SIÊU THOÁT

 

Chúa Nhật 13A Thường Niên

 

 

Đức Giêsu có phải là một mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không ? Một đàng, Người nêu gương và kêu gọi mọi người hi sinh chính bản thân.   Một đàng, Người lại muốn biến bản thân thành trung tâm cuộc sống con người.   Thế nghĩa là gì ?

 

THEO THẦY

 

Không gì thân thiết với con người bằng tương quan gia đình.   Chính từ gia đình, con người hiện hữu và phát triển.   Càng sống dưới mái ấm gia đình, con người càng đi sâu vào tương quan tình cảm và nội tâm.   Thế nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước Trời đã đến gần,” (Mt 10:7) và “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21)    Không có gì cao trọng hơn Nước Trời. Nước Trời là một giá trị tuyệt đối, đến nỗi người ta phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13:44.46) mới mua sắm nổi.   Nước Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời.   Quả thực, “chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1 Tx 1:5)

Để mua được một giá trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh cả tương quan gia đình.  Tương quan gia đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần “những gì mình là”, tức là chính bản thân.   So với Nước Trời, bản thân cũng là một giá trị quá nhỏ. Nhưng giá trị nhỏ bé này vẫn là một thực tại vô cùng quí giá không dễ gì đánh đổi. Chỉ đức tin mới thấy được chiều kích vĩ đại của Nước Trời và mới mạc khải cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16)  “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh,” (Cl 1:18) và “chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.” (Ep 5:30)  Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói : “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10:39)   Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái tôi vĩ đại.   Không những không mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều kích lớn lao và một giá trị tuyệt vời hơn.

Nhưng trong cuộc sống, nhiều lúc hi sinh gần như đồng nghĩa với đổi chác.  Người ta hi sinh là để tìm lại được cái gì cân xứng hoặc trổi vượt hơn.   Thật vậy, những hi sinh của “một phụ nữ giàu sang” (2 V4:8) tại Sunêm cho ngôn sứ Eâlisa đã không uổng phí.   Vì hiếu khách, vợ chồng đã đặc biệt dành nơi ăn chốn ở xứng đáng cho ngôn sứ Eâlisa,  “là một người của Thiên Chúa, là một vị thánh.” (2 V4:9)   Phần thưởng của ngôn sứ thật trọng hậu.   Không những bà được ông bảo đảm có con trai (x. 2 V 4:8-17).   Sau này, khi con bà chết, ông cũng đã làm cho cậu sống lại và trả lại cho bà (x. 2 V 4:31-37).    Như thế, chính khi hi sinh thời giờ, sức lực và tiền của cho ngôn sứ, bà đã được đền bù cân xứng.  

Nếu một ngôn sứ còn đem lại được phần thưởng lớn lao như thế, Đức Giêsu sẽ có phần thưởng nào cho người môn đệ  ?   Khi chạm tới mạng sống, mọi hi sinh đều phải khựng lại, mọi tính toán đều phải chấm dứt.   Thế mà Đức Giêsu dám đòi hỏi người môn đệ phải hi sinh chính bản thân là giá trị đáng quí nhất trên đời.   Đó là một đòi hỏi tuyệt đối.   Dĩ nhiên hi sinh đó sẽ được đền bù cân xứng.   Đúng hơn còn vượt quá điều người ta mong đợi.   Đức Giêsu khẳng quyết : “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gập bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29; Mc 10:28-30; Lc 18:28-30)   Bỏ đi những liên hệ tình cảm để đi sâu vào nguồn mạch tình yêu vô cùng lớn lao là Thiên Chúa, còn gì lợi hơn ?   Một khi đã đón nhận được nguồn tình yêu đó, ngay từ đời này, người môn đệ đã được quan tâm và che chở.   Thực tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm trong cái chết của Người,” (Rm 6:3) để “chúng ta cũng được sống một đời sống mới như Người nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.” (Rm 6:7)  Đời sống mới “đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1:14)  Nói khác, khi theo Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12), và hoàn toàn được giải thoát (x. Ga 8:36).   Đó là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và “đón tiếp Thầy”. Từ đó, cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng từ mãnh liệt trước mắt mọi người.

Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình.   Hi sinh cái tôi để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái tôi này có vĩ đại tới đâu, cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”.   Chính Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha.  “Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15:3)   Trong vườn Cây Dầu, Người đã “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39)   Ý Cha đã thực thi hoàn toàn trong cái chết của Đức Giêsu.   Như vậy, Người đã từ bỏ chính mình.   Muốn “theo Thầy”, môn đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9:23)  

Xét cho cùng, khi sống  kiếp phàm trần, Đức Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối.    Từ lời nói tới việc làm, Đức Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha (x. Ga 14:10).   Bởi đấy, nếu “vì yêu mến Thầy” (Ga 16:27) mà anh em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10:39) thì “chính Chúa Cha sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16:27)   Nơi đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể vượt lên trên tất cả để đạt tới “một cái gì tuyệt đối, tột đỉnh và nền tảng.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 24/06/2002)  Như thế, “theo Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt đối là chính Thiên Chúa.  Thực vậy, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10:40)   Đức Giêsu còn nhấn mạnh : “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30)    Không những Người hiệp nhất với Chúa Cha, nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (x. Mt 10:40) và người nghèo (x. Mt 26:40).  Như vậy, khi “theo Thầy”, người môn đệ biết mình theo ai và phải làm gì.

 

 

SIÊU THOÁT

 

Càng từ bỏ càng siêu thoát.   Nhân loại hôm nay đang cần những con người biết từ bỏ mọi sự để tìm chân lý.   Nói khác, con người siêu thoát là một nhu cầu cấp thiết nhất cho sự sống còn của nhân loại.  Nếu chết dí dưới đống dữ kiện khoa học và kỹ thuật, con người sẽ không tìm được hướng giải thoát cho chính cuộc sống.   Nhân loại hôm nay đang căng thẳng vì lo âu mọi mặt.   Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy các Kitô hữu hãy cống hiến cho những người đang ưu tư đau khổ “những câu giải đáp của chân lý và hi vọng” bằng cách trình bày cho họ một triết lý siêu việt (Zenit 24/06/2002).   Triết lý đó không đến với những con người suốt ngày cắm đầu vào những đống dữ kiện khổng lồ và chết ngộp trong đời sống dư thừa vật chất.   “Song song với những khám phá khoa học lạ lùng và những tiến bộ kỹ thuật kỳ diệu, chúng ta đang chứng kiến hai mất mát lớn : mất mát Thiên Chúa và hiện hữu, mất mát linh hồn và nhân phẩm.   Đôi khi sự kiện này sinh ra những hoàn cảnh khó khăn cần đến những câu trả lời trong chân lý và hi vọng.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 24/06/2002)    Nếu không từ bỏ chính mình, con người sẽ không bao giờ tìm thấy những câu trả lời đó và sẽ không bao giờ khám phá thấy mình là ai.   Quả thực, “văn hóa ngày nay nói và biết nhiều về con người, nhưng hình như không biết con người là ai.   Thực vậy, con người chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn về chính mình  trong ánh sáng Thiên Chúa.  Con người là “hình ảnh Thiên Chúa – được tình yêu tạo dựng và được an bài sống hiệp thông đời đời với Thiên Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 24/06/2002)    Hình ảnh này chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu và những ai đang“theo Thầy”.

 

Lm. Đỗ Vân Lực, OP



 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà