi khi còn loại bỏ cả ý niệm hôn nhân nữa, cho tới các cuộc kết hợp đồng tính giữa những người thường được phép nhận con nuôi. Các tình huống mới đòi Giáo Hội phải chú tâm và chăm sóc mục vụ là những tình huống này: các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia đình có cha hoặc mẹ đơn lẻ; đa thê; hôn nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi môn đôi khi bị hiểu như giá mua người đàn bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi cam kết và giả thiết rằng dây hôn phối chỉ có tính tạm thời; các hình thức duy nữ phản Giáo Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với chính ý niệm gia đình; chủ nghĩa đa nguyên duy tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng truyền thông đối với nền văn hóa bình dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống gia đình; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ giá ý niệm vĩnh viễn và lòng trung thành của giao ước hôn nhân; gia tăng tập tục làm mẹ mướn (surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích mới lạ về điều được coi là nhân quyền. Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu cho thấy đức tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh hàn gắn của Bí Tích Sám Hối càng ngày càng yếu đi hoặc hoàn toàn bị loại bỏ. 

Thành thử, ta hiểu được tính khẩn trương của việc mời gọi hàng giám mục thế giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới quyền Phêrô) để bàn thảo các thách đố này. Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do tình huống hiện nay, rất nhiều trẻ em và người trẻ sẽ không bao giờ được thấy cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, là đủ để ta hiểu các thách đố đối với việc phúc âm hóa do tình huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế nào; ta có thể nhận thấy những thách đố này ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với thực trạng này, ta thấy đại đa số hiện nay chấp nhận giáo huấn lòng thương xót Chúa và sự quan tâm đối với người đau khổ, đang đứng bền lề xã hội, cả theo nghĩa địa dư lẫn nghĩa hiện sinh. Thành thử, đại đa số đang mong chờ các quyết định mục vụ sẽ được đưa ra liên quan tới gia đình. Ngoài tính cần thiết và khẩn trương ra, sự suy tư về các vấn đề này của Thượng Hội Đồng Giám Mục còn được coi như một bổn phận đức bác ái đối với những ai được trao phó cho các giám mục coi sóc và đối với toàn thể gia đình nhân loại. 

II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đình

Tin vui tình thương Thiên Chúa phải được công bố cho mọi người đang đích thân sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng là lứa đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân con cái, tức cộng đồng gia đình. Các giáo huấn đức tin về gia đình phải được trình bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để chúng tới được các tâm hồn và biến đổi chúng theo thánh ý Thiên Chúa, một thánh ý vốn được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu Kitô. 

Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn nhân và gia đình, tài liệu này chỉ trích dẫn các tham chiếu chủ yếu. Điều này cũng đúng đối với việc trích dẫn Huấn Quyền: chỉ trích dẫn các điều có tính phổ quát, trong đó có thêm một số bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình. Các giám mục tham dự Thượng Hội Đồng được tự do trích dẫn các tài liệu từ các hội đồng giám mục của các ngài. 

Ở mọi thời và trong nhiều nền văn hóa khác nhau, không thiếu giáo huấn rõ ràng của các mục tử cũng như các chứng từ cụ thể của tín hữu nam nữ, những người bất chấp các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống Tin Mừng Gia Đình như một hồng phúc khôn sánh đối với đời họ và con cái họ. Cam kết của Thượng Hội Đồng Đặc Biệt sắp tới được gợi hứng và nâng đỡ bởi ý muốn thông truyền sứ điệp này một cách mạnh mẽ hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải, vốn được ủy thác cho Giáo Hội, mỗi ngày mỗi tràn ngập tâm hồn từng người hơn” (Dei Verbum, số 26). 

Kế hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc

Vẻ đẹp của sứ điệp Thánh Kinh về gia đình bắt nguồn từ việc dựng nên người đàn ông và người đàn bà, cả hai giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1,24-31; 2,4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi dây bí tích bất khả tiêu, những người kết hôn cảm nghiệm được cái đẹp của tình yêu, tình cha, tình mẹ, và phẩm giá tối cao của việc nhờ cách này, được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. 

Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc kết hợp của mình, họ đảm nhận trách nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục những con người khác cho tương lai nhân loại. Nhờ việc sinh sản, người đàn ông và người đàn bà chu toàn trong đức tin ơn gọi trở thành người cộng tác của Thiên Chúa trong việc bảo vệ công trình sáng tạo và phát triển gia đình nhân loại.

Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận định về khía cạnh này trong Familiaris consortio như sau: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh và họa ảnh Người (xem St 1,26-27), khi mời gọi họ bước vào hiện hữu qua ngả yêu thương, Người cũng đồng thời kêu gọi họ hướng về yêu thương. Thiên Chúa là yêu thương (xem 1Ga 4,8) và chính nơi Người, Người vẫn sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương đầy tính bản vị. Khi tạo nên nhân loại giống hình ảnh Người và liên tục duy trì họ hiện hữu, Thiên Chúa đã ghi khắc nơi nhân tính người nam và người n ơn gọi, và do đó cả khả năng và trách nhiệm, yêu thương và hiệp thông (Gaudium et spes, số 12). Do đó, yêu thương là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi người” (Tông huấn Gia đình, số 11). 

Kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, một kế hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại (xem St 3,1-24), đã tự vén mở qua dòng lịch sử trong các biến cố của dân riêng cho tới tận thời viên mãn, lúc mà nhờ Con Thiên Chúa nhập thể, không những ý muốn cứu vớt của Thiên Chúa mà cả ơn cứu chuộc đem lại ơn thánh theo thánh ý ấy đều được xác nhận.

Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm (xem Ga 1,14) trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh, đã sống và lớn lên trong gia đình Nadarét và tham dự tiệc cưới tại Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của lễ hội bằng “dấu lạ” đầu tiên (xem Ga 2,1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh việc tiếp rước Người trong gia đình các môn đệ Người (xem Mc 1,29-31; 2,13-17) và an ủi gia đình bằng hữu của Người đang gặp tang chế tại Bêtania (xem Mc 10,38-42; Ga 11,1-44). Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ đẹp của hôn nhân, vì một lần nữa, Người đề xuất kế hoạch của Thiên Chúa từng bị bỏ ngang vì sự cứng lòng của trái tim con người, ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5,31-32; 19,3-12; Mc 10,1-12; Lc 16,18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu dạy ta sự đơn nhất và lòng trung thành của vợ chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại tình. 

Chính qua vẻ đẹp phi thường của tình yêu nhân bản, vốn được đề cao bằng âm sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối do các tiên tri như Hôsê (xem Hs 1,2; 3,3) và Malaki (xem Ml 2,13-16) kêu gọi và bảo vệ, Chúa Giêsu đã xác quyết phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân nơi người đàn ông và người đàn bà. 

Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình

Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi, gia đình đã xuất hiện như một “Giáo Hội tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, số 1655): Trong các điều gọi là “qui luật về gia đình” (family canons) của các thư Tân Ước, gia đình trong thế giới cổ thời được nhận diện như là nơi diễn ra sự liên đới sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, và giữa người giầu và người nghèo (xem Ep 5,21-6:9; Cl 3,18-4,1; 1Tm 2,8-15; Tt 2,1-10; 1Pr 2,13-3,7; xem thêm Thư Philêmôn). Cách riêng, thư Êphêsô nhìn nhận tình yêu phu thê giữa một người nam và một người nữ là “một mầu nhiệm lớn”, vì đã biến tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện thực (xem Ep 5,31-32). 

Trong nhiều thế kỷ, nhất là từ thời cận đại cho tới nay, Giáo Hội đã đưa ra một giáo huấn liên tục và tiệm tiến về gia đình và hôn nhân là định chế vốn làm nền cho nó. Một trong các phát biểu đáng lưu ý nhất đã được Công Đồng Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes; hiến chế này, khi bàn tới một số vấn đề khẩn trương, đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đình, như được thấy trong đoạn mô tả các giá trị của chúng đối với việc tạo lập xã hội: “gia đình, nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ giúp nhau đạt được sự khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp được các quyền lợi bản thân với các đòi hỏi khác của đời sống xã hội, đã tạo nên nền tảng cho xã hội” (GS, số 52). 

Điều đặc biệt đáng lưu ý là lời kêu gọi của nó đối với một nền linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức tin của vợ chồng: “Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng phẩm giá nhân vị chân chính, vợ chồng hãy kết hợp với nhau trong cùng một tình âu yếm, trong cùng một tư duy và trong cùng một sự thánh thiện hỗ tương, ngõ hầu, theo gương Chúa Kitô, Đấng vốn là nguyên lý của sự sống, vợ chồng có thể nhờ các hân hoan và hy sinh trong ơn gọi của mình, nhờ lòng trung tín trong tình yêu của mình, mà trở nên các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà Chúa đã tỏ lộ cho thế giới qua cái chết và sự sống lại của Người” (GS, số 52).

Sau Công Đồng Vatican II, các vị kế nhiệm Thánh Phêrô cũng đã dùng huấn quyền của các ngài mà phong phú hóa giáo huấn về hôn nhân và gia đình, nhất là Đức GH Phaolô VI với thông điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra các giáo huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn hướng dẫn. Sau đó, trong Tông Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn nhấn mạnh tới việc đề xuất kế hoạch Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về nguồn gốc tình yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc tự hiến theo nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành khả hữu chính là hôn nhân, tức giao ước tình yêu hay sự lựa chọn có ý thức và tự do qua đó, người đàn ông và người đàn bà chấp nhận cộng đồng sự sống và tình yêu đầy thân ái, vốn được chính Thiên Chúa mong muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng chỉ biểu lộ được ý nghĩa chân thực của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế hôn nhân không phải là một can thiệp không nên có của xã hội hay của một thẩm quyền nào đó, cũng không phải là việc áp đặt một hình thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là một đòi hỏi nội tại của giao ước yêu thương phu phụ, một giao ước được công khai xác nhận là duy nhất và độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối trung thành với nhau theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa Công. Tự do bản vị, thay vì bị lòng trung thành này giới hạn, thực ra đã được che chở khỏi mọi hình thức duy chủ quan hay duy tương đối, để trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan sáng thế” (Tông huấn Gia đình 11).

Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo đã gom lại một nơi các khía cạnh căn bản của giáo huấn này: “Giao ước hôn nhân, qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà thành lập với nhau một cộng đồng thân mật sống và yêu thương nhau, đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và ban cho những luật lệ riêng biệt. Do chính bản chất của nó, giao ước này được sắp đặt cho thiện ích của vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa những người đã rửa tội lên hàng một bí tích” [xem Công Đồng Vatican II, Gaudium et spes, số 48; Bộ Giáo Luật, số 1055,1]” (Sách GLCGHCG, 1660).

Học thuyết trình bày trong Sách Giáo Lý này xem xét cả các nguyên tắc thần học lẫn các tác phong luân lý, được khai triển dưới hai đầu đề riêng biệt: Bí Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và Điều Răn Thứ Sáu (các số 2331-2391). Đọc cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lý, ta sẽ có được một cách hiểu cập nhật về học thuyết của đức tin, để hỗ trợ hành động của Giáo Hội trước các thách đố hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội được gợi hứng từ sự thật về hôn nhân, một sự thật được xem sét dưới ánh sáng kế sách Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng, vào thời viên mãn, đã mạc khải nơi Chúa Giêsu tính tròn đầy của tình yêu vợ chồng, lúc được nâng lên hàng bí tích. Đặt cơ cở trên sự ưng thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban cho nhiều hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ chồng. Nhưng, hôn nhân không được miễn nhiễm khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3,1-24), một việc có thể gây ra những vết thương sâu xa, thậm chí còn hạ thấp cả phẩm giá của bí tích nữa. 

Thông điệp mới đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh sáng đức tin - LF) có đề cập tới gia đình trong bối cảnh một suy tư về việc đức tin cho ta biết “các sợi dây nối kết người ta lại với nhau bền vững ra sao khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ” (LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên trong đó đức tin soi sáng cho kinh thành con người là gia đình. Tôi nghĩ trước hết và đầu hết tới sự kết hợp bền vững giữa một người đàn ông và một người đàn bà trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ tình yêu của họ, như là dấu chỉ và là sự hiện diện của chính tình yêu Thiên Chúa, và phát sinh từ việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt hóa giới tính, nhờ đó, các người phối ngẫu có thể trở nên một thân xác (xem St 2,24), và có khả năng sinh ra một sự sống mới, vốn là điều nói lên sự tốt lành, khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở trên tình yêu này, người đàn ông và người đàn bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử chỉ vận dụng được trọn cả đời họ và phản ảnh được nhiều đặc điểm của đức tin. Thề hứa yêu thương nhau mãi mãi chỉ có thể có khi ta nhận thức được một kế hoạch lớn hơn chính các dự án của ta, một kế hoạch nâng đỡ ta và giúp ta khả năng trao phó trọn tương lai ta cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức được tiếng gọi kỳ diệu, tức lời mời gọi của tình yêu. Nó bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin tưởng và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn sự yếu đuối của ta” (LF, số 53). 


 

 

 

 

 

 

PHẦN II
MỘT SỐ CHỈ DẪN THỰC HÀNH


I. GIA ĐÌNH GIÁO DỤC


.01

GIÁO DỤC TỪ TRONG BÀO THAI

 

Theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình, vì chính định chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng đều quy hướng về việc truyền sinh và giáo dục con cái, làm nên triều thiên cho định chế và tình yêu ấy.

Trong thực tế sâu xa nhất của nó, tình yêu vốn cốt yếu là ơn huệ. Và tình yêu vợ chồng, khi đưa đôi bạn đến chỗ “biết” nhau làm cho họ trở thành “một xác thịt”, nó không chấm dứt nơi hai người nhưng nó làm cho họ có khả năng thực hiện được việc trao hiến lớn lao nhất, nhờ đó họ trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống cho một nhân vị khác. Vì thế khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau thì cũng trao ban một hữu thể thực hữu vượt khỏi họ, tức là đứa con. Nó là dấu chỉ thường xuyên của sự hiệp nhất vợ chồng và là tổng hợp sống động, không thể phân chia của tư cách làm cha làm mẹ của họ. (Tông Huấn Gia Đình, số 14)

Người xưa nói: “Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn trong nôi.” Ngày nay người ta còn nhấn mạnh: “Dạy con từ thuở con còn trong thai”. Sự giáo dục này được gọi là thai giáo.

Ngay khi còn trong bào thai, em bé đã có thể tiếp nhận sự giáo dục của cha mẹ. Cuộc sống gia đình, sức khoẻ và tâm trạng người mẹ lúc ấy có ảnh hưởng rất lớn trên em bé, cả về sự phát triển thể chất và tâm thần đang lặng lẽ hình thành.

Các tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính đứa con sắp chào đời. Do đó những bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức lưu ý để sống thật lành mạnh về luân lý và tâm linh. Trong thời gian cưu mang, người mẹ cần tĩnh dưỡng, suy nghĩ về ơn gọi làm mẹ; cần có thái độ bình tĩnh, vui thích đợi chờ. Nên chiêm ngắm những hình ảnh tươi đẹp thánh thiện, chọn nghe nhạc êm dịu trong sáng, nghe và hát thánh ca, cầu nguyện trong tâm tình tin cậy phó thác. Dù con còn trong dạ, người mẹ cũng có thể vuốt ve và nói với con những lời ˆâu yếm dịu dàng. Người cha cần biết tạo điều kiện bên ngoài cho êm ấm để người mẹ luôn được an vui hạnh phúc.

Đừng đặt tên cho con cái cách tuỳ tiện. Hãy làm tuần chín ngày kính Đức Chúa Thánh Thần để biết Thiên Chúa muốn gì trên cháu bé và xin Ngài soi sáng để chọn cho cháu một tên gọi gói ghém được ước mơ của cha mẹ và cả của Thiên Chúa trên cuộc đời cháu. Hãy suy nghĩ để sớm chọn người đỡ đầu rửa tội cho cháu. Tốt nhất là chọn trong vòng thân hữu những gia đình cùng một chí hướng giáo dục.

Thời gian mang thai là thời gian khẳng định hướng đi căn bản cho cuộc đời cháu bé. Với anh chị em là những Kitô hữu, đó phải là hướng đi căn bản của người con cái Chúa. Chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng nên chúng ta chính là để chúng ta được hiệp nhất yêu thương với Ngài trong hạnh phúc đời đời. Mọi sự Thiên Chúa ban cho ta ở đời này đều nhằm giúp ta đạt tới mục tiêu cuối cùng ấy. Do đó, trong mọi sự, ta luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa và cho sự hiệp nhất với Ngài. Hễ điều gì còn giúp ta gần gũi Thiên Chúa thì ta đón nhận, một khi nó bắt đầu ngăn cản ta gần gũi Thiên Chúa, ta sẽ loại trừ ngay.

Cha mẹ thế nào, con cái thế ấy. Anh chị em muốn đào tạo con cái mình nên người thế nào, thì cứ cố gắng sống như thế ấy. Gương sáng của anh chị em sẽ khuôn đúc nên con cái của anh chị em.

Sau cùng, hãy đến với Đức Mẹ. Khi bà Êlizabét đang mang thai thì Mẹ Maria đến thăm. Đứa bé trong lòng bà đã nhảy mừng. Khi nó sinh ra, láng giềng kinh ngạc bảo nhau: “Con trẻ này rồi sẽ ra thế nào, vì có tay Chúa ở với nó” (Lc 1,66). Thánh Gioan Bosco nói: “Muốn cho trẻ nên người, hãy đưa chúng đến với Đức Mẹ”. Hãy đưa con cái đến với Mẹ Maria ngay khi chúng còn là bào thai trong lòng mẹ.

.02
GIÁO DỤC TRẺ SƠ SINH
[8]

Khi trở nên cha mẹ, đôi bạn cũng lãnh nhận nơi Thiên Chúa một quà tặng, đó là một trách nhiệm mới. Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được chính tình yêu của Thiên Chúa, “là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất” (Ep 3,15) (Tông Huấn Gia Đình, số 14).

 Về việc giáo dục các cháu từ mới sinh đến 3 tuổi, ta cần lưu ý những điểm sau đây:

1. Việc giáo dục của giai đoạn này tập trung nơi người mẹ: Đứa bé chưa phân biệt nó với ngoại vật, chưa phân biệt nó với mẹ. Mẹ với nó là một. Mẹ là sự an toàn, là sự dễ chịu cho nó. Thái độ tôn giáo của người mẹ trong giai đoạn này ảnh hưởng rất sâu đậm trên đức tin sau này của đứa bé, chuẩn bị hoặc cản trở đức tin của nó khi lớn. Vai trò của người cha lúc này là tạo sự thoải mái yên ấm cho người mẹ. Phải đợi khi đứa bé được hai tuổi, người cha mới có thể ảnh hưởng trực tiếp.

2. Vun trồng lòng tin cậy đầu tiên: Người mẹ cần chăm sóc con với niềm vui và tình thương chứ không như một bổn phận phải làm. Cần tỏ ra dịu dàng âu yếm, tránh nóng nảy, lạnh lùng. Lúc cho ăn, cần giúp cho cháu bé được thoả mãn, thích thú, không căng thẳng, sợ hãi.

3. Khuôn mẫu đầu tiên của em bé là người mẹ: Em bé bắt chước mẹ. Nếu người mẹ vui vẻ hài hoà với mọi người mọi vật và các biến chuyển của đời sống, sẽ tạo cho em bé một dấu ấn tin cậy, lạc quan, bác ái, về sau em sẽ cởi mở với mọi người; còn ngược lại, em sẽ bi quan, khép kín.

4. Nhận biết tình thương có uy quyền: Tròn một tuổi, em bé khám phá ra rằng nó có thể làm hài lòng hay làm mất lòng mẹ; nó phải hoà hợp với mọi người, nhất là với mẹ. Nó tìm cách giữ được tình yêu thương của mẹ, vì đó là tất cả sự yên nguy của nó. Tình yêu thương trong uy quyền làm cho em bé lớn lên trong lòng trông cậy.

 

5. Kỷ luật đầu tiên: Tình thương của người mẹ phải bao gồm một kỷ luật cần cho sự giáo dục. Cần có giờ giấc và điều độ trong việc ăn, ngủ, đi vệ sinh. Không nên thoả mãn hết mọi ao ước của đứa bé. Thiếu ý thức về những giới hạn cần thiết, ta sẽ làm cho cháu trở thành đứa trẻ hay đòi hỏi, hỗn, không biết tự chủ, không biết để ý tới người khác. Người mẹ cần thông minh và nghị lực để phát hiện những đòi hỏi không chính đáng và không chiều theo những đòi hỏi ấy. Tuy nhiên, kỷ luật này không được ngăn cản đứa bé bày tỏ những ước vọng chính đáng, khiến nó cảm thấy cuộc sống khắt khe, không có cơ hội thành công. Những giới hạn quá hẹp sẽ khiến đứa bé về sau trở thành loại người lớn dễ bất mãn hoặc hay nói dối. Để có thể phát triển điều hoà, đứa bé cần thấy được nơi tình yêu người mẹ những nét của tình yêu Thiên Chúa.

6. Tập tiếp xúc: Đứa bé cần bắt chước mẹ nó để biết tiếp xúc, quan tâm tới người khác, nhất là trong cách mẹ nó cư xử với anh chị nó và với những người khác trong gia đình.

7. Đào tạo luân lý: Những điều nói trên tạo cơ sở cho một lương tâm ngay thẳng. Đứa bé sống luân lý bằng cách dự phần vào ý thức luân lý (lương tâm) của mẹ nó. Nó thoả lòng khi mẹ vui, nó ân hận khi mẹ buồn. Nét mặt người mẹ có một ý nghĩa đối với đứa bé. Cả tính khí và những tiếng dùng của người mẹ cũng vậy. Việc sửa phạt được biểu lộ qua thân xác và tâm hồn bằng cái nhìn. Cái nhìn của người mẹ đặc biệt có sức đưa dẫn đứa bé vào trật tự luân lý. Khi nó có lỗi, người mẹ cần nhìn cách nào để cái nhìn ấy không phải là một sự từ chối yêu thương nhưng đúng hơn là một sự đau khổ, buồn phiền, trách móc và mời gọi. Cái nhìn ấy sẽ giúp đứa bé nhận ra sự trách móc của Thiên Chúa, khi phải xa “nụ cười” của Ngài.

8. Đời sống tôn giáo và giáo lý: Trên đây đã là một sự đào tạo tôn giáo, nhưng vẫn còn ở mức độ của giáo dục nhân bản. Ta còn cần đề cập rõ hơn: Trước hết, quan trọng nhất là gương sáng: Cách sống của người lớn, cách xếp đặt mọi sự trong nhà, thái độ của cha mẹ khi cầu nguyện, khi phản ứng trước những chuyện thường ngày. Tiếp đến là một sự khai tâm gọi là “sữa đức tin”: Giới thiệu cho các cháu biết Thiên Chúa ngay từ khi tập nói, và tập cho các cháu hướng về Thiên Chúa qua những cử chỉ đơn giản nhất (vòng tay, cúi đầu) và những lời nguyện bập bẹ: Con ạ Chúa, cám ơn Chúa cho con ăn cơm, cám ơn Chúa cho con đi ngủ, con cám ơn Chúa con sẽ ngoan hơn...

.03

GIÁO DỤC TUỔI VÀO ĐỜI

“Trước hết các đôi bạn Kitô hữu làm việc tông đồ trong chính gia đình mình, bằng một đời sống đúng theo luật Chúa dưới mọi khía cạnh, bằng việc đào tạo về mặt giáo lý Kitô giáo cho con cái, giúp chúng trưởng thành trong đức tin, giáo dục đức khiết tịnh, chuẩn bị cho chúng vào đời, săn sóc để chúng tránh những nguy hiểm về ý thức hệ và luân lý mà chúng đang bị đe dọa. Bên cạnh, giúp chúng hội nhập vào cộng đồng Giáo Hội và cộng đồng dân sự cách tiệm tiến và có tinh thần trách nhiệm; giúp đỡ và góp ý cho chúng trong khi chọn lựa ơn gọi.” (Tông Huấn Gia Đình, số 71)

Việc giáo dục các cháu 13, 14 tuổi trở lên thật khó. Khi con cái còn bé tí xiú, chúng cần cha mẹ bảo trợ và âu yếm. Nhưng sẽ tới một thời gian sớm hơn ta tưởng chúng đi tìm con người riêng trong cách xử sự và cả trong vấn đề đạo giáo nữa. Thời kỳ ấy sẽ làm cho cả cha mẹ lẫn con cái phải khổ tâm. Bậc cha mẹ sẽ biết xóa mình đi trước nhân cách của đứa con đang lớn lên, và tìm cách giúp con cái đáp lại tiếng gọi của Chúa theo cách của nó, chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc cha mẹ nhớ rằng, dù không nói ra, đứa con sẽ rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống đức tin với lòng xác tín, mà không cưỡng ép chúng làm những việc đạo đức như họ. Ước gì các gia đình Kitô giáo có được một bầu khí vừa che chở vừa cởi mở, trong đó, con cái cảm thấy được tôn trọng và nhìn thấy nơi cha mẹ những tấm gương sáng về lòng tốt, lòng chung thủy, tình thân mật, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm và cần cù làm việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu xa. Việc giáo dục ở tuổi này sẽ đỡ khó khăn hơn nếu ta đã giúp cho các cháu biết cởi mở, tin cậy phụ huynh. Cần nhẫn nại, dành thời giờ cho các cháu, trở thành người bạn của con mình.

Cần để ý xem con cái làm bạn với những ai. Cần ngăn cản các cháu chơi với bạn xấu. Ngược lại, khuyến khích và tạo điều kiện cho chúng chơi với bạn tốt. Thánh nữ Têrêxa Avila khi kể lại thời choai choai của mình, đã viết: “Nếu tôi phải khuyên các bậc làm cha mẹ, tôi sẽ nài xin họ hết sức lưu ý tới bạn bè của con cái trong lứa tuổi này. Đi lại với những bạn bè xấu có thể đem lại những hậu quả thật đáng tiếc, vì tự bản chất, chúng ta dễ bắt chước điều xấu hơn là điều tốt. Trường hợp tôi cũng thế. Tôi có người chị lớn tuổi hơn nhiều, dẫu chị rất đoan trang và nhân đức, tôi đã chẳng học đòi chị được điều gì. Trái lại, tôi bắt chước hết mọi cái xấu nơi một người chị họ thường lui tới nhà tôi. Lối chuyện vãn của chị rất lẳng lơ đến nỗi mẹ tôi, vì thấy chị có thể gây hại cho tôi, đã cố gắng hết sức để ngăn chị khỏi đến nhà tôi, nhưng mẹ tôi đành bất lực, vì chị có rất nhiều lý do để tới.”

Kinh nghiệm của Thánh Gioan Boscô là đừng la mắng trước đám đông nhưng nói riêng thật nhỏ nhẹ. Ngài cũng còn dạy: “Yêu thương bạn trẻ thôi chưa đủ, còn phải làm sao để bạn trẻ cảm nhận được rằng chúng ta yêu thương họ.”

Cần giúp các cháu biết phát huy tinh thần trách nhiệm, biết tự lo tổ chức cuộc sống, biết tự sắp xếp các công việc của mình và tự nguyện làm, không đợi nhắc bảo. Nhắc các cháu biết xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng khi bắt đầu mỗi ngày cũng như trước mỗi việc làm và lời nói, biết gắn bó yêu mến Chúa Giêsu và quyết bước theo con đường Ngài, biết dành ưu tiên cho việc bổn phận, biết làm việc theo thời khoá biểu và điều hoà các bổn phận khác nhau theo thứ tự ưu tiên. Nói chung, nếu các cháu biết chăm lo bổn phận thì sẽ tránh được nhiều cạm bẫy ở đời và có thể sớm trưởng thành.

.04 
GIÁO DỤC BẰNG GƯƠNG SÁNG

“Vì là người truyền sự sống cho con cái, cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được”. (Tuyên ngôn về việc Giáo dục Kitô giáo, số 3)

Không gì gây tác dụng giáo dục hoặc phản giáo dục sâu đậm cho bằng những mẫu gương, gương tốt hoặc gương xấu, mà trước hết và quan trọng nhất chính là mẫu gương của cha mẹ.

Anh chị em muốn con mình sẽ ra sao thì ngay từ hôm nay anh chị em hãy sống như thế đi. Những lời khuyên răn và dọa nạt sẽ chẳng ích gì nếu các cháu thấy nhà giáo dục không sống những điều họ dạy. Nhiều lắm cũng chỉ đủ sức ngăn cản chúng làm những điều ấy khi có mặt cha mẹ mà thôi.

Nếu anh chị em muốn con mình sẽ có tinh thần trách nhiệm, ngay từ hôm nay anh chị em hãy làm việc siêng năng chăm chỉ. Muốn cho con luôn thành thật, anh chị em đừng bao giờ nói dối, dù chỉ là dối đùa. Muốn con mình biết cư xử tế nhị, ngay hôm nay anh chị em hãy biết tỏ ra kính trọng mọi người, kính trọng nhau và kính trọng chính mình.

Tự thắng mình, chỉnh đốn lại con người của mình, thật là khó. Đôi khi ta dễ có cám dỗ nghĩ rằng mình đã lớn rồi, muộn rồi, làm sao sửa đổi được nữa! Không đâu, vẫn còn kịp nếu ta bắt đầu từ hôm nay, ngay từ lúc này. Vì yêu mến những đứa con sẽ sinh ra, vì yêu mến bạn mình, vì yêu mến chính mình và vì yêu mến Thiên  Chúa, anh chị em hãy bắt đầu thực hiện cho con cái một cái mẫu để chúng bắt chước.

Anh chị em cũng đừng quên chọn cho con cháu những người bạn tốt. Hãy kể cho các cháu nghe, hãy giúp các cháu thán phục những tấm gương tốt, nếu có dịp, hãy cho các cháu được tiếp xúc với những con người ấy. Rất nhiều danh nhân trong sách vở cũng là những người bạn và gương mẫu, nhất là những vị thánh. Nhiều người hình như sợ rằng nếu con mình nên thánh thì sẽ bị mất nó… Nhiều người có cái suy nghĩ sai lầm rằng: các thánh là những vị xa vời, con mình là gì mà dám vươn tới. Không đâu, mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh và đều được Chúa ban đầy đủ ơn để nên thánh.

Có những vị thánh mà gia đình anh chị em không thể không biết đến, như các vị bổn mạng, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thánh Giuse, Đức Mẹ Maria. Và nhất là Đấng Thánh, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Chính Ngài mời gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Hãy học với Ta” (Mt 11,29); “Như Ta đã yêu thương các con, các con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34); “Ta đã nêu gương cho các con, ngõ hầu như Ta đã làm cho các con thế nào, các con cũng làm như vậy” (Ga 13,15).

Sau cùng, xin mời anh chị em lắng nghe lời nhắn nhủ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên quyền và bổn phận giáo dục là một điều nằm trong yếu tính của họ; vì tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu thương không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ có tính cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó cũng là một cái gì không thể thay thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt” (Tông huấn Gia đình 36).

.05
GIÁO DỤC THEO
CÁC GIÁ TRỊ CHÍNH YẾU
CỦA ĐỜI NGƯỜI

Dù phải đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: “giá trị của con người là do cái mình là, hơn là do cái mình có” (Tông Huấn Gia Đình, số 37)

Làn sóng văn minh tiêu thụ tràn vào Việt Nam ngày càng nhanh. Điều đáng sợ cho cộng đoàn Dân Chúa lúc này không phải là sự cấm cách bắt bớ nhưng chính là sức hút của xã hội tục hoá. Để sống theo Tin Mừng, người tín hữu phải lội ngược dòng đời. Ngay cả đối với những tín hữu trưởng thành, tỉnh táo sáng suốt để nhận rõ và can đảm thực hiện đúng ý Chúa đã là chuyện rất khó, huống nữa là bạn trẻ!

Văn minh tiêu thụ không chỉ ảnh hưởng trên con em chúng ta mà ngay cả trên chính bản thân mỗi người chúng ta, khiến tinh thần  Tin Mừng nơi chúng ta có thể phai nhạt lúc nào không hay. Cần có tinh thần đức tin sâu xa, ta mới có thể xác tín chiều sâu của 8 mối phúc thật.

Những điều chân phúc trong Tin mừng sở dĩ là hạnh phúc chính là vì nó tạo điều kiện cho con người đón nhận Thiên Chúa. Sống các mối phúc chính là đặt mình vào tình trạng có thể cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, hay đúng hơn, có thể kết hợp với Thiên Chúa.

Không phải chỉ trong nhà thờ, nhưng ngay trong gia đình, Thiên Chúa làm người đang ở với chúng ta. Nước Trời đang ở giữa chúng ta, chỉ cần chúng ta biết mở rộng vòng tay đón nhận. Nghèo khó, phiền sầu, đói khát sự công chính, giữ lòng trong sạch… chính là sẵn lòng buông bỏ tất cả để có được Chúa làm gia nghiệp. Điều quan trọng là sự sẵn lòng. Cái chúng ta tìm kiếm không phải là cái nghèo nhưng là sự tự do của một tấm lòng không ham mê của cải. Nếu sống trong cảnh nghèo xác xơ mà lòng nặng trĩu sự ham mê của cải thì vẫn chưa sẵn sàng để đón nhận Nước Thiên Chúa. Chính vì thế mà thánh Mátthêu đã nhấn mạnh tới sự sẵn sàng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó!”

Hạnh phúc Nước Trời là ở chỗ chúng ta được thuộc về Thiên Chúa. Điều làm cho người Kitô hữu khác với những người khác là, ngay trong những hoàn cảnh đen tối nhất, họ vẫn được tràn ngập hạnh phúc. Đó là điều vẫn đang xảy ra hôm nay trong cuộc sống hằng ngày. Biết bao gia đình Kitô hữu hôm nay đang sống tám mối phúc thật như thế… Trước mắt thế gian, chọn bước theo Chúa Giêsu trên con đường Ngài quả là điên rồ, ngu xuẩn, nhưng đối với những người được cứu chuộc thì đó lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa (1Cr 1,18-25).

Chúng ta cần giúp các em xác tín mình được gọi sống với Thiên Chúa, giúp các em khao khát trở nên người con tự do, biết làm chủ bản thân và biết dùng mọi sự theo ý Cha trên trời. Muốn vậy, đừng sợ gieo cho các em ý tưởng nên thánh và nên thánh lớn ngay giữa đời thường. Quý phụ huynh cũng đừng sợ một cách sai lầm rằng nếu các em theo đường tâm linh là mình mất con! Thành quả lớn nhất của giáo dục là đào tạo được con cái thành những vị thánh.

.06

DẠY CON CÁI BIẾT CẦU NGUYỆN

Trên căn bản phẩm giá và sứ mạng của họ, các cha mẹ Kitô hữu có bổn phận đặc biệt phải giáo dục cho con cái họ biết cầu nguyện, phải đưa chúng tới chỗ dần dần khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa và đối thoại riêng với Ngài: “Nhất là gia đình Kitô hữu đã nhận được những ân sủng, và đòi hỏi phong phú của bí tích Hôn Phối, nên ở đó ngay từ nhỏ, trẻ em phải được dạy dỗ để nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân, theo như đức tin chúng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội” (Tông Huấn Gia Đình, số 60).

Gương sống cụ thể, chứng tá sống động của cha mẹ, là yếu tố căn bản và không thể thay thế được trong việc giáo dục cầu nguyện: chỉ khi nào cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái, chu toàn chức vụ tư tế vương giả của họ, họ mới vào sâu được trong lòng con cái và để lại đó những dấu vết mà các biến cố cuộc sống về sau sẽ không thể xóa nhòa được. Chúng ta hãy nghe lại lời kêu gọi mà Đức Phao-lô VI đã ngỏ lời với cha mẹ: “Hỡi các bà mẹ, chị em có dạy cho các con nhỏ của mình những lời kinh của người Kitô hữu không? Chị em có cộng tác với các linh mục để chuẩn bị cho chúng lãnh nhận các bí tích của thời niên thiếu: xưng tội, rước lễ, thêm sức không? Nếu chúng đau ốm, chị em có tập cho chúng quen nghĩ tới những sự đau khổ của Đức Kitô, quen kêu cầu sự giúp đỡ của Đức Mẹ Đồng Trinh và các thánh không? Chị em có lần hạt chung với chúng ở gia đình không? Còn anh em hỡi những người cha, anh em có biết cầu nguyện chung với con cái, với cộng đồng gia đình, ít là thỉnh thoảng không? Gương sống của anh em qua sự ngay thẳng trong tư tưởng và hành động, được hỗ trợ bằng ít nhiều kinh nguyện chung, quả là một bài học sống, một hành vi thờ phượng đáng tuyên dương. Như thế anh em đang đem bình an vào trong tổ ấm gia đình anh em: “Bình an cho nhà này”. Đừng quên rằng làm như thế là anh em đang xây dựng Giáo Hội!”.

Để đào tạo tâm tình cầu nguyện, để giúp các cháu nhớ có Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, mỗi nhà đều nên có một bàn thờ sáng sủa, trình bày đơn giản để diễn tả đức tin thật chính xác. Bàn thờ tổ tiên có thể đặt ngay dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có sự phân biệt rõ ràng, hoặc có thể để ở gian khác, nên trình bày đơn giản, sáng sủa.

Bàn thờ cần giữ sạch sẽ, tuyệt đối không để những vật dụng lặt vặt. Nên lau bàn thờ mỗi chiều thứ bảy hoặc sáng Chúa nhật.

Điều cần thiết khi cầu nguyện là nhớ rằng Thiên Chúa đang hiện diện. Ta ở đó để nghe Chúa nói và nói với Chúa. Muốn dễ nhớ sự hiện diện của Thiên Chúa, khi cầu nguyện nên ăn mặc nghiêm chỉnh, thu dọn đồ đạc trong phòng và trên bàn cho ngăn nắp.

Để khỏi rơi vào thói quen đọc kinh máy móc, cần tránh kiểu đọc đều đều. Nên đọc chậm, ngắt câu rành rẽ, nghỉ lâu hơn. Nếu được, nên dùng cung nói thay vì cung đọc.

Buổi tối, cần thu xếp cầu nguyện thật sớm để tiện cho mọi người, nhất là để trẻ em có thể tỉnh táo. Tốt nhất là dăm phút sau khi ăn tối xong. Sáng cũng như tối, giờ cầu nguyện cần được đặt lên hàng đầu, trước khi làm mọi việc khác, để nếu cần xén bớt vài việc thì sẽ hy sinh những việc khác chứ không bỏ mất giờ kinh.

 

.07
DẠY CON CÁI HƯỚNG TỚI NHÂN ĐỨC

 “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5,16t.22t.25)

Trong ngôn ngữ của con cái Chúa và trong ơn Chúa, ta gọi là các nhân đức. Theo ngôn ngữ đời, ta có thể nói nôm na là những thói quen tốt;

Kinh nghiệm cho ta thấy việc giáo dục cốt ở chỗ giúp con em có được những thói quen tốt lành, về nhân bản cũng như về tâm linh. Thói quen ngủ sớm dậy sớm, thói quen dâng ngày ban sáng, dâng mình ban tối, tạ ơn trước và sau bữa ăn; thói quen làm tròn bổn phận; thói quen xin phép cha mẹ, cởi mở bày tỏ với cha mẹ, mau mắn vâng lời, tỏ lòng biết ơn, nhận lỗi và xin lỗi; thói quen ngăn nắp thứ tự… Nhìn vào các gia đình họ hàng và bạn hữu cũng như chính gia đình mình, ta sẽ thấy ngay việc giáo dục của mỗi gia đình thành công nhiều hay ít là tuỳ ở chỗ tập được cho con em nhiều hay ít thói quen tốt. Dĩ nhiên, cha mẹ không thể dạy cho con cái những thói quen mà chính mình không có… Do đó, muốn bảo đảm kết quả giáo dục cho con em, chính phụ huynh phải kiểm điểm lại những thói quen hằng ngày của mình, những thói quen nho nhỏ, từ bên ngoài, nơi lời nói và cử chỉ… những thói quen ấy tốt hay xấu?

Anh chị em đã quá rõ về tầm quan trọng của những thói quen tốt trong việc giáo dục thiếu niên nhi đồng. Đây chính là chỗ mà cha ông ta nói: Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn trong nôi.

Cần theo dõi vở chép bài của các cháu để giúp các cháu biết trình bày sáng sủa, rõ ràng, sạch đẹp. Giúp các cháu tập viết đủ nét, liền nét, thuận nét, đều nét và trọn nét; biết viết các dấu giọng rõ ràng và đúng quy cách. Đây là những chi tiết hết sức nhỏ nhưng có tác dụng rất lớn trong việc hình thành nhân cách và cách ứng xử của các cháu.

Đang khi học cách chu toàn bổn phận, các em sẽ gặt hái nhiều thói quen tốt. Các nhà giáo dục vẫn nói: “Bạn càng tập được nhiều thói quen tốt càng hay, nếu không, những thói quen xấu sẽ làm hỏng đời bạn”.

 

.08

ĐÀO TẠO CÁC NHÂN ĐỨC CĂN BẢN

“Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được” ( Tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, số 3)

.

Đạo lý Á Đông nhấn mạnh năm nhân đức căn bản là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là lòng yêu người, nghĩa là lòng biết ơn, lễ là biết kính trọng người khác, trí là biết sáng suốt cân nhắc, tín là biết giữ lời hứa.

Đạo lý phương Tây nhấn mạnh bốn nhân đức căn bản là: Khôn ngoan, dũng cảm, công bình và tiết độ. Khôn ngoan là biết sáng suốt cân nhắc, dũng cảm là biết cương quyết bước trên đường lành, công bình là biết tôn trọng của cải và quyền lợi của người khác, tiết độ là biết giữ đúng chừng mực.

Hai cụm nhân đức căn bản theo phương Đông và phương Tây đều rất ưu việt nhưng thiếu chiều sâu Kitô giáo vì không tạo được sự liên tục giữa tự nhiên và siêu nhiên. Chìa khoá mở được sự hài hoà giữa luân lý tự nhiên và sự thánh thiện Kitô giáo là ba nhân đức căn bản rút từ bài giảng trên núi, được nữ thánh Tiến Sĩ Têrêxa Avila trình bày trong quyển Đường Hoàn Thiện: Khiêm nhường, từ bỏ và yêu thương, vừa tương ứng với ba nhân đức hướng thần (Tin, Cậy, Mến), vừa tương ứng với ba lời khuyên Tin Mừng (Vâng phục, Nghèo khó, Khiết tịnh).

Các nhân đức căn bản rất quan trọng, vì chúng gói ghém các nhân đức tự nhiên khác và giúp vươn tới ba nhân đức hướng thần là tin, cậy và kính mến.

Khiêm nhường là biết sống đơn sơ bé nhỏ. Nhân đức này đặt nền móng cho lòng yêu người và giúp nhận biết Thiên Chúa để thờ kính mến yêu.

Từ bỏ là biết thoát khỏi các thụ tạo để hướng về Thiên Chúa. Nhân đức này giúp ta dễ thoát khỏi những ràng buộc của thụ tạo để gắn bó với Thiên Chúa và trông cậy nơi Ngài.

Yêu thương là biết nghĩ đến mọi người. Nhân đức này giúp ta đem lại hạnh phúc cho nhau và mở rộng lòng ta kính mến Thiên Chúa.

Muốn hướng tới hoàn thiện, ta cần sống các nhân đức căn bản theo Tin Mừng cho đến cùng, tức là theo đuổi tinh thần vâng phục, nghèo khó và khiết tịnh.

 

.09

ĐÀO TẠO TRÍ PHÁN ĐOÁN

 “Vì thế, từ ngày chúng tôi nghe biết như vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn. Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả” (Cl 1,9-11).

Trong giáo dục, ta cần giúp các cháu biết cân nhắc để nhận rõ ý Chúa trước thực tế hằng ngày và quảng đại đáp lại.

Thứ nhất là tập xem xét để chú tâm chu toàn bổn phận hiện tại. Trước mọi việc bổn phận lớn nhỏ, ta đều tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, cân nhắc xem phải làm thế nào để đạt kết quả tốt nhất, rồi làm ngay với trọn lòng yêu mến.

Thứ hai là trước các vấn đề cuộc sống, trước những cảm hứng muốn làm điều này hay điều khác, dĩ nhiên là những điều tốt, làm sao để dò tìm và nhận rõ được ý Chúa. Đây là một kinh nghiệm khá tế nhị nhưng không phải là quá khó. Trước hết, khi đã có lòng khao khát muốn biết ý Chúa, ta cần giữ cho mình một lương tâm ngay thẳng và một tấm lòng trong sạch, nếu còn vướng mắc tội lỗi thì phải thực lòng ăn năn. Tiếp đến ta chú tâm xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, rồi cân nhắc xem xét kỹ để biết phải làm gì và làm một cách quảng đại. Kinh nghiệm này gọi là phương pháp xem – xét - làm.

Bước thứ nhất là xem, tức là quan sát, nhìn kỹ xem hoàn cảnh thực tế đang đòi hỏi điều gì, đâu là những thuận lợi và những khó khăn. Việc này phải rất chính xác, đủ các khía cạnh cần thiết. Nếu ta chỉ tuyển một số sự kiện theo ý ta muốn và gạt hẳn một số sự kiện không thuận lợi cho kết luận, kết luận của ta sẽ không trung thực.

Bước thứ hai là xét, tức là phân tích tìm lý do sâu xa của các sự kiện trên và dựa theo tinh thần Tin Mừng để lượng giá phê phán và tiến đến một kết luận. Sự phê phán này cần hết sức vô tư. Thường ta dễ bị thiên lệch vì những quyến luyến lệch lạc và những định kiến có sẵn, khiến cho việc nhận định bị mất sáng suốt. Do đó cần tỉnh táo lọai trừ mọi định kiến và quyến luyến lệch lạc.

Trước những tình thế khó khăn của cuộc sống, ta cần bình tĩnh xét xem hướng đi của ý Chúa trong hoàn cảnh mới, không vội phản kháng cũng không tìm cách uốn nắn hoàn cảnh cho hợp với ý ta.

Muốn nhận rõ ý Chúa, ta cần để cho lòng lắng xuống trong “yêu thương, khiêm nhường và từ bỏ.” Cần can đảm cậy trông vào Chúa. Đôi khi ta ngập ngừng không dám bắt tay vào việc, nhưng bắt đầu làm thì rồi sẽ thấy ánh sáng dần dần lộ rõ. Đừng vội nghĩ rằng ánh sáng vừa nhận được là tất cả ánh sáng. Cần biết vui lòng với những giới hạn. Không đòi những điều kiện tối ưu, cũng không vẽ vời những kế họach vượt quá quyền hạn và khả năng mình.

Bước thứ ba là làm, tức là bắt tay vào việc thật đúng lúc, đúng cách, với cả tấm lòng. Cứ quảng đại đáp lại theo điều Chúa gợi ý trong giây phút hiện tại. Ta chưa thấy rõ tương lai nên cần biết phó thác cho Chúa. Cứ bước đi trong bình an và chờ để xem Chúa đang muốn dắt đi đâu. Hành trình Chúa dắt ta đi là hành trình của kinh nghiệm, theo kiểu quy nạp. Thoạt đầu mọi chuyện có vẻ chẳng liên hệ gì với nhau, nhưng rồi cuối cùng sẽ thấy tất cả ăn khớp với nhau cách kỳ diệu.

 

.10

ĐÀO TẠO ĐỨC CÔNG BẰNG

 Trong một xã hội đã bị lung lay và phân hóa do những căng thẳng và xung khắc vì sự đối đầu khốc liệt giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em cần phải có được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có sự công bằng ấy mới đưa đến sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người. Hơn thế nữa, chúng ta phải có ý thức về tình yêu đích thực, tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và việc phục vụ vô vị lợi đối với kẻ khác, và đặc biệt là đối với những người nghèo nhất và những người cần được giúp đỡ nhất.” (Tông Huấn Gia Đình, số 37)

Thánh Phanxicô Trần Văn Trung tử đạo ngày 10-6-1858. Khi bị giam, nhớ ra còn thiếu nợ một vài người, ngài lo lắng sợ các chủ nợ bắt các con mình ở đợ để trừ nợ, vừa cực khổ lại có thể quên cả đạo nghĩa nữa, vì thế ngài căn dặn vợ rất kỹ lưỡng, những đồ đạc nào trong nhà phải bán đi để thanh toán nợ nần thật chu đáo. (Thiên hùng sử, tr. 308)

Ngày nay, ý thức công bằng ở ngòai xã hội ngày càng xuống thấp, l8ám lúc dường như người ta chẳng còn biết gì đến công bằng. Giữa tình huống ấy, các gia đình Kitô hữu phải quan tâm dạy con cái ý thức công bằng từ trong những chuyện nhỏ, trong việc làm bài cũng như khi chơi đùa với bạn hữu. Chính bậc cha mẹ cũng cần thường xuyên kiểm tra lại ý thức công bằng của mình, bởi vì công bằng là nền tảng của bác ái, như Tông Huấn về Gia Đình có dạy:

“Một nhiệm vụ khác của gia đình là huấn luyện con người đến với tình yêu và thực hành tình yêu trong mọi tương quan với người khác, nhờ vậy gia đình sẽ không tự khép kín, nhưng mở rộng ra với cộng đoàn, được đánh động nhờ ý thức về công bằng và nhờ sự quan tâm đối với người khác, cũng nhờ bổn phận của trách nhiệm riêng đối với toàn thể xã hội”. (Tông huấn Gia đình 64)

Cần hết sức tránh đừng để rơi vào nợ nần. Nếu mắc nợ, cố gắng trả càng sớm càng tốt. Nên tập thái độ này từ trong chuyện thường ngày: Lấy cái gì ở đâu, dùng xong, trả liền vào ở đó. Mượn vật gì của ai, dùng xong, trả lại liền. Thói quen giải quyết dứt điểm công việc mỗi ngày cũng giúp dẫn đến thói quen giúp sớm thoát nợ nần tiền bạc: Vừa có tiền trả nợ là trả ngay, không chần chừ. Có đến đâu trả đến đó, cuối năm sẽ thấy nhẹ nhàng. Chuyện đời sau cũng giống chuyện đời này: Ai không để mình nợ công việc, sẽ không nợ tiền bạc. Ai không để mình nợ đời này, sẽ không nợ đời sau.

 

.11

ĐÀO TẠO TINH THẦN ÍCH CHUNG

“Mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để ngày này sang ngày khác tiếp tục xây dựng sự hiệp thông giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một “trường học đào tạo cho nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn”. Chỉ có một tinh thần hy sinh cao cả mới giúp gìn giữ được, và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau, và hòa giải với nhau. Không gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình.  (Tông Huấn Gia Đình, số 21)

Thánh Anrê Kim Thông chu toàn nhiệm vụ của mình với tinh thần hăng say, với lòng đạo đức sốt sắng và lòng bác ái hoàn hảo. Ngài được Đức Cha Cuénot đặt làm Trùm Cả toàn tỉnh Bình định. Làng cũng chọn ngài lo việc xét xử, hòa giải mọi người trong xóm làng. Vất Vả nhưng vì ích chung, ngài vui vẻ đảm nhận. Điểm đặc biệt trong đời sống của ngài là lòng nhiệt thành với các vị thừa sai, nhất là đối với Đức Cha Cuénot. Trong những năm tháng dài, dù hiểm nguy đến tính mạng, ngài đã bố trí cho Đức Cha trốn lánh, tá túc ngay trong nhà mình, đón tiếp các linh mục, các thầy giảng đến thăm Đức Cha, phục dịch các ngài, phí tổn khá nhiều. Sự nhiệt tâm này dù làm cho đời sống kinh tế gia đình nhiều lúc trở nên eo hẹp, ngài cũng chẳng nề hà. Điều làm cho Cụ quan tâm nhất là bảo đảm an toàn cho Đức Cha và các linh mục. Do đó khi được các quan đòi lên tỉnh bất cứ vì lý do gì, ngài vội đi ngay, đối đáp, trao đổi sao cho ít thiệt hại nhất, và khi ra về vẫn giữ sự liên lạc xã giao với họ.

Một điểm quan trọng trong việc giáo dục gia đình công giáo ngày nay là đào tạo tinh thần ích chung. Hoàn cảnh xã hội ngày càng dễ khiến người ta thành ích kỷ. Bậc cha mẹ công giáo cần dạy con cái biết quên mình, hy sinh vì ích chung. Trước mặt người đời, đây có vẻ là điều dại dột, nhưng người Kitô hữu xác tín vào những lời tuyên phúc của Chúa, cần luôn phát huy tinh thần sẵn sàng chịu thiệt vì ích chung. Cha mẹ sẽ đào tạo tinh thần này cho con cái trước hết là qua những bổn phận hằng ngày được giao cho chúng. Cần dạy các cháu biết vui vẻ chu toàn, dành ưu tiên cho lợi ích chung của gia đình, sẵn lòng gạt bỏ những thú vui chơi để chu toàn bổn phận. Tiếp đến, cha mẹ cần nêu gương cho con cái trong việc hy sinh vì ích chung của Xã Hội và Giáo Hội, và nhắc bảo con cái theo hướng ấy.   

 

 

 

 

.12

ĐÀO TẠO TINH THẦN KỶ LUẬT
VÀ TỪ BỎ

“Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9,23-25).

Trong giáo dục, ta cần giúp các cháu biết từ bỏ để sống theo tinh thần kỷ luật. Nói đơn sơ là biết bỏ ý riêng và mau mắn vâng lời.

Kỷ luật đầu tiên là những kỷ luật về sạch sẽ, ngăn nắp, thứ tự, đúng giờ.

Trước hết và trên hết, để các cháu thấm nhuần tinh thần từ bỏ, chính bậc cha mẹ cần nêu gương. Cần biết can đảm dứt bỏ những điều không tốt. Ngay cả trong những điều tốt, cũng cần biết dừng lại ở mức độ thực sự cần thiết, từ ý nghĩ, lời nói, việc làm đến sự sở hữu. Những gì vượt quá mức độ cần thiết, những cái thừa, ta cần tìm cách loại bỏ dần.

Văn minh tiêu thụ tạo ra rất nhiều nhu cầu giả. Càng biết từ chối những nhu cầu giả, ta càng thanh thóat hạnh phúc. Cần biết tự chủ, có chừng mực trong các thứ giải trí. Cần có tinh thần khó nghèo và siêu thoát trong việc sử dụng các tiện nghi vật chất: Chỉ dùng ở mức hết sức cần thiết, không lạm dụng.

Tập can đảm từ bỏ những điều không cần thiết, khởi sự từ những thứ linh tinh chẳng bao giờ dùng tới. Trong nhà có lắm đồ vật thừa choán mất chỗ của những đồ dùng cần thiết, gây mất trật tự, che lấp mất những cái cần thiết, khiến khi cần ta không tìm ra. Hãy can đảm gom những đồ vật dư thừa, cho người bán ve chai, hoặc đốt bỏ.

Những câu nói thừa, vừa làm vừa nói linh tinh, khiến ta thành lải nhải, người khác hết muốn nghe. Những cử chỉ thừa khiến người khác có cảm tưởng ta thiếu thành thật. Những việc thừa khiến người khác bực mình. Việc thừa là việc của người khác, việc của lúc khác. Việc thừa cũng còn là những âu lo vô ích đủ thứ. Mỗi tối cần nhìn lại xem trong ngày có những lời nói và cử chỉ nào dư thừa, không cần thiết. Vất bỏ những đồ vật thừa, ta sẽ có nhiều chỗ cho những vật dụng cần thiết được ngăn nắp. Dẹp bỏ những lời thừa và việc thừa, ta sẽ có rất nhiều nghị lực và thời giờ để làm những việc cần làm.

Ta chỉ có thể dứt bỏ, khi biết dứt bỏ ngay lúc này, tại đây, nơi những điều trước mắt.

Cũng cần nhớ rằng sự dứt bỏ quan trọng nhất là dứt bỏ ý riêng. Lắm khi, ta bị lạc vào chủ quan và theo đuổi ý riêng thay vì ý Chúa. Cần nhớ rằng trước mắt Chúa, vâng lời quý hơn của lễ. Chính đức tin, đức cậy và đức mến sẽ giúp ta đạt được sự từ bỏ tận cõi lòng, sự thanh thoát và không màng.

 

.13

ĐÀO TẠO TINH THẦN PHỤC VU

“Gia đình Kitô hữu được sinh động và được hướng dẫn bằng luật mới của Thần Khí và trong sự hiệp thông mật thiết với Giáo Hội là dân tộc vương đế, được mời gọi sống  việc “phục vụ” của mình vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Như Đức Kitô thực thi vương quyền của Người bằng cách hiến thân phục vụ con người, thì người Kitô hữu cũng tìm được ý nghĩa đích thực của việc tham dự vào vương quyền của Chúa mình bằng cách chia sẻ tinh thần và thái độ phục vụ đối với con người.” (Tông Huấn Gia Đình, số 63)

Khi cậu bé Saviô xin Thánh Don Bosco dạy con đường nên thánh, ngài trả lời:

Con đường nên thánh trẻ

Lấy vui vẻ làm đầu

Bổn phận nhớ chuyên sâu

Thực hành câu giúp ích.

Khi nhắc các cháu học hành, ta sẽ không nói phải học để kiếm sống nhưng cần nhấn mạnh học là để có thể phục vụ hữu hiệu hơn.

Ta phải tập cho các cháu biết phục vụ ngay trong bầu khí gia đình. Các cháu cần biết chu toàn phần việc đã được giao để giúp cả nhà. Hơn thế nữa, vì yêu thương cha mẹ và anh chị em, cháu còn mau mắn làm những việc mình thấy cần làm, dù chưa ai nhắc bảo. Ta cũng cần dạy con cái biết lo cho phần rỗi của kẻ khác, biết mau mắn phục vụ khi trong xóm có tang chế hay có người gặp tai nạn rủi ro.

Cần dạy cho các cháu biết tiếp khách. Sau mỗi lần có khách, nên chỉ vẽ giúp các cháu rút kinh nghiệm. Nói chung là luyện phản xạ kính trọng người khác. Tốt dành cho khách, sạch nhường cho bạn. Luôn quan tâm tới nhu cầu người khác và mau mắn giúp đỡ. Biết nhường đường cho người khác khi sử dụng các phương tiện giao thông. Đó là những thói quen giúp các cháu ngày càng trở thành người có tư cách.

Ở số 37, Tông Huấn Gia Đình viết: “Gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng. Sự hiến mình đang làm cho tương quan giữa đôi bạn với nhau được sinh động, chính là kiểu mẫu và nguyên tắc cho sự hiến mình cần có giữa anh chị em trong nhà và giữa những thế hệ khác nhau đang cùng sống trong gia đình. Sự hiệp thông và chia sẻ được thể hiện mỗi ngày tại gia đình, trong những lúc vui mừng cũng như khó khăn, chính là khoa sư phạm cụ thể nhất và hữu hiệu nhất để làm cho trẻ em có thể hội nhập một cách tích cực, có trách nhiệm và phong phú vào trong khung cảnh lớn hơn của xã hội.

 đôi khi ta cảm thấy bất lực và khổ tâm vì, dù ta không muốn, ta đang thông truyền cho con cái tính ích kỷ của ta. Nhưng ta sẽ cố gắng hơn, chắc chắn ta cũng thông ban cho chúng lòng tốt, nhờ vào sự thông cảm, tính kiên nhẫn và tinh thần sẵn sàng phục vụ của ta đối với con cái cũng như đối với mọi người.

.14

ĐÀO TẠO TÌNH BÁC ÁI
VÀ LÒNG HIẾU KHÁCH

Được lệnh truyền mới của tình yêu sinh động và nâng đỡ, gia đình Kitô hữu tiếp đón, kính trọng, phục vụ mọi người, luôn luôn nhìn mọi người trong phẩm giá của họ như những ngôi vị và như con cái Thiên Chúa” (Tông Huấn Gia Đình, số 64).

Việc đó phải được phát triển trong phạm vi rộng lớn của cộng đồng giáo xứ: nhờ đó, qua lòng bác ái của gia đình, Giáo Hội có thể mang một khuôn mặt thân thiện hơn, giúp mọi người tìm được ở đó một bầu khí huynh đệ và gia đình.

Lòng bác ái còn phải vượt quá vòng huynh đệ giữa những người cùng một đức tin, bởi vì “mọi người đều là anh em tôi”. Nơi mỗi người, nhất là người nghèo túng, yếu đuối, đau khổ và bị đối xử cách bất công, lòng bác ái biết nhận ra khuôn mặt của Đức Kitô và một người anh em cần phải yêu mến và phục vụ.

Trong hạnh tích Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm (1780-1859), ta đọc thấy: “Khi bị bắt, cụ án Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là tiên chỉ trong làng, vừa là hội viên dòng ba, kiêm chức trùm họ trong giáo xứ. Mọi người đều công nhận cụ là người đạo đức, giàu lòng bác ái và nhiệt tình trong các trách vụ. Các vị thừa sai, kể cả các giám mục cũng biết tiếng và từng đến trọ tại nhà cụ trong những ngày khó khăn. Trong giáo xứ, cụ cộng tác đắc lực với cha xứ trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng, cụ là một mẫu người đức độ, quan tâm đến nhu cầu của mọi người, cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho người nghèo khó và khích lệ mọi người can đảm trước cơn bách hại. Gia phả con cháu cụ ghi rằng: “Gia nhân phải kiếm kẻ khó vào ngồi chung thì cụ mới ăn cơm.” (Thiên hùng sử, tr. 29)

Bản giúp trí nhớ giản dị cho việc đào tạo đức bác ái là kinh Thương người có mười bốn mối:

Thương xác bảy mối :

Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn.

Thứ hai          : Cho kẻ khát uống.

Thứ ba : Cho kẻ rách rưới ăn mặc.

Thứ bốn         : Thăm kẻ đau ốm cùng kẻ tù tội.

Thứ năm: Cho khách trọ nhà.

Thứ sáu         : Chuộc kẻ làm tôi.

Thứ bảy         : Chôn xác kẻ chết.

Thương linh hồn bảy mối :

Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người.

Thứ hai          : Mở dạy kẻ mê muội.

Thứ ba : An ủi kẻ âu lo.

Thứ bốn         : Răn bảo kẻ có tội

Thứ năm: Tha thứ cho kẻ khinh ghét ta.

Thứ sáu         : Nhịn kẻ mất lòng ta.

Thứ bảy         : Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

.15

ĐÀO TẠO SỰ THÀNH THẬT

 “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5,33-37)

 Cụ Êlêazarô 92 tuổi bị tố cáo là người tin Chúa. Luật Cựu Ước cấm ăn thịt heo. Những người có cảm tình đề nghị cụ chỉ giả vờ ăn thịt heo thôi là sẽ được tha. Thế nhưng cụ nhất quyết không chịu giả vờ. Chuyện tương tự cũng đã xảy ra với Thánh Anrê Kim Thông. Quan Tổng Đốc thương xót tuổi già của ngài nên đã đề nghị: “Ông hãy bỏ đạo đi, cách thầm lén cũng được, rồi trở về gia đình, xưng tội là xong, có thiệt thòi gì đâu?” Thế nhưng ngài đã từ tốn trả lời: “Thạch tín là thuốc độc, uống vào sẽ chết, nhưng cũng có thuốc giải. Tuy vậy, không ai liều mình uống thạch tín bao giờ. Việc chối đạo cũng thế”. Thế là ngài bị kết án lưu đày.

Để giúp cho con cái biết yêu mến sự thật, trước hết trong mọi công việc hằng ngày cha mẹ phải hết sức tôn trọng sự thật. Mọi lời nói và việc làm của cha mẹ đều phải luôn chân thật. Cha mẹ phải luôn luôn nói sự thật với con cái. Đừng bao giờ nói dối chúng, dù chỉ là dối đùa một chút xíu. Phải làm sao để trẻ em thấy có thể hoàn toàn tin lời cha mẹ. Nhờ đó, các em sẽ cởi mở với cha mẹ cách hồn nhiên, sẽ mạnh dạn bày tỏ và bàn hỏi: Các em sẽ sống thành thật và vâng lời.

Cần dạy các em biết thành thật khi làm bài cũng như khi chơi với bạn bè. Chúa Kitô là Sự Thật. Do đó, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của người môn đệ Ngài phải luôn trong sáng, chân thật.

Cần giúp các em biết luôn sống trong cái nhìn của Chúa. Là những người con tự do của Thiên Chúa, luôn sống trong ánh mắt yêu thương của Ngài, các em sẽ tập cân nhắc phê phán để tự quyết định theo lương tâm của mình, khi nào thấy cần hỏi ý kiến nhà giáo dục trước khi quyết định thì mau mắn hỏi ngay.

Lớn lên trong sự thật, con cái chúng ta sẽ thực sự là những đứa con đầy tự do của Thiên Chúa, không khiếp nhược trước cuộc đời.

 

.16

ĐÀO TẠO SỰ KHIÊM NHƯỜNG

 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30)

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cũng dạy: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,1-3).

Điều thứ nhất trong kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” là “khiêm nhường chớ kiêu ngạo”, nghĩa là biết nhận mình hèn mọn trước mặt Thiên Chúa, mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, biết ơn Thiên Chúa và biết ơn mọi người, đồng thời biết chăm chỉ lắng nghe và vâng lời người trên, và biết kính trọng và yêu thương mọi người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Noi gương Chúa Kitô, ta chọn phần thấp hèn, bé nhỏ, vì “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,12). Tránh đừng nói về những thành quả của mình cũng như về những cái hay của gia đình và dòng họ mình. Ham danh là một dạng rất tinh vi của kiêu ngạo. Chạy theo sự khen chê của người đời, ta sẽ dần dần xa Chúa.

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nóng giận chính là không chịu từ bỏ mình, và cũng là còn nô lệ cho sự kiêu ngạo. Người khiêm nhường luôn ôn tồn, nhỏ nhẹ, cử chỉ dịu dàng.

Khiêm nhường còn là biết nhận lỗi, biết chân thành cám ơn và xin lỗi.

Cần nhớ khiêm nhường khác với khiêm tốn. Khiêm tốn là làm ra vẻ nhún nhường bên ngoài, còn đức khiêm nhường Chúa dạy là khiêm nhường trong lòng, là thật lòng nhìn nhận mình chẳng quan trọng gì, chẳng là già cả. Nếu ta có là gì thì đều do ơn Chúa, nên chẳng có lý do nào mà tự mãn, tự hào, chẳng có lý do nào để coi khinh người khác. Chính vì thế, Thánh Nữ Têrêxa Avila định nghĩa rất chính xác: “Khiêm nhường là bước đi trong sự thật”.

 

.17

ĐÀO TẠO LÒNG YÊU MẾN LỜI CHÚA

Nhờ kết quả của thừa tác vụ giáo dục, qua chứng từ đời sống, cha mẹ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng cho con cái. Hơn nữa, khi cùng cầu nguyện với chúng, khi cùng với chúng lao mình vào việc đọc Lời Chúa, và khi làm cho chúng sống thân mật trong thân thể Đức Kitô bằng việc khai tâm Kitô giáo, họ trở nên cha mẹ theo nghĩa trọn vẹn, nghĩa là không những họ sinh ra chúng theo sự sống phần xác mà còn theo cả sự sống mà nhờ sự đổi mới của Thần Khí tuôn trào từ thập giá và sự phục sinh của Đức Kitô.” (Tông Huấn Gia Đình, số 39)

Kinh thánh không chỉ đơn thuần là bộ sách do người ta viết ra, nhưng còn là Lời của Thiên Chúa. Chinh vì thế Kinh thánh luôn có giá trị cho mọi người, mọi thời đại. Chính Chúa Thánh Thần đã tác động và soi dẫn cho những người Ngài chọn để họ tùy theo tài năng và cách thế riêng của mình mà viết lên những điều Ngài muốn họ viết ra vì ơn cứu độ chúng ta. Thế nên, Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa nói với con người bằng ngôn ngữ loài người.

Các nghị phụ Công đồng Vaticanô II thiết tha nhắn nhủ mọi Kitô-hữu: “Hãy năng đọc Thánh Kinh”, vì như Thánh Giêrônimô nói, “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”.

Để giúp con em tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh như Công Đồng mong ước, nên liệu cho mỗi em có một quyển Thánh Kinh riêng. Nên chọn những quyển có in những phần dẫn nhập và chú thích vì những phần này sẽ giúp cho ta rất nhiều khi đọc và học hỏi Thánh Kinh.

Hằng ngày nên dành ít phút để đọc Thánh Kinh và đọc theo một lịch trình:

- Hoặc theo niên lịch phụng vụ được ghi trong lịch công giáo (các bài đọc của thánh lễ mỗi ngày).

- Hoặc theo tuần tự các sách trong quyển Thánh Kinh. Khi đọc đến sách nào, nên coi phần dẫn nhập của sách đó trước.

Tận dụng mọi cơ hội để học hỏi thêm về Thánh Kinh: qua lời giảng của linh mục trong thánh lễ, qua các lớp học hỏi về Thánh Kinh, qua đài, qua các sách, báo, phim ảnh về Thánh Kinh hoặc qua các buổi chia sẻ Lời Chúa với nhau.

Mỗi tối Thứ Năm, cả nhà nên cùng nhau tìm hiểu trước đoạn Tin mừng Chúa Nhật sắp tới.  Tìm hiểu ý chính và bài học áp dụng, rồi kiểm điểm đời sống dưới ánh sáng đoạn Tin mừng vừa đào sâu. Dành ra ít phút thinh lặng và cầu nguyện để cho Lời Chúa thấm vào lòng. Rồi chọn một câu chính yếu để sống cả tuần.

 

.18

ĐÀO TẠO TINH THẦN HỘI THÁNH

“Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân vị được trưởng thành...nhưng còn nhằm giúp những người rửa tội trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, càng ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ cũng như được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy, họ đạt tới con người toàn thiện, chín chắn, đạt tới sự sung mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm Thể được tăng trưởng.” (Tuyên ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, số 2)

Thánh Antôn Nguyễn Đích tử đạo ngày 12-8-1838. Con gái ngài là cô Maria Mến cung khai trước toà điều tra phong chân phước: “Bố tôi tên là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ông bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh, rồi bố tôi lập gia đình ở đó.”

Về Thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ, ta đọc thấy: “Ra đời trong một gia đình công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, vì lý do sinh kế, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ đã theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt và đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh.” (Thiên hùng sử, tr. 446)

Tinh thần Hội Thánh trước hết là gắn bó với nhà thờ, với trung tâm sinh hoạt của cộng đoàn Dân Chúa và nhiệt tình đóng góp vào sinh hoạt giáo xứ theo khả năng của mình. Tuy nhiên ta cần giúp các cháu có cái nhìn rộng hơn, quan tâm đến Giáo Phận của mình và Giáo Hội Toàn Cầu. Cần giúp các cháu biết đồng cảm với Hội Thánh, qua những tin tức về sinh hoạt Dân Chúa tại giáo xứ, cũng như những nơi khác trong giáo phận, trên đất nước Việt Nam và trên toàn thế giới.

 

.19

ĐÀO TẠO TINH THẦN PHỤNG V

Như Công Đồng Vaticanô II đã tái xác nhận thật rõ giữa kinh nguyện của Giáo Hội và kinh nguyện của mỗi tín hữu có một tương quan sâu xa và sống động. Bởi vậy, mục đích quan trọng của kinh nguyện trong giáo hội tại gia là bước dẫn nhập tự nhiên cho trẻ em đi vào kinh nguyện phụng vụ của toàn thể Giáo Hội, vừa chuẩn bị chúng đi vào kinh nguyện phụng vụ vừa mở rộng việc kinh nguyện này vào trong lãnh vực của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Do đó cần phải có sự tham dự của mọi thành phần trong gia đình Kitô hữu vào bí tích Thánh Thể, nhất là ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng, cũng như tham dự vào các bí tích khác, cách riêng là bí tích khai tâm Kitô giáo cho trẻ em.

Để chuẩn bị và kéo dài ngay tại nhà mình việc phụng tự được cử hành ở nhà thờ, ngoài kinh nguyện sáng tối, các gia đình cũng được tha thiết khuyên bảo nên đọc và suy niệm Lời Chúa, chuẩn bị cho các bí tích, tôn sùng và tận hiến cho Trái Tim Chúa Giêsu, sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a với những hình thức khác nhau, cầu nguyện khi ăn cơm và thực hành các việc đạo đức bình dân”. (Tông Huấn Gia Đình, số 61)

Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành tử đạo ngày 12-7-1841. Khi con bà là cô Lucia nụ đến thăm trong ngục, bà khuyên: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước thiên đàng.”

Để giúp con cái yêu thích tham dự thánh lễ, cha mẹ cần tập cho chúng quen đi lễ từ nhỏ, thánh lễ Chúa Nhật, và nếu được, cả thánh lễ ngày thường. Hơn nữa, cần chỉ dạy các cháu biết chuẩn bị thánh lễ Chúa Nhật từ những ngày cuối tuần, từ giặt ủi quần áo, cắt móng tay, cho đến đọc trước bài Tin Mừng Thánh Lễ. Nếu được, vào tối Thứ Năm, cả nhà cùng đọc Tin Mừng Chúa Nhật sau đó và cùng chia sẻ. Cũng cần nhắc nhở về tác phong tham dự thánh lễ. Để giúp các cháu ý thức luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật, cần nhắc nhở mọi người trong nhà thu xếp làm xong mọi việc vào ngày Thứ Bảy để Chúa Nhật có thể nghỉ ngơi. Khi hòan cảnh cho phép, thỉnh thoảng nên tổ chức cho cả nhà đi chơi hoặc đi thăm bà con vào ngày Chúa Nhật.

Hằng tháng, cần nhắc các cháu xưng tội. Nhắc cho các cháu khi bắt đầu một mùa phụng vụ mới và bố trí sinh họat gia đình theo tinh thần mùa phụng vụ, như dọn hang đá, ăn chay kiêng thịt, viếng nhà thờ, viếng nghĩa trang… Mỗi lần có thể được, nên thu xếp để cả nhà cùng tham dự phụng vụ với nhau, và nhiều sáng kiến khác như thế.

  Ở số 21, Tông Huấn về Gia Đình còn nhắc ta rằng: “Cách riêng việc tham dự vào bí tích giao hòa và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô sẽ đem lại cho gia đình Kitô hữu ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi chia rẽ, bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là “xin cho tất cả được nên một” (Ga 17,21).

 

 

.20

ĐÀO TẠO TINH THẦN TRUYỀN GIÁO

 

“Tương lai việc truyền giảng Tin mừng tuỳ thuộc phần lớn nơi Hội thánh tại gia. Sứ  mạng tông đồ ấy của gia đình bắt nguồn từ phép rửa tội và đã nhận được nơi bí tích hôn phối một sức đẩy mới để truyền đạt đức tin, để thánh hóa và biến đổi xã hội hiện tại theo ý Thiên Chúa” ((Tông Huấn về Gia Đình, số 52)).

Đầu thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo Nam Triều Tiên đưa ra một chiến dịch truyền giáo, mời gọi mỗi gia đình Công Giáo tìm cách đưa v ề cho Chúa một người. Chiến dịch đã đạt kết quả cao. Năm 2010, dân số Công giáo tại Nam Triều Tiên đã vượt hơn 5,4 triệu người - tức khoảng 11% dân số. Hiện nay tỷ lệ người Công giáo so với dân số Nam Triều Tiên đã cao hơn tỷ lệ người Công giáo so với dân số toàn quốc tại Việt Nam.

Điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội Việt Nam nếu mỗi năm mỗi gia đình đem lại cho Chúa một tín hữu mới?

 Hội thánh đã được Chúa thiết lập làm dụng cụ cứu rỗi nên chỉ ở trong Hội thánh mới có những phương tiện hữu hiệu cho việc cứu rỗi như các bí tích, lời giảng huấn, sự hướng dẫn, chỉ ở trong Hội thánh người ta mới được đón nhận trọn vẹn Chúa Thánh Thần, được kết hợp với Đức Kitô là Đầu và được nên con cái tự do của Thiên Chúa Cha. Hội thánh cho con người cơ hội và giúp con người điều kiện để nắm chắc được sự cứu rỗi. Chính vì thế, mọi phần tử đã gia nhập Hội thánh đều được kêu gọi lưu tâm lo lắng giúp anh chị em mình gia nhập Hội Thánh là Dân Thiên Chúa để được cứu rỗi, được nên thánh.

Có lẽ đa số gia đình công giáo còn tiêu cực trong việc truyền giáo. Nhiều gia đình công giáo sống rất tốt, được bà con người lương ở lối xóm quý mến nể phục, thế nhưng dường như họ ngại nói về Chúa Giêsu, không dám nói hoặc không biết cách nói.

Người công giáo thường ngạc nhiên trước sự nhiệt thành của anh chị em Tin Lành. Không những nhiệt thành, họ còn chăm học hỏi Lời Chúa và học cách truyền giáo rất kỹ lưỡng để có khả năng rao giảng Tin mừng. Đa số các gia đình Tin Lành đều biết cách giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác. Đó là một tấm gương đáng cho người công giáo suy nghĩ. Ước gì mỗi gia đình công giáo cũng là một gia đình truyền giáo, để đáp ứng điều Hội thánh mong đợi.

 

 

.21

ĐÀO TẠO TÌNH GIA ĐÌNH

Theo thánh nữ Têrêxa Chúa Giêsu, ta có thể nói: Yêu thương biến gia đình thành một góc thiên đường.

Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị. Nguyên lý nội tại, sức mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng của một sức mạnh như thế chính là tình yêu: Nếu thiếu tình yêu, gia đình không phải là một cộng đồng các ngôi vị; thì cũng thế, không tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng các ngôi vị.  (Tông Huấn Gia Đình, số 18).

Tình yêu giữa người nam và người nữ trong hôn nhân, và nói rộng hơn, tình yêu thương giữa các phần tử trong cùng một gia đình: giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa tất cả bà con họ hàng, được linh hoạt và nâng đỡ do một sức năng động từ bên trong đưa dẫn gia đình về một sự hiệp thông càng lúc càng sâu xa và đậm đà hơn, làm nền tảng và nguyên lý cho cộng đồng hôn nhân và gia đình.

Nói cách đơn sơ, sự hiệp thông nói đây chính là tình gia đình. Phương tiện luôn sẵn có cho ta để đào tạo tình gia đình chính là các bữa ăn và giờ giải trí hằng ngày. Cần liệu sao để cả nhà có thể ăn chung với nhau. Trong bữa ăn, có thể nhắc nhở nhưng tránh đừng rầy la, đay nghiến. Nên khen ngợi, bông đùa, quan tâm hỏi han việc làm của cha mẹ, việc học của con cái. Cách riêng là quan tâm đến những ngày kỷ niệm: sinh nhật hoặc bổn mạng của từng người. Trong giờ ăn, nên tắt TV để có thể lắng nghe nhau và trò chuyện thân mật. Ăn xong, nên đọc kinh tối liền. Một tuần vài lần, nên có phần giải trí sau giờ kinh tối.

Tình gia đình là tình cảm giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với cha mẹ và giữa anh chị em với nhau.

Để đào tạo tình gia đình cho con cái, chính vợ chồng phải thuận hoà yêu thương trong một sự hiệp nhất không thể phân ly. Tông Huấn viết tiếp:

Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ. Họ chia sẻ với nhau tất cả những gì họ có và chính bản thân họ

“Sự hiệp thông vợ chồng được đánh dấu không những do sự duy nhất, nhưng còn do tính chất bất khả phân ly của nó: Sự kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi họ kết hợp với nhau cách bất khả phân ly” (19-20).

.22

ĐÀO TẠO TÌNH GIA TỘC

Sự hiệp thông vợ chồng tạo nên nền tảng trên đó xây dựng được sự hiệp thông rộng lớn hơn trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với nhau, giữa những người bà con gần và những thành phần khác của gia đình.” (Tông Huấn Gia Đình, số 21)

Trong số 117 Hiển Thánh Việt Nam, có 3 vị cùng một gia tộc. Thánh Giuse Phạm Trọng Tả là anh em thúc bá với Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm. Con trai đầu của Thánh Khảm là Thánh Luca Phạm Trọng Thìn. Cả gia tộc dìu nhau trên đường nên thánh.

Trong sinh hoạt gia đình Việt Nam, những dịp hồn nhiên và thuận lợi để đào tạo tình gia tộc là tết nguyên đán và những ngày giỗ. Những gặp gỡ, những bữa ăn trong những ngày này là dịp để mọi người sống tình hiệp thông không những giữa những người sống mà còn cả giữa người sống và những người đã khuất.

Tết Nguyên đán là dịp sum họp gia đình, kính nhớ tổ tiên và thăm viếng nhau gia tăng tình thân ái. Cần loại bỏ những chi tiết phong tục quá rườm rà cũng như những gì đi ngược với Tin mừng, và lưu ý phát huy những gì tốt đẹp. Khởi đầu là việc dọn tất niên. Từ giữa tháng chạp là thời gian rất thuận tiện để mỗi gia đình tổng kết một năm sinh hoạt. Cả cha mẹ và con cái sẽ cùng nhau làm xong những việc cần thiết còn đọng lại; tổng kết chi thu, thanh toán nợ nần; tổng kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc một năm qua.Tất cả cần xong trước ngày ăn bữa tất niên. Bữa ăn này được coi như để kết toán mọi chuyện: còn gì phải xin lỗi nhau hoặc góp ý xây dựng đều nói hết trong dịp này, để rồi ngày đầu năm sẽ không còn phải nhắc gì đến chuyện cũ, chỉ chúc tuổi nhau thật vui vẻ.

Dịp tết Nguyên đán, trong những gia đình theo đúng tinh thần Việt Nam, ẩn dưới những niềm vui rộn rã đầu xuân là cả một thực tại linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: Cõi hữu hình và cõi vô hình đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên đã khuất như thể đang có mặt giữa con cháu một cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là nhờ các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự gia đình. Từ buổi chiều cuối năm đến chiều mùng ba Tết là một khoảng thời gian dành riêng để tưởng nhớ gia tiên cách thật sâu đậm, và để cho tâm hồn lắng đọng trong niềm cảm mến biết ơn.

Sự sum họp gia đình buổi sáng đầu năm rất quí giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người về nhà ngay, cùng nhau cử hành lễ gia tiên. Sau lễ gia tiên, các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha mẹ, mọi người mừng tuổi nhau. Cũng cần tế nhị tôn trọng sự thân mật của các gia đình khác, đừng vội đến nhà người khác ngay sáng sớm mùng một tết.

Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc, cho nên từ chương trình đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong tình hiệp nhất thân mật. Do đó, nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi người trong gia tộc.

Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin Chúa sớm hoàn thành việc thanh luyện cho những người đã khuất còn vướng mắc hậu quả của tội lỗi.

.23

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐẠO HIẾU

Truyền thống xưa nay của Giáo Hội vẫn quen đón nhận từ nền văn hóa các dân tộc những gì thích hợp để diễn tả những phong phú vô tận của Đức Kitô cách tốt hơn. Và chỉ với sự góp sức của mọi nền văn hóa, những phong phú ấy mới có thể càng lúc càng bộc lộ rõ hơn và Giáo Hội mới có thể tiến tới sự hiểu biết ngày càng trọn vẹn và sâu sắc hơn về chân lý mà Chúa đã ban trọn cho Giáo Hội.” (Tông Huấn Gia Đình, số 10)

Nét nổi bật trong việc hội nhập văn hoá của Giáo Hội Việt Nam là truyền thống Đạo Hiếu. Từ năm 1965, chúng ta đã tiếp nhận lại việc thờ cúng tổ tiên theo cung cách Việt Nam. Đến nay sinh hoạt này đã thành bình thường và tạo được thiện cảm nơi bà con lương dân.

Qua chiến tranh ly loạn, gia phả sổ sách mai một, người thân xa lạc nhau. Ngày nay, khắp nơi dấy lên phong trào tìm cội nguồn, tìm dòng họ. Người Công giáo cần chạy đua với anh chị em lương dân trong việc giáo dục tình gia đình và gia tộc. Sự nhập cuộc này sẽ tô đậm thêm mối thiện cảm vừa nói, hơn nữa, còn giúp ta cơ hội để đem ánh sáng Tin mừng xóa tan bóng tối mê tín đang có nguy cơ trở lại trầm trọng.

Từ đường không còn, mà nếu còn cũng khó có người chăm sóc, vì lắm trường hợp cả gia đình trưởng tộc cũng đã lập nghiệp ở phương xa. Ruộng hương hoả không còn, mà nếu còn cũng khó đem lại đủ lợi tức cho sinh hoạt gia tộc. Để giải quyết những khó khăn ấy, nhiều gia tộc đã có sáng kiến thực hiện sinh hoạt phí hương hoả ngắn hạn và từ đường lưu động. Trong bữa ăn họp mặt gia tộc, sẽ quyên tiền sinh hoạt phí hương hoả cho ngày gia tộc lần sau và mời gọi đăng ký phụ trách bữa ăn họp mặt lần sau. Gia đình tình nguyện phụ trách ngày gia tộc lần sau sẽ nhận số tiền sinh hoạt phí này để lo xin lễ và tổ chức bữa ăn họp mặt. Gia đình này cũng nhận di ảnh và bài vị các tổ phụ đem về lo hương khói ở nhà mình. Như thế, gia đình này cũng đóng vai thủ từ và nhà họ trở thành từ đường cho đến dịp giỗ lần sau. Hằng ngày, mọi người trong gia tộc sẽ cầu nguyện cho gia đình thủ từ. Gia đình này sẽ ở trong trái tim của cả gia tộc và cả gia tộc nên quan tâm thăm hỏi cách đặc biệt, tới lui và nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất. Các gia đình con và cháu trong gia tộc, nam cũng như nữ, đều có thể đăng ký chịu trách nhiệm tổ chức ngày gia tộc. Giải pháp này cũng đem lại an ủi cho những gia đình lẻ loi xa xứ, vì vẫn có cơ hội tình nguyện phụ trách ngày truyền thống gia tộc. Chắc hẳn việc này đòi phải hy sinh cố gắng nhưng là một hy sinh rất đích đáng, đạt được hai chiều kích của Đạo Hiếu, vừa kính nhớ biết ơn Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ vừa xây đắp sự cảm thông trong Gia Đình và Gia Tộc. Kinh nghiệm cho thấy những người con có lòng với tình Gia Tộc luôn được Thiên Chúa chúc lành, được tiên nhân bầu cử, phù hộ và cũng được mọi người trong Gia Tộc thương mến.

 

24.

TÔN TRỌNG CON CÁI

 

Giữa lòng gia đình như một cộng đồng các ngôi vị, cần phải dành một sự chú ý đặc biệt cho đứa con, bằng cách phát huy lòng quí chuộng sâu xa đối với phẩm giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật lớn đối với những quyền lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại. Đó là điều phải dành cho tất cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là đứa con nhỏ tuổi hơn, đang cần đủ mọi thứ, hoặc đối với một đứa con bị đau yếu, đau khổ hay tàn tật.” (Tông Huấn Gia Đình, số 26)

Mỗi người con là một hình ảnh của Thiên Chúa, thế nhưng có những người không biết tôn trọng con cái. Họ mắng chửi con cái thậm tệ và nguyền rủa con cái bằng những lời thô bỉ. Trong giáo dục, chúng ta cần biết tôn trọng con cái, vì các cháu là con của Thiên Chúa trước khi là con của anh chị em. Chính Thiên Chúa trao gởi con cái cho anh chị em nuôi dạy.

Có những phụ huynh vẽ ra trong đầu một khuôn mẫu về đứa con của họ, rồi tìm mọi cách gò ép nó theo khuôn mẫu ấy. Như thế là thiếu tôn trọng con cái và không phải là giáo dục. Giáo dục không phải là uốn nắn con em theo hình ảnh mình muốn cho nó nhưng là chú ý khám phá xem Thiên Chúa muốn gì trên con em mình để giúp nó phát triển như Ngài muốn.

Khi con cái còn bé tí xíu, chúng cần cha mẹ bảo trợ và âu yếm. Nhưng sẽ tới một thời gian sớm hơn ta tưởng chúng đi tìm con người riêng trong cách xử sự và cả trong vấn đề đạo giáo nữa. Thời kỳ ấy sẽ làm cho cả cha mẹ lẫn con cái phải khổ tâm, nhưng bậc cha mẹ sẽ biết xóa mình đi trước nhân cách của đứa con đang lớn lên, và tìm cách giúp con cái đáp lại tiếng gọi của Chúa theo cách của nó, chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc cha mẹ nhớ rằng, dù không nói ra, đứa con sẽ rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống đức tin với lòng xác tín, mà không cưỡng ép chúng làm những việc đạo đức như họ. Ước gì các gia đình Kitô giáo có được một bầu khí vừa che chở vừa cởi mở, trong đó, con cái cảm thấy được tôn trọng và nhìn thấy nơi cha mẹ những tấm gương sáng về lòng tốt, lòng chung thủy, tình thân mật, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm và cần cù làm việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu xa.

Chính vì thế, cũng trong Tông Huấn Gia Đình, ở số 21, chúng ta đọc thấy: “Yếu tố căn bản tạo để nên sự hiệp thông trong gia đình, chính là sự trao đổi có tính cách giáo dục giữa cha mẹ và con cái, làm cho mỗi người đều có thể cho đi và nhận lại. Qua tình yêu, sự kính trọng và vâng lời đối với cha mẹ, con cái mang lại phần đóng góp đặc biệt và không thể thay thế được của chúng cho việc xây dựng một gia đình thật sự nhân bản và Kitô. Điều đó sẽ dễ dàng hơn cho chúng nếu các bậc cha mẹ thực hành nghiêm chỉnh quyền bính của họ như một tác vụ thật sự hay đúng hơn, như một việc phục vụ nhắm tới lợi ích nhân bản và Kitô của con cái. Đặc biệt hơn, như một việc phục vụ nhằm làm cho con cái đạt được một sự tự do thật sự có trách nhiệm, nếu chính các cha mẹ cũng luôn giữ được một ý thức bén nhạy về hồng ân mà họ không ngừng nhận được từ nơi con cái họ.

 Trong giáo dục, tôn trọng con cái có nghĩa là trở nên người bạn của con cái mình.

 

.25

LO CHO CON CÁI HỌC GIÁO LÝ

“Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đi kèm và phong phú hoá mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý. Ngoài ra, nơi nào luật lệ chống tôn giáo chủ ý cản trở việc giáo dục đức tin, nơi nào chủ nghĩa thế tục lan tràn, khiến không thể có tăng trưởng tôn giáo đích thực trong thực tế, thì Hội Thánh nhỏ tức là gia đình trở thành môi trường độc nhất trong đó trẻ nhỏ và thanh niên có thể theo học giáo lý chân chính. Vì thế, các cha mẹ kitô hữu phải hết sức cố gắng chuẩn bị để đảm nhận vai trò làm giáo lý viên cho chính con cái mình và để thực hiện bổn phận ấy với một lòng nhiệt thành không mệt mỏi.” (Tông Huấn về việc Dạy Giáo Lý, số 68 và 39)

“Từ tuổi thơ ấu cho đến khi bắt đầu tuổi trưởng thành, việc dạy giáo lý trở nên một trường học thường xuyên về đức tin và theo sát những giai đoạn trọng yếu của cuộc đời, như một hải đăng soi sáng đường đi của thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên.”

Thánh nữ Anê Lê Thị Thành, 60 tuổi, tuẫn đạo ngày 12-7-1841. Khi giáo quyền thẩm vấn lập hồ sơ phong thánh, cô Lucia Nụ, con gái út của ngài, đã kể về mẹ mình rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng ta đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc giục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội Con Đức Mẹ và vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ.” (Thiên hùng sử, 213)

Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, 33 tuổi. Anh tuyên xưng đức tin và bị giam trong ngục. Đứa con gái nhỏ của anh là Catarina Thông đến thăm và được phép ở lại giúp cha một tháng. Thế nhưng nghe tin ở xứ nhà có lớp giáo lý, anh đã bắt nó phải về để theo học giáo lý. (Thiên hùng sử, tr. 308)

Tiếp nối tấm gương những bậc thánh phụ huynh như thế, các bậc cha mẹ công giáo ngày nay cần quan tâm đến việc học giáo lý của con em. Ở thành phố, trẻ em lắm khi phải đi học thêm quá nhiều; ở miền quê, nhiều em phải phụ cha mẹ lo việc nhà và việc đồng áng. Thế nhưng, ý thức trách nhiệm của mình, bậc làm cha làm mẹ cần biết dành mọi ưu tiên cho việc học giáo lý của con em, chủ động giúp con em thu xếp thời giờ để có thể đi học giáo lý thường xuyên đều đặn.

.26
CHĂM SÓC VIỆC HỌC CỦA CON EM

“Khắp nơi đều cố gắng đẩy mạnh công cuộc giáo dục mỗi ngày một hơn. Trước con số học sinh gia tăng mau chóng, người ta gia tăng trường ốc và cải tiến học đường, thiết lập thêm những cơ sở giáo dục khác. Các phương tiện giáo dục và giảng huấn được canh tân dựa vào những kinh nghiệm mới. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực lớn lao để đem lại những lợi ích trên cho mọi người, nhưng vẫn còn rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên chưa được hưởng sự huấn luyện căn bản và biết bao người khác vẫn còn thiếu một nền giáo dục thích hợp để phát huy chân lý và bác ái.” (Lời mở đầu của Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo).

Giúp được cho con em biết ham học là đã tạo được một thuận lợi rất lớn cho việc giáo dục toàn diện. Chỉ cần con em hiếu học là cha mẹ đã đỡ lo nhiều. Muốn vậy, cha mẹ cần dành thời giờ quan tâm tới việc học của con cái.

Trước hết cần giúp các cháu nắm vững mục đích việc học. Thánh Bênađô nói: “Người hiếu kỳ học để mở mang kiến thức; người kiêu ngạo học chỉ để nâng cao địa vị trong xã hội; còn người mến Chúa thì học để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi của mình và tha nhân”.

Như thế, đối với người Kitô hữu, học là để nên người và để phục vụ hữu hiệu. Do đó, cần tránh thái độ học chỉ để đối phó với thi cử, nhưng cần học kỹ, học rộng và biết cân nhắc phê phán để nắm vững sự thật. Cần suy nghĩ dựa trên thực tế đời thường để gắn liền sự học với cuộc sống và con người.

Cũng cần giúp các cháu biết cách để học cho kết quả.

1. Muốn học tập kết quả, phải bền chí. Tâm trí phải làm việc tối đa để tìm hiểu cặn kẽ những điều chưa hiểu. Học là việc khó nhưng nhớ đến thành quả tốt đẹp mai sau, ta sẽ có nghị lực.

2. Ưu tiên cho việc học tập, biết gác lại mọi thú tiêu khiển, những chuyện vặt vãnh để tập trung vào việc học.

3. Ngày nào học xong bài ngày ấy. Khi phải làm nhiều bài tập ở nhà, cần chia thời gian làm bài ra nhiều lúc để tránh tình trạng dồn dập, nhồi nhét.

4. Ngăn nắp thứ tự.

5. Biết cách đọc sách.

6. Bắt đầu một môn học, cần nắm vững đối tượng, mục đích và phương pháp, tức là môn học ấy nhằm tìm hiểu những gì, giúp ta phát huy tài năng nào và phải học môn ấy cách nào mới kết quả tốt.

7. Xem trước nội dung bài thầy sẽ giảng hôm sau.

8. Ghi lại những điểm cần thiết khi nghe giảng. Nên chia tập vở thành hai phần: Phần tự ghi chú và phần ghi chép những lời thầy cô giảng để dễ dàng ôn bài cả hai phần.

9. Mạnh dạn phát biểu, nêu thắc mắc: Nếu có điểm gì chưa hiểu, nên xin thầy cô giảng lại ngay.

10. Mỗi tối, xem lại bài đã nghe giảng trong ngày, viết lại các ý chính và cố gắng ghi nhớ.

11. Học nhóm: Khi học nhóm, các bạn có điều kiện để thảo luận, tìm hiểu nhiều cách giải bài tập khác nhau và giảng cho nhau.

12. Tự ra đề và làm bài kiểm tra: Nên “đánh dấu đỏ” những điểm quan trọng có thể trở thành đề thi, tự đặt câu hỏi kiểm tra và tự giải các câu hỏi ấy, nhưng vẫn phải học toàn bộ bài, tránh học tủ.

13. Làm thật nhiều bài tập: Ngoài những bài tập thầy cô cho, bạn cứ làm thêm nhiều bài tập khác.

14. Bài làm phải sạch sẽ: Hai bài giống nhau, bài nào sạch đẹp hơn thường gây ấn tượng tốt cho người đọc hơn.

 

.27

GIEO MẦM ƠN GỌI

“Tôi xin gửi đến các gia đình một lời kêu gọi đặc biệt: Xin các bậc cha mẹ, cách riêng những người làm mẹ, hãy quảng đại hiến dâng cho Thiên Chúa những người con được Chúa mời gọi tiến tới chức linh mục. Xin hãy vui mừng cộng tác vào tiến trình ơn gọi của con cái. Tôi đoan chắc rằng, bằng cách ấy họ sẽ được cảm nghiệm hạnh phúc của Đức Trinh Nữ Maria: “Người được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và hoa quả lòng người cũng được chúc phúc” (Lc 1,42).

“Với những người trẻ hôm nay, tôi muốn nhắn nhủ điều này: Các bạn hãy ngoan nguỳ hơn hữa trước ơn Chúa Thánh Thần; hãy để cho vang vọng lên trong lòng các bạn những nỗi mong chờ lớn lao của Giáo Hội và của nhân loại. Đừng ngại mở rộng cõi lòng trước tiếng gọi của Chúa Kitô. Hãy khám phá ra ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu đang hướng thẳng về phía các bạn và hãy hăng hái đáp lại lời Ngài đang đề nghị các bạn nối gót theo Ngài cho đến cùng.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước”, số 82)

Kể về chân phước Anrê Phú Yên, cha Đắc Lộ xác nhận: “Đúng 3 năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy”. Được rửa tội 3 năm trước khi chết, tức là năm 1641. Chính năm nầy, vào ngày Đại lễ Phục Sinh (31-03-1641) lần đầu tiên cha Đắc Lộ đến Phú Yên, tàu cập bến tại cửa biển Bà Đài, tức Vịnh Xuân Đài Ngày nay. Cha Đắc Lộ được quan Trấn Biên tiếp đón niềm nở, cha lưu lại đây 2 tháng thăm viếng mục vụ cộng đoàn tín hữu Phú Yên. Trước khi rời Phú Yên, cha Đắc Lộ đã rửa tội cho 90 người tại nhà nguyện trong Dinh Trấn, Anrê Phú Yên là một trong 90 tân tòng nầy.

Năm 1642 cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên lần thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ lời với cha Đắc Lộ, xin theo cha giúp việc truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ chối vì Anrê còn trẻ, hơn nữa trong thời buổi cấm đạo việc di chuyển của đoàn truyền giáo có đông người là điều nên tránh. Tuy nhiên rồi cha đã phải thua sự kiên trì nài nỉ của Anrê và của người mẹ đạo đức, đến không để van xin cho con út quý yêu của mình được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’ mà đến để van xin được đồng hành yêu mến và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thế là năm 1642, Anrê khăn gói lên đường với cha Đắc Lộ về Hội An, theo học trường “Thầy giảng Hội An” do cha thành lập.

Hoàn cảnh xã hội ngày nay tạo ra một thực tế là phần đông các gia đình đều ít con, do đó các gia đình thường ngại dâng hiến con cái mình cho Chúa. Thế nhưng gia đình nào quảng đại với Chúa thì sẽ cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa không bao giờ chịu thua sự quảng đại của chúng ta. Ước gì ngay khi con cái còn nhỏ, cha mẹ đã giúp chúng cảm nghiệm được nhu cầu lớn lao của Giáo Hội và nhân loại, cảm nghiệm được tiếng gọi thúc bách của Chúa Cứu Thế. Cả khi các cháu bắt đầu lớn, cũng đừng ngần ngại gợi ý các cháu dâng mình cho Chúa. Gieo được ý thức ấy vào lòng các cháu, dù chúng không trở thành linh mục hay tu sĩ thì ít ra chúng cũng trở  nên những người có tấm lòng, những người tốt.

 

.28

VIỆC CHUẨN BỊ HÔN NHÂN

Việc chuẩn bị hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một tiến trình tuần tự và liên tục. Thật vậy, nó gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị tức thì.

Việc chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu, là hướng dẫn để con cái biết tự chủ và biết sử dụng đúng đắn các xu hướng riêng của mình, để biết cách nhận xét và gặp gỡ những người khác phái, và những chuyện khác như thế. Ngoài ra, còn phải có một sự đào tạo vững chắc về đời sống thiêng liêng và giáo lý, để hiểu được rằng hôn nhân là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, nhưng vẫn không loại trừ khả năng tận hiến cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc tu sĩ.

Việc chuẩn bị gần sẽ dựa trên nền tảng ấy và là một công cuộc lâu dài: Trình bày hôn nhân như một tương quan liên vị phải được phát triển liên tục giữa người nam và người nữ, khuyến khích các cháu đào sâu những vấn đề về tính dục hôn nhân và về việc làm cha mẹ có trách nhiệm, với những hiểu biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh vực sinh lý và y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để giáo dục con cái; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố cơ bản cho một nếp sống gia đình ổn định, như việc làm chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh, quản lý khôn ngoan, có khái niệm về kinh tế gia đình vv...

Việc chuẩn bị liền trước cuộc cử hành bí tích phải diễn ra trong những tháng cuối và nhất là trong những tuần trước lễ cưới để mang lại một ý nghĩa mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho việc quen gọi là điều tra hôn phối mà giáo luật đòi buộc. Một việc chuẩn bị như thế vốn cần thiết cho tất cả mọi trường hợp, lại càng khẩn cấp hơn cho những đôi hôn phối còn gặp nhiều thiếu sót và khó khăn về mặt giáo lý và thực hành Kitô giáo.” (Tông Huấn Gia Đình, số 66)

Phần đông con cái anh chị em sẽ bước theo ơn gọi hôn nhân. Chính cuộc sống của bậc cha mẹ phải là tấm gương giúp con cái thấy rõ hôn nhân là một con đường nên thánh.

Bí tích hôn nhân mời gọi đôi bạn mỗi ngày phải sống việc thánh hóa bản thân và thánh hóa gia đình. Cũng do bí tích ấy họ có bổn phận và được ban ơn để biến đổi toàn thể đời sống họ thành một “hy lễ thiêng liêng” liên tục. Như lời Công Đồng dạy: “Như thế, giáo dân cung hiến cho Thiên Chúa chính thế giới này nhờ biết phụng thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống thánh thiện của họ” (Hiến chế Tín lý Ánhng Muôn n, s 34).

Muốn con cái nên người, cha mẹ cần theo đuổi lý tưởng nên thánh. Đừng sợ gieo cho con cái ý tưởng nên thánh và nên thánh lớn ngay giữa đời thường. Đừng lo sợ một cách sai lầm rằng nếu các em theo đường tâm linh là mình mất con! Thành quả lớn nhất của giáo dục là đào tạo được con cái thành những vị thánh. Chúng ta cần giúp con cái xác tín rằng mình được gọi sống với Thiên Chúa, giúp con cái khao khát trở nên người con tự do, biết làm chủ bản thân và biết dùng mọi sự theo ý Cha trên trời.

 

.29

TỦ SÁCH GIA ĐÌNH

Tiếp tục suy nghĩ về giáo dục gia đình, chúng ta cùng suy nghĩ về việc chọn sách vở cho con cái.

Trong Tiểu Sử Tự Thuật, chương 1, Thánh nữ Têrêxa Avila viết: “Cha tôi rất thích đọc những sách đạo đức và người cũng sắm nhiều sách bằng quốc ngữ cho con cái đọc nữa. Cùng với sự ân cần mẹ tôi dạy chúng tôi cầu nguyện và gây cho chúng tôi lòng sùng kính đối với Đức Mẹ và các thánh, những sách ấy bắt đầu nhen nhúm những ước muốn thánh thiện trong tôi khi tôi mới được chừng sáu hay bảy tuổi.” Thế nhưng ở chương tiếp theo, Thánh Nữ lại cho biết mẹ ngài thích đọc sách kiếm hiệp, khiến ngài cũng bắt chước mà đọc say mê và vì thế mà phai lạt hết lòng đạo đức đã có trước đó.

Thánh nữ ghi lại cả hai mặt lợi hại của việc đọc sách, để nhắn nhủ các bậc làm cha mẹ phải quan tâm tới việc đọc sách của con cái.

Như thế là cha mẹ có trách nhiệm phải chọn sách cho con cái. Mỗi gia đình cần có một tủ sách, cả cho người lớn và trẻ em. Không chỉ gồm Thánh Kinh, sách kinh, sách giáo lý mà còn gồm cả những sách bổ ích cho việc trau giồi kiến thức và giải trí.

Ngày nay, trẻ em của chúng ta đọc rất nhiều sách vô bổ, còn những sách đáng xem thì chẳng bao giờ động đến. Điều đó khiến một số người chống chế khi nghe nói tới một tủ sách gia đình. Thế nhưng kinh nghiệm của Thánh Inhaxiô, vị sáng lập Dòng Tên, sẽ khích lệ chúng ta. Vị thánh này trước kia là một hiệp sĩ, chỉ thích đọc chuyện kiếm hiệp. Đến khi bị thương phải nằm điều trị, ông muốn đọc sách kiếm hiệp nhưng trong tủ sách bệnh viện chỉ có sách về Gương Chúa Giêsu và về cuộc đời các thánh. Ông đã đọc cho đỡ buồn nhưng rồi nhờ đó mà được ơn Chúa đánh động, trở nên một tín hữu nhiệt thành, một linh mục tông đồ và một vị thánh lớn.

Thế nhưng nếu thấy cha mẹ đọc, một lúc nào đó các em sẽ đọc.

Nên khuyến khích con em hưởng ứng hội thi đọc sách giáo xứ.

Tủ sách gia đình cũng còn là nơi cất giữ những CD phim ảnh và âm nhạc lành mạnh, có giá trị giáo dục cao về giáo lý cũng như về nhân bản.

Nên nhờ các vị đặc trách về văn hoá trong giáo xứ hoặc nhờ các giáo lý viên đến xem tủ sách và cho ý kiến. Cũng có thể nhờ các vị mua giúp những sách khó kiếm tại địa phương.

 

.30

CÁC PHƯƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

Nói đến truyền thông xã hội là nói đến sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, là những phát minh tân kỳ của kỹ thuật ngày nay, đang trở thành những lợi khí sắc bén nhất trong việc đem tin tức, hình ảnh, quảng bá tư tưởng và lối sống đến cho mọi người ở khắp nơi trên thế giới, gây nên những hiệu quả tốt xấu trái ngược. Công Đồng Vaticanô II đã dùng một trong 16 văn kiện của mình để hướng dẫn Dân Chúa về vấn đề này. Trong đó, ở số 16-18, chúng ta đọc thấy:

“Để xử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội, những người xử dụng thuộc những tuổi tác và văn hóa khác nhau cần phải được huấn luyện về lý thuyết và phần thực hành một cách thích hợp và riêng biệt. Để mau đạt tới kết quả, lớp giáo lý cũng phải có phần trình bày và giải thích giáo thuyết và quy luật công giáo về vấn đề này.

Thánh Công Đồng này nhắc lại cho các con cái của Giáo Hội bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp các nhật báo công giáo, các tạp chí, các tổ chức phim ảnh, các đài và các chương trình phát thanh, phát hình công giáo nhằm mục đích chính là để phổ biến và bảo vệ sự thật, và cung cấp nền giáo dục Kitô giáo cho xã hội loài người. Đồng thời Thánh Công Đồng khẩn khoản mời gọi các đoàn thể và cá nhân có nhiều năng lực trong lãnh vực kinh tế và kỹ thuật, hãy tự ý và rộng rãi dùng tài nguyên và kinh nghiệm của mình mà nâng đỡ những phương tiện này khi chúng phục vụ nền văn hóa đích thực và việc tông đồ.

Mọi giáo phận trên thế giới hằng năm phải cử hành một ngày lễ để dạy dỗ các tín hữu về bổn phận của họ đối với vấn đề này, mời gọi họ cầu nguyện nhiều theo ý chỉ này, và xin họ đóng góp cho mục đích này: nghĩa là thành thật hy sinh cho việc phát động, nâng đỡ và cổ võ những tổ chức và sáng kiến của Giáo Hội trong vấn đề này theo nhu cầu của thế giới công giáo.”

Giáo huấn Công Đồng nhắc nhở giáo dân cần phải ý thức về tầm quan trọng của truyền thông xã hội, mời gọi mọi người cổ võ việc xuất bản báo chí lành mạnh và hữu ích, phim ảnh mỹ thuật thuần túy, giúp phổ biến những tin tức, bình luận xác thực, xây dựng: để nâng cao tâm trí, mưu ich cho xã hội và tôn giáo.

Công Đồng cũng nhắc nhở mọi người, nhất là các phụ huynh, cần phải rèn luyện trí phán đoán, phân biệt điều hay, việc dở, hướng dẫn cho các bạn trẻ biết đường lựa chọn. Ngoài việc phải giúp con cái tránh những sách vở, báo chí và phim ảnh đồi trụy đang phổ biến khắp nơi, bậc cha mẹ ngày nay còn cần phải quan tâm hướng dẫn con cái biết sử dụng internet cách hữu ích. Đây là một lãnh vực phức tạp, bậc làm cha mẹ cần trao đổi với các phụ huynh khác để có được những kinh nghiệm thực tế.


II. GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO




.01

GIA ĐÌNH LÀ HỘI THÁNH NHỎ

“Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến phục: và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42.47).

Những lời ấy đã trở nên một khuôn mẫu cho mọi cộng đoàn Hội thánh, từ giáo phận, giáo xứ cho đến Hội thánh tại nhà là các gia đình. Một nếp sống Hội thánh trưởng thành với 5 sự chuyên cần:

Một chuyên: chuyên cần giáo lý.

Hai chuyên: vững chí hiệp thông.

Ba chuyên: bền lòng phụng vụ.

Bốn chuyên: vui thú nguyện cầu.

Năm chuyên: cùng nhau làm chứng.

Trước hết, về giáo lý, cần giúp con em sớm tiếp xúc với Lời Chúa. Bổn phận đó trước hết là của gia đình, như lời Đức Giáo Hoàng dạy: “Trong nhiều hoàn cảnh ngày nay, việc dạy giáo lý ở gia đình đã trở nên cần thiết đến mức tuyệt đối” (Tông huấn Gia đình 52đ).

Thứ hai, để xây dựng tình hiệp thông gia đình, mọi  người trong nhà cần phải quyết tâm không để bất cứ điều gì làm cho chia lìa nhau, mau mắn giao hòa với nhau, tha thứ cho nhau mỗi khi có điều gì xúc phạm đến nhau. Mỗi người cần cố gắng riêng phần mình và tìm cách để tạo bầu khí chung.

Thứ ba, bền lòng phụng vụ. Mỗi tín hữu và mỗi gia đình cần tranh thủ để tham dự đều đặn các thánh lễ Chúa nhật, và nếu được, cả thánh lễ ngày thường. Những nơi thiếu linh mục, không có thánh lễ, chúng ta cố gắng tham dự các buổi phụng vụ Lời Chúa và rước Mình Thánh Chúa trong các Chúa nhật. Nhớ xưng tội thường xuyên để có thể rước lễ đều đặn. Thật là tốt đẹp nếu cả gia đình thường xuyên cùng đi tham dự thánh lễ với nhau.

Thứ tư, vui thú nguyện cầu: Các gia đình chúng ta ngày nay cũng cần nhớ lời Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện luôn luôn, không được nản chí, phải tỉnh thức mà cầu nguyện (Lc 18,1; Mc 14,38). Cách riêng là giờ kinh chung sáng tối. Để kinh nguyện thấm sâu vào đời sống và để giờ cầu nguyện chung thêm phong phú, mỗi người trong gia đình cần phát huy một đời sống cầu nguyện cá nhân: Thích đọc Lời Chúa riêng, suy gẫm riêng, lần hạt riêng, tập chiêm niệm trong đời sống, tập cầu nguyện đang khi làm việc…

Thứ năm, cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô. Đó là lệnh chính Chúa truyền cho các môn đệ trước khi về trời. Tiếp nối gương các thánh tử đạo, các gia đình công giáo Việt Nam làm chứng bằng đời sống thánh thiện, bằng công việc phục vụ tận tâm và khiêm nhường trong lối xóm, trong các môi trường lao động và bất cứ nơi nào mình được sai đến.

Là Hội Thánh tại gia, nếp sống gia đình công giáo phải là nếp sống 5 chuyên cần, như trong thư chung 1980,  Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã từng nhắn nhủ: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa” (số 12c).

Kinh nghiệm mục vụ cho thấy tình yêu thương hiệp nhất của cộng đoàn là một sức hút mãnh liệt lôi cuốn người ngoài đến với Hội Thánh. Vì thế, mọi giáo xứ, giáo họ, mọi gia đình và mọi người trong giáo phận cần cam kết bảo vệ và phát huy sự hiệp nhất.

Một cách cụ thể, tình hiệp nhất cần bắt đầu từ gia đình nhỏ tới gia đình lớn, rồi đến họ hàng và thông gia. Để bảo vệ và xây dựng sự hiệp nhất, cần bắt đầu từ chính mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã hạ mình đến tận cùng để giao hòa loài người với Thiên Chúa và nối kết mọi người với nhau. Vì ích chung, mỗi người cần biết xóa hẳn mình đi, dẹp bỏ tự ái và sẵn lòng nhường chỗ cho người khác. Sức mạnh để xóa mình cho hiệp nhất chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Mỗi lần rước lễ, ta cần nhắc lại lời cam kết xóa mình cho hiệp nhất.

Tại gia đình, tình hiệp nhất được biểu lộ nơi các bữa ăn và nơi giờ kinh tối. Ước gì mỗi gia đình con cái Chúa thực sự là một góc thiên đường giữa trần gian, nhờ biết tha thứ, yêu thương, đùm bọc nhau và biết nhắc bảo nhau sống thật tốt lành.  Tại giáo xứ, tình hiệp nhất lộ rõ nơi mọi sinh hoạt, cách riêng là nơi thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa Nhật. Mọi người cần tích cực góp phần vào những sinh hoạt ấy.

 

.02

NOI GƯƠNG GIA ĐÌNH NADARÉT

Nơi gia đình Nadarét, do ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật nhiều năm tháng. Bởi vậy, gia đình ấy là nguyên mẫu và là tấm gương cho mọi gia đình Kitô hữu. Và Gia Đình ấy có một không hai trong thế giới, đã trãi qua một cuộc sống âm thầm và lặng lẽ trong một thị trấn nhỏ Palestina; đã bị thử thách do sự nghèo khổ, bắt bớ và lưu đầy; đã tôn vinh Thiên Chúa một cách trổi vượt và tinh khiết, sẽ không quên cứu giúp các gia đình Kitô hữu và cả mọi gia đình trên thế giới, để họ trung thành với các bổn phận hằng ngày của họ, để họ biết cách chịu đựng những âu lo và xáo trộn trong cuộc sống, để họ quảng đại mở lòng ra trước những nhu cầu của người khác, để họ vui vẻ hoàn tất chương trình Thiên Chúa đã định cho họ.

Ước gì thánh Giuse, là “người công chính”, là người công nhân không biết mỏi mệt, là người bảo vệ nguyên vẹn tuyệt đối những gì đã được ủy thác, luôn luôn gìn giữ các gia đình ấy, bênh vực họ, soi sáng cho họ!

Ước gì Đức Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Giáo Hội, cũng trở nên Mẹ của “Giáo Hội tại gia”! Ước gì nhờ sự trợ giúp từ mẫu của Mẹ, mỗi gia đình Kitô hữu đều có thể thực sự trở nên một “Giáo Hội nhỏ”, trong đó mầu nhiệm của Giáo Hội Đức Kitô được phản ảnh và sống lại! Mẹ là Nữ Tỳ của Chúa, ước gì Mẹ là gương mẫu cho mọi gia đình biết khiêm tốn và quảng đại đón nhận ý của Thiên Chúa! Mẹ là Người Mẹ đau khổ dưới chân thập giá, ước gì Mẹ cũng ở đó để xoa dịu những đau khổ và lau sạch nước mắt của những ai đang ưu phiền vì những khó khăn gia đình họ đang gặp phải!

Và ước gì Chúa Kitô, là Vua vũ trụ, là Vua các gia đình, Đấng đã hiện diện ở Cana, cũng hiện diện trong mi tổ ấm Kitô hữu, để thông ban cho nó ánh sáng niềm vui, sự bình an và sức mạnh. Hôm nay là đại lễ kính Vương quyền của Ngài, tôi cầu xin Ngài cho mọi gia đình biết quảng đại đóng góp phần độc đáo của mình, để Vương quốc Ngài được hiển trị trên thế giới, “Vương quốc của sự sống và sự thật, của ơn sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hoà bình”, Vương quốc mà lịch sử đang lần bước tiến về. (Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Gia Đình, số 86)

 

.03

MỘT BẦU KHÍ
HẠNH PHÚC VÀ THÁNH THIỆN

“Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng.” (Tuyên Ngôn Giáo Dục Kitô Giáo, số 3)

 Giáo dục không phải là dạy học. Người ta không thể chia các đức tính tốt thành một giáo trình giảng huấn, mỗi năm mấy môn, mỗi môn mấy tiết học… Trong việc giáo dục, sẽ không thể xé lẻ ra từng điểm, nhưng phải nhào trộn tất cả thành một bầu khí có khả năng giúp mỗi người trong gia đình triển nở và đạt tới được những điểm ấy.

Bầu khí ấy phải là một bầu khí hạnh phúc và thánh thiện, ở đó mỗi người đều có thể yêu thương và cảm thấy mình được yêu thương, ở đó mỗi người đều thấy mình được tín nhiệm và có thể tín nhiệm người khác, mỗi người đều cảm thấy mình được lớn lên thật sự trong tương quan với mọi người và với Thiên Chúa.

Không cần phải nhiều tiện nghi cũng không cần phải sung túc mới có được bầu khí đó, nhưng cần phải có một cái nhìn rõ rệt đầy xác tín thế nào là hạnh phúc thật. Cần phải tin tưởng vững chắc rằng hạnh phúc chúng ta kiếm tìm trước hết phải là hạnh phúc siêu nhiên: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có hạnh phúc. Điều chênh lệch thực sự giữa tình trạng hạnh phúc và tình trạng bất hạnh chính là ở chỗ ta có cảm nhận được có Chúa đang ngự trong gia đình hay không.

Khi cải cách dòng Cát Minh, Thánh Nữ Têrêxa có cao vọng biến mỗi cộng đoàn tu sĩ thành một góc thiên đường, nhờ mỗi người đều biết sống yêu thương, khiêm nhường và từ bỏ. Ngày nay, chính Thiên Chúa cũng đang ước mơ thực hiện điều ấy cho mỗi gia đình anh chị em, để ngay giữa thế gian này mỗi gia đình anh chị em đã là một góc thiên đường.

 

.04

PHẨM GIÁ NGƯỜI PHỤ NỮ

Tông Huấn Gia Đình, số 22 và 24 nêu 3 ý lớn:

1. Người phụ nữ phẩm giá và trách nhiệm bình đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của người nam. Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao cả hết sức có thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mà Giáo Hội tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, gọi Mẹ là E-và mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ đã được cứu chuộc.

2. Đáng tiếc là hiện nay trong xã hội vẫn tồn tại một tâm thức sai lạc nhìn con người không phải như một ngôi vị, nhưng như một đồ vật, một món hàng mua bán, để phục vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục. Nạn nhân đầu tiên của tâm thức ấy là người phụ nữ. Tâm thức ấy gây ra những kết quả thật cay đắng, như sự khinh rẻ người nam và người nữ, tình trạng nô lệ, việc áp bức những người yếu đuối, sách báo phim ảnh khiêu dâm, nạn mãi dâm và mọi thứ kỳ thị gặp phải trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối công việc v.v...

3. Thượng Hội Đồng Gíam Mục về gia đình kêu gọi tất cả mọi người hãy dấn thân hành động để có thể loại bỏ hẳn những kỳ thị ấy, và để nhờ đó mà đạt tới chỗ kính trọng trọn vẹn hình ảnh Thiên Chúa đang chiếu tỏa nơi mọi người chẳng trừ ai.

Áp dụng giáo huấn ấy vào phạm vi gia đình, chúng ta cần biết tri ân đón nhận con cái Thiên Chúa ban, không phân biệt giới tính. Cần dạy các cháu trai ngay từ nhỏ biết tôn trọng nữ giới và dạy con gái ngay từ nhỏ phải biết tự trọng.

Ở đây cũng cần nói riêng về y phục. Y phục không những để che thân và trang hoàng thể xác mà còn để giúp ta giữ nết na trong sạch, xứng đáng con cái Chúa. Nước ta từ xưa đã có những cách ăn mặc kín đáo, nết na, được các nước khen ngợi. Thế nhưng với làn sóng văn minh tiêu thụ, nhiều kiểu ăn mặc lố lăng mất nết đang phá hoại nền phong hoá nước nhà, và nó cũng còn xâm nhập cả vào nơi nghiêm trang thờ phượng. Người công giáo phải cương quyết tránh những cách ăn mặc hở hang, những hàng vải thưa mỏng, những kiểu may bó sát, những kiểu cách khêu gợi, lố lăng và mất nết. Người phụ nữ công giáo cần nhớ lời dạy của thánh Phêrô: “Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa. Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người trông cậy vào Thiên Chúa, cũng đã trang điểm như thế” (1Pr 3,3-5).

Thánh nữ Têrêxa Avila viết về bà mẹ của ngài rằng: “Mẹ tôi cũng là một phụ nữ nhân đức, đoan trang, tiết hạnh và suốt đời mang bệnh. Dù rất nhan sắc, người chẳng bao giờ màng đến điều ấy; và dẫu chết lúc mới ba mươi ba tuổi, người đã trang sức như những bậc cao niên. Mẹ tôi là một phụ nữ rất trầm tĩnh và rất thông minh. Suốt đời, người đã chịu nhiều thử thách cam go và chết một cách thánh thiện.”

  một phụ nữ như thế sinh ra một người con đại thánh thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên.

 

.05
NGƯỜI NAM LÀ CHỒNG VÀ LÀ CHA

Bên trong sự hiệp thông của cộng đồng hôn nhân và gia đình, người nam được mời gọi sống sự tự hiến của mình trong vai trò là chồng và là cha.

Tình vợ chồng đích thực giả thiết và đòi hỏi rằng người chồng phải có sự kính trọng sâu xa đối với phẩm giá của vợ mình, như thánh Ambrôsiô đã viết: “Con không phải là chủ của nàng nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không phải làm nô lệ ... Hãy đáp lại những quan tâm lo lắng nàng đã dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng”. Người chồng phải sống với vợ mình bằng một “tình bạn trong ngôi vị thật đặc biệt”. Nếu là Kitô hữu, người chồng còn được mời gọi phát triển một thái độ yêu thương mới mẻ, để diễn tả với vợ mình tình bác ái tế nhị và mạnh mẽ mà Chúa Kitô đã có đối với Giáo Hội.

Tình yêu đối với người vợ đã trở thành mẹ, và tình yêu đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người nam đến chỗ hiểu biết và thể hiện việc làm cha của mình. Kinh nghiệm cho thấy, sự vắng mặt của người cha gây ra những sự thiếu quân bình tâm lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong các tương quan gia đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha lại có tính cách áp bức, nhất là ở những nơi còn có hiện tượng mà người ta gọi là "đề cao đàn ông", nghĩa là khi những lợi điểm nam tính được đề cao quá đáng làm giảm giá phụ nữ và cản trở sự phát triển các mối tương quan lành mạnh trong gia đình.

Khi biểu lộ tình cha của Thiên Chúa và sống lại tình cha ấy trên mặt đất này, người nam được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong gia đình. Để chu toàn trách vụ này, người cha cần phải quảng đại lãnh lấy trách nhiệm đối với sự sống được thai nghén trong lòng người mẹ, cần phải chú tâm chia sẻ cố gắng giáo dục con cái với vợ mình, công việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, nên một lời chứng về đời sống Kitô hữu trưởng thành để hướng dẫn con cái vào trong kinh nghiệm sống động về Chúa Kitô và về Giáo Hội một cách hữu hiệu hơn.” (Tông Huấn Gia Đình, số 25)

Phẩm giá người nam là chồng và là cha thật cao cả. Thế nhưng ngày nay, phẩm giá ấy luôn có nguy cơ bị tàn phá vì nạn uống rượu. Tệ nạn say sưa đã tàn phá không biết bao nhiêu gia đình trên thế giới. Tệ nạn ấy đưa đến những tội lỗi khiến Trái Tim Chúa vô cùng đau đớn. Ước gì Anh Em là những người chồng, người cha đã được chịu phép rửa tội, luôn ý thức về phẩm giá cao quý của mình và cương quyết giữ đúng phẩm cách người công giáo. Anh Em hãy can đảm lên, để bảo đảm hạnh phúc cho mình và cho gia đình, để bảo đảm sự nên người của con cái.

.06
NHỮNG NGƯỜI GIÀ CẢ
TRONG GIA ĐÌNH

Có những nền văn hóa biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt và một tình yêu thương lớn lao đối với những người cao niên: thay vì bị gạt ra khỏi gia đình hoặc bị coi như một gánh nặng vô ích, người già vẫn được hội nhập vào cuộc sống gia đình, tiếp tục dự phần vào đó một cách tích cực và có trách nhiệm - dù vẫn phải tôn trọng sự độc lập của gia đình mới - và nhất là thi hành một sứ mạng quý báu là trở nên chứng nhân cho quá khứ và nguồn mạch khôn ngoan cho các người trẻ và cho tương lai.

Ngược lại, có những nền văn hóa khác, nhất là do hậu quả của sự phát triển kỹ nghệ và đô thị một cách vô trật tự, đã đưa và còn tiếp tục đưa những người cao niên vào những hình thức sống ngoài lề không thể chấp nhận được, là nguyên nhân gây ra nhiều đau khổ chua cay cho họ, và làm cho biết bao gia đình bị nghèo nàn đi về mặt tinh thần.

Hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải khuyến khích mỗi người biết khám phá và coi trọng vai trò của những người già trong cộng đồng dân sự và Giáo Hội, và cách riêng trong gia đình. Trong thực tế, cuộc sống của những người già giúp chúng ta thấy rõ bậc thang các giá trị nhân bản; làm cho người ta thấy sự tiếp nối các thế hệ và chứng tỏ cách tuyệt diệu về sự tùy thuộc lẫn nhau của Dân Thiên Chúa. Ngoài ra, những người cao niên còn có đặc sủng vượt qua những hố phân cách giữa các thế hệ trước khi chúng xuất hiện. Biết bao trẻ em đã gặp được sự thông cảm và tình thương trong đôi mắt, trong những lời nói và những vuốt ve âu yếm của những người già! Và biết bao nhiêu người già vui hưởng những lời được linh ứng trong Kinh Thánh rằng: “Triều thiên của người già là đàn con cháu của họ” (Cn 17,6). (Tông Huấn Gia Đình, số 27)

Truyền thống Việt Nam kính trọng người già không chỉ trong gia đình và gia tộc nhưng cả ngoài làng xóm. Những đổi thay của xã hội đang có nguy cơ làm phai nhạt tâm tình đáng quý này. Phần đông các gia đình vẫn còn rất hiếu kính với người già và chăm sóc chu đáo, nhưng cũng có một số gia đình sao lãng. Chúng ta cần nhắc nhở các cháu biết kính yêu người già trong làng xóm, nhờ đó các cháu sẽ thêm kính yêu các bậc lão thành trong gia đình và gia tộc.

 

.07
HƯỞNG ỨNG TIẾNG GỌI HOÁN CẢI

“Trước sự bất chính do tội lỗi gây ra thường ngăn cản gia đình không thể thực sự tự thể hiện chính mình và không thể sử dụng các quyền căn bản của mình, tất cả chúng ta phải chống lại bằng một sự hoán cải trong tinh thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ riêng mình để bước theo Chúa Ki-tô thập giá: một sự hoán cải như thế không thể nào không gây một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân trên chính các cơ cấu xã hội.” (Tông Huấn Gia Đình, số 9)

 Để chiến thắng tội lỗi, để không sa đi ngã lại, anh chị em cần tìm ra nguyên nhân tại sao mình vấp phạm, những dịp nào thường khiến mình vấp phạm. Diệt được nguyên nhân, sẽ diệt được hậu quả. Còn nuôi dưỡng nguyên nhân, sớm muộn cũng gặt hậu quả. Nguyên nhân của tội lỗi nằm sâu hơn các dịp tội. Nguyên nhân tội lỗi nằm ở nơi những xu hướng xấu trong lòng ta, mà chúng ta quen gọi là bảy mối tội đầu. Kiêu ngạo, ham của, mê dâm, nóng giận, mê ăn uống, ganh ghét, lười biếng là bảy mối tội đầu. Những mối tội đầu này rất nguy hiểm vì chúng là những căn nguyên đưa đến các tội lỗi khác: Lún sâu vào một mối nào trong các mối tội đầu ấy người ta đều dần dần mất hết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và mất hết tin, cậy, mến.

Cần dám nhìn thẳng vào những xu hướng xấu của mình, cần dám thẳng thắn nhận lỗi, cần dám tự tố cáo mình thì mới dứt khoát được.

Muốn chiến thắng tội lỗi, phải xa lánh các dịp tội. Còn lân la với dịp tội, trước sau gì cũng vấp ngã. Một người có quan hệ bất chính với một ai đó thì phải tuyệt đối tránh gặp người ấy. Một người hay bài bạc hoặc nghiện rượu, cần tránh gặp những người bạn dễ đưa mình tới những sai phạm ấy. Để tránh những tư tưởng xấu, cần tránh những câu chuyện thiếu đứng đắn, những sách báo và phim ảnh vô luân hoặc những gì khêu gợi. Phải cẩn thận canh chừng đôi mắt: “Đèn của thân thể tức là mắt. Nếu mắt ngươi đơn thuần, thì toàn thân ngươi sẽ sáng láng” (Mt 6, 22).

Muốn chiến thắng tội lỗi, đừng bào chữa cho những tội trong quá khứ và cần biết dứt khoát với mọi tội trong hiện tại. Những tội trong quá khứ thì đã qua rồi, lắm khi không còn đáng sợ nữa. Chính những tội ta còn ôm ấp trong hiện tại mới đáng sợ.

Sau cùng, muốn chiến thắng tội lỗi, cần biết tạo cho mình một môi trường tốt. Năng xem sách tốt, giao thiệp với những người đứng đăn, chăm chỉ làm việc, siêng năng lãnh nhận các bí tích và nhất là năng chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin mừng, tâm hồn ta sẽ luôn tươi sáng.

Sửa đổi con người mình, quả là gánh nặng hơn mọi gánh nặng. Thế nhưng hãy vững tin đến với Trái Tim Chúa Giêsu. Chính Ngài đã hứa: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tất cả hãy đến với Ta, Ta sẽ cho được nghỉ nơi lại sức” (Mt 11,28). Hãy đến với Chúa Giêsu và trút hết cho Ngài mọi gánh nặng, kể cả gánh nặng tội lỗi, để Ngài ủi an và nâng đỡ.

.08

PHÁT HUY BA NHÂN ĐỨC
TIN, CẬY, MẾN

 “Cần phải có một sự hoán cải liên lỉ trường kỳ. Sự hoán cải vừa đòi hỏi phải thoát ly từ bên trong khỏi mọi sự dữ và gắn bó với sự lành toàn diện, vừa diễn ra một cách cụ thể như một chương trình luôn đưa người ta đi xa hơn. Như thế có một tiến trình năng động được phát triển, từ từ tiến tới trước, nhờ biết dần dần đem các ơn Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu quyết liệt và tuyệt đối của Ngài hội nhập vào trong đời sống bản thân và xã hội của con người.” (Tông Huấn Gia Đình, số 9)

Hoán cải phải gồm 2 động tác mới trọn vẹn: Rời bỏ đường cũ rồi phải bước theo đường mới, dứt khoát với tọi lỗi rồi còn phải gắn bó với Chúa Kitô.

Gắn bó với Chúa Kitô trên đường mới là tin, cậy, mến. Đó là ba nhân đức hướng thần. Những nhân đức này gọi là hướng thần hoặc có tính Thiên Chúa, vì hai lý do, thứ nhất là vì chúng hướng tới Thiên Chúa, thứ hai là vì chúng là ơn Thiên Chúa ban chứ không phải tự sức người mà có được. Về những nhân đức luân lý, chúng ta có thể cùng một mẫu số chung với anh chị em các tôn giáo khác, nhưng ba nhân đức hướng thần là gia sản riêng của Kitô Giáo, không có ở đâu khác. Chính vì thế, chúng ta cần quan tâm phát huy những ơn đặc biệt này của Chúa.

Tin là suy phục chủ quyền của Thiên Chúa trên đời ta, phó thác sinh mạng và tương lai của ta cho Chúa, để cho Ngài làm chủ và điều khiển mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của ta. Tin là mau mắn và vui vẻ vâng nghe tiếng Chúa trong lòng ta,  là luôn đứng về tiếng Chúa trong mỗi giây phút đời ta.

Cậy là nương tựa vào Thiên Chúa mà cố gắng hết sức ta, dù ta rất yếu đuối. Có Chúa là sức mạnh luôn ở với ta (x. Mt 28,20; Ga 16,33) và bênh vực ta (Rm 8,31), dù gặp khó khăn thử thách đến đâu, ta vẫn vững lòng không nao núng. Ta biết Chúa thương ta và sẽ đưa ta tới bờ bến tốt đẹp nhất của đời người. Trông cậy cũng là tin tưởng vào mọi lời Chúa hứa: Ai bỏ mọi sự vì Chúa sẽ được gấp trăm ở đời này và được sự sống hạnh phúc ở đời sau (Mc 10,28-31; 2Tm 2,11-12).

Yêu mến Thiên Chúa là tha thiết tìm kiếm Ngài, tìm kiếm vinh quang Ngài và ý muốn Ngài. Yêu mến Chúa là luôn hướng lòng về Chúa, ước ao kết hợp với Chúa. Yêu mến Chúa là luôn làm đẹp lòng Chúa và mong muốn nên giống Chúa trong mọi sự. Chúa muốn ta yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn ta, và vì yêu mến Chúa thì cũng yêu mọi người anh em như chính mình ta.

Cách đơn giản nhất để thường xuyên sống ba nhân đức hướng thần là luôn nhớ Chúa đang hiện diện, sống như thấy Chúa đang nhìn, và chu toàn bổn phận hiện tại với tình yêu mến.