CHÚA NHẬT LỄ LÁ

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:         Phi-líp-phê 2: 6-11

          Trước khi học hỏi và suy niệm bài đọc Tân Ước của Chúa Nhật Lễ Lá, có lẽ chúng ta thử tò mò nhận xét một chi tiết tuy nhỏ, không mấy ai để ý tới, nhưng lại rất quan trọng, trong các giờ kinh sáng và chiều của Các Giờ kinh Phụng vụ Tam Nhật Vượt Qua. Ðó là phần Xướng đáp trích đoạn thư Pl 2:6-11 và diễn tiến như sau:

- Kinh chiều Thứ V Tuần Thánh:  "Vì ta, Ðức Ki-tô đã sống phục tùng

                                                Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết."

- Kinh sáng & chiều Thứ VI:        "Vì ta, Ðức Ki-tô đã sống phục tùng

                                                Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

                                                Chết trên cây thập tự."

- Kinh sáng & chiều Thứ VII:       "Vì ta, Ðức Ki-tô đã sống phục tùng

                                                Cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

                                                Chết trên cây thập tự.

                                                Chính vì thế,

                                                Thiên Chúa đã siêu tôn Người

                                                Và tặng ban danh hiệu

                                                Trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu."

          Rõ ràng Các Giờ kinh Phụng vụ muốn diễn tả ý nghĩa nền tảng của Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh, phù hợp với diễn tiến Phụng vụ Tuần Thánh, bằng cách mỗi ngày thêm một câu (hoặc cụm từ), từ Ðức Ki-tô "sống phục tùng đến nỗi bằng lòng chịu chết" đến thực sự "chết trên cây thập tự", và vì thế Người được Thiên Chúa "siêu tôn" và "tặng ban danh hiệu". Tư tưởng của thánh Phao-lô hoặc bài thánh thi của Hội Thánh sơ khai, được sử dụng như cái sườn hoặc dàn bài cho những suy niệm và cầu nguyện trong tất cả Tuần Thánh. Như vậy chúng ta có thể hiểu được tầm quan trọng của bài đọc Tân Ước hôm nay như thế nào.

          Ðể ngộ được ý nghĩa sâu xa của việc Ðức Ki-tô đã "trút bỏ vinh quang", trước hết chúng ta cần tâm niệm Ðấng Cứu Thế của chúng ta có hai bản tính: Thiên Chúa và con người. Ðức Ki-tô là Thiên Chúa làm người. Ngài đã hạ mình thật thấp để thay măt cho loài người chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha và Ngài đã hoàn toàn vâng phục để chúng ta không những được ơn tha thứ của Thiên Chúa, mà còn được chia sẻ với bản tính Thiên Chúa. Hai bản tính liên kết chặt chẽ trong Ngôi Hai đã cùng hành động để thực hiện kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa.

          Chắc chắn Ki-tô hữu chúng ta cảm thấy được an ủi và phấn khởi vì biết rằng tình Chúa yêu thương chúng ta thật vô bờ qua mầu nhiệm Nhập Thể. Thiên Chúa của chúng ta không sống xa cách, lạnh nhạt, nghiêm khắc như quan tòa, biên chép ghi lại tội lỗi chúng ta để phạt chúng ta xuống hỏa ngục. Nhưng Người là Thiên Chúa yêu thương, sai Con Một đến để sống với chúng ta, để chết cho chúng ta và để đưa chúng ta về nhà Cha. Thử hỏi có tư tưởng lớn nào hoặc bộ óc siêu việt loài người nào có thể phát minh được một kế hoạch kỳ diệu như vậy để biểu lộ tình yêu không? Chỉ có tâm can Thiên Chúa mới cho chúng ta một thứ "bằng chứng" tình yêu như vậy thôi.

          Ðức Ki-tô là bằng chứng tình yêu ấy. Ngài đã "làm chứng" bằng cả cuộc đời Ngài. Vì ta. Ngài đã đến, đã sống, đã rao giảng, đã chết, tất cả là vì chúng ta và cho chúng ta. Kinh Tin kính đã khẳng định điều này: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế,... Cuộc sống và cái chết của Ðức Ki-tô được gồm tóm trong hai tiếng "phục tùng". Không phải phục tùng do áp lực của sức mạnh, nhưng do động lực của lòng yêu mến Thiên Chúa và loài người. Phục tùng trong yêu thương giúp Ðức Ki-tô "bằng lòng chịu chết", một hành vi của ý chí. Rồi từ ý chí chuyển sang hành động: Ngài đã thực sự chết trên cây thập tự.

          Sau khi nêu lên tấm gương phục tùng của Ðức Ki-tô, thánh Phao-lô hướng về chúng ta. Ngài viết: "Vậy, anh em là những người luôn luôn vâng phục..., anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người" (c. 12-13). Từ những lời này, chúng ta càng thấy rõ hơn những gì phải làm, phải sống. Chúng ta có thể hiểu những lời của thánh Phao-lô như thế này: "Nếu tôi muốn sống như người con cái vâng phục Thiên Chúa, thì tôi phải biết khiêm nhượng, tôn kính Chúa (= run sợ) và tích cực hành động để góp phần cộng tác của mình vào ơn cứu độ Thiên Chúa đã dành cho mình." Nhưng điều quan trọng là chúng ta có để cho lòng yêu thương của Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của chúng ta hay không.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Ðoạn thư Pl 2:6-11 sẽ giúp tôi chuẩn bị tham dự các nghi thức và cử hành Phụng vụ Tuần Thánh như thế nào? Ðây có phải là tư tưởng chính hướng dẫn tôi hiểu ý nghĩa mầu nhiệm Ðức Ki-tô và đặc biệt cử hành mầu nhiệm ấy trong Tuần Thánh không? Tại sao?

          Bài đọc Tân Ước hôm nay đã để lại nơi tôi hình ảnh nào về Ðức Ki-tô? Hình ảnh ấy nói gì với cá nhân tôi?

          "Vì loài người" là lý tưởng sống của Ðức Ki-tô. Lý tưởng này cũng mời gọi tất cả chúng ta lấy làm lý tưởng của mình. Vậy tôi đã chấp nhận và đã sống lý tưởng ấy như thế nào?

          Mỗi lần suy niệm về tình Chúa yêu thương, chúng ta cần phải ý thức tình yêu thương ấy đã tác động đến ý chí và hành động của chúng ta như thế nào. Tôi đã thực sự ý thức điều này chưa và tôi đã để cho tình yêu Chúa tác động tới mức độ nào?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thánh ca mùa Chay.

 

Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà