ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC TÔNG ĐỒ

(Luca 24,35-48 – CN III PS - B)

 

                                               

 

1.- Ngữ cảnh

Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn:

          - Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với McMt;

          - Các môn đệ Emmau (cc. 13-35);

- Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một (các ông nhận ra Chúa: cc. 36-43; Người ban sứ điệp Phục Sinh: cc. 44-49);

* Một kết luận ngắn với câu truyện Lên Trời và việc các môn đệ tạ ơn trong Đền Thờ, từ đó Tin Mừng đã khởi sự.

Toàn khối này là một đơn vị văn chương chắc chắn, do hành động, nơi chốn và thời gian.

 

          Trong TM Lc, Đức Giêsu chỉ hiện ra tại Giêrusalem, và Nhóm Mười Một không ra khỏi Thành (c. 48). Điều này trái ngược với ba Tin Mừng kia (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc 16,7; Ga 21). Tác giả Lc có biết truyền thống nói về việc Đức Giêsu hiện ra tại Galilê (24,6; x. Mt 28,7; Mc 16,7), nhưng dường như ngài đã chọn cách lờ đi để duy trì cấu trúc đơn giản của hai quyển sách của ngài: quyển Tin Mừng là một chuyến đi lên Giêrusalem, còn quyển Công vụ là sự lan tỏa của sứ điệp khởi đi từ Giêrusalem (Cv 1,8).

          Nhờ lược đồ này, tác phẩm Lc (TM+Cv) có một sự đối xứng rất khéo và nêu bật được tính duy nhất của biến cố Phục Sinh.

          Cũng do mục tiêu ấy, tác giả đã làm cho chương 24 có tính duy nhất hoàn toàn giả tạo về thời gian: Mọi biến cố nối đuôi nhau xảy ra trong vòng một ngày (mồ trống; Emmau; Hiện ra; Lên trời). Viễn tượng của Lc mang tính thần học hơn là thời gian. Tác giả muốn trình bày trong một cảnh (“xen”) duy nhất toàn bộ mạc khải về Phục Sinh: thực tại không thể phủ nhận là thân xác của Đấng Phục Sinh; mạc khải về tư cách Đức Chúa của Người (vì thế có truyện Lên trời); sứ mạng truyền giáo. Ngày này là ngày Phục Sinh, đỉnh điểm của Tin Mừng, đích điểm của thời gian Đức Giêsu sống ở trần gian.

          Ngày này cũng mở ra một giai đoạn mới, và Lc đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Có lẽ tất cả các tác giả Tin Mừng đều biết rằng cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu là khởi điểm cho hoạt động truyền giáo (Mt 28,19-20; Mc 16,15-20; Ga 20,21.23), nhưng chỉ có Lc mới dành cả một quyển sách để viết về hoạt động này. Và khi tách quyển này với quyển Tin Mừng, tác giả cho thấy sự tách biệt giữa thời gian của Đức Giêsu và thời gian của Giáo Hội. Ngài cũng làm điều ấy bằng hai lần nhắc tới Lên trời: ở cuối quyển TM III, biến cố Lên trời biểu lộ cuộc tôn vinh Đức Giêsu bên hữu Chúa Cha và kết thúc mạc khải  Đức Giêsu là Đức Chúa; ở đầu sách Công vụ, biến cố Lên trời mời gọi các tông đồ bắt tay vào sứ mạng truyền giáo.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (24,35-43);

2) Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (24,44-48).

 

3.- Vài điểm chú giải

- Bình an (36): Khi kéo theo việc mất niềm tin, sự chia ly chỉ tạo ra buồn sầu và hoang mang (cc. 17.38). Nếu cách biệt mà vẫn sống trong đức tin, thì sẽ có niềm vui (c. 52) và bình an (c. 36). Đây không chỉ đơn giản là lời chào shalôm, mà là việc ban tặng “sự bình an thiên sai” đã được các ngôn sứ loan báo và Đức Giêsu hứa ban trước khi chịu chết (x. Ga 14,27). Đây là sự bình an đạt được với giá là cái chết của Người trên thập giá; đây là việc giao hòa nhân loại với Thiên Chúa trong máu Đức Kitô (x. Rm 5,1.10; 2 Cr 5,18-19;…).    

- Các ông kinh hồn bạt vía (37): Khi đọc Mc (16,9-20), ta thấy Nhóm Mười Một không tin (x. Mc 16,10.13). Còn ở trong Lc, hai môn đệ Emmau trở về chưa kịp làm chứng thì Nhóm Mười Một cùng với các bạn đã tuyên xưng đức tin rồi (24,33)! Thế nhưng khi Đức Giêsu hiện ra sau đó, các ông lại kinh hồn bạt vía và ngờ vực (cc. 36-38). Tác giả Lc đã chấp nhận tình trạng thiếu mạch lạc đó vì một ý hướng thần học: trong số các tông đồ, Phêrô rõ ràng có một vị trí riêng biệt. Ông có một vai trò phải đóng sau tấn bi kịch Thương Khó (Lc 22,31-32). Nay để cho thấy lời của Đức Kitô đã đến lúc ứng nghiệm, Lc nhắc đến việc Đức Giêsu hiện ra với Phêrô trước khi hiện ra tại nhà Tiệc Ly, và ghi một câu cho thấy lòng tin của Phêrô là nguồn mạch cho đức tin của những người khác (c. 34). Bài học là đức tin của mọi thế hệ tương lai sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ và, đặc biệt, của Phêrô.                      

- sao còn ngờ vực (38): Trong thời gian hoạt động, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu lòng tin, chẳng hạn khi gặp bão trên hồ (x. Mt 8,23tt). Mối nguy hiểm đã gặp cũng như quyền năng đã chứng kiến của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp họ học được bài học: cũng như xưa kia Người đã ngủ trong thuyền, thì nay cũng thế, ở trên thập giá, Người đã chỉ “ngủ” đi vài giờ; trong mồ, Người chỉ “nghỉ” thôi (x. Lc 23,46; 8,52; Ga 11,11), nhưng Người đã “trỗi dậy” (Lc 24,6: động từ egeirô có nghĩa là “thức dậy”, “sống lại”). Không phải là Thiên Chúa đã che mắt họ, nhưng chính lòng kém tin đã khiến họ không nhận ra Đức Giêsu. Chính cái chết mà nhờ đó Đức Giêsu cứu chuộc thế gian, lại bị các môn đệ coi như một thất bại không thể cứu chữa. Và kể từ khi Đức Giêsu được an táng, các môn đệ không tin nữa! Họ từ chối tin khi các phụ nữ đến mang tin nói rằng ngôi mộ trống và các thiên thần đã hiện ra nói rằng Người đang sống (c. 23). Chỉ có Phêrô (và người môn đệ Đức Giêsu thương mến, theo Ga 20,2tt) có vẻ hơi bị lung lay, nên đã chạy đến mộ để xem hư thực thế nào. Ông nhận thấy rằng thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa; chỉ còn các dây băng. Nhưng không phải vì đó mà Phêrô đã được thuyết phục (c. 12). Do đó, mộ trống không phải là một bằng chứng rõ ràng về sự phục sinh, mà chỉ là một dấu chỉ thôi.  

- nhìn chân tay (39): Các dấu chỉ không phải là vô ích; chúng có có một vai trò quyết định trong việc phát sinh đức tin. Các dấu chỉ dường như còn cần thiết nữa để người ta nhận ra được Đức Giêsu sau khi Người sống lại. Nhưng tùy tình trạng nội tâm của mỗi người mà các dấu chỉ nên rõ nhiều hay ít. Đối với người phụ nữ tội lỗi đang yêu, chỉ cần Đức Giêsu gọi đúng tên bà: “Maria” (Ga 20,16). Đối với người môn đệ Đức Giêsu thương mến, chỉ cần ngôi mộ trống (Ga 20,8) hoặc mẻ cá lạ lùng (Ga 21,4-7). Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc bẻ bánh (Lc 24,30-35). Đối với các tông đồ, cần phải có những dấu chỉ rõ ràng hơn: thấy các vết thương, chạm đến thân thể Người, và cả con cá mà Người ăn trước mặt họ (24,39-43). Với “khúc cá nướng”, tác giả Lc muốn cho thấy thực tại thể lý của Đấng Phục sinh, bởi vì đây là khó khăn lớn đối với các độc giả hy-lạp (x. Cv 17,32). 

- Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin (41): Tác giả Lc tìm ra một lời bào chữa cho sự cứng tin của Nhóm Mười Một.

- Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh (44): Có khi Đức Giêsu đã trách các môn đệ là đã không tin vào những lần Người hiện ra, nhưng những dịp này không loại bỏ tính cần thiết của các dấu chỉ, nên theo một nghĩa nào đó, các dấu chỉ có vẻ cốt yếu hơn là các cuộc hiện ra (x. chuyện Tôma: Ga 20,29).

Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không ngừng trách các môn đệ cũng như người Do Thái khi họ yêu cầu các dấu lạ. TM Lc đã nhắc đi nhắc lại: lẽ ra chứng tá của Kinh Thánh đã đủ rồi!  Kể từ lâu rồi, “Luật Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh” (= Kinh Thánh) đã loan báo tất cả những gì vừa được thực hiện (x. Lc 24,27.32).

Ý tưởng Môsê đã làm chứng cho Đức Kitô thuộc về truyền thống Nhất Lãm như ta thấy trong hoạt cảnh Hiển Dung. Tuy nhiên, trong khi MtMc chỉ ghi nhận rằng Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Đức Giêsu, Lc lại xác định: “Hai vị nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”, tức gợi ý rõ ràng đến mầu nhiệm Vượt Qua (Lc 9,31; so sánh với 24,14.20). Tác giả Lc cũng là người duy nhất đã ghi giữ một lời Đức Giêsu nói nhằm khẳng định rằng chứng tá của Môsê và các Ngôn sứ đã đủ thuyết phục như chứng tá của một người chết sống lại (x. Lc 16,27-31). TM IV cũng nhấn mạnh không kém đến tầm quan trọng của chứng tá của Môsê về Đức Giêsu (Ga 5,46-47). Tuy nhiên, chỉ có Lc mới trở lại với đề tài này trong bài tường thuật về Phục Sinh.

Tự hỏi Đức Giêsu đã trích những bản văn Kinh Thánh nào khi Người hiện ra, thì mất công vô ích. Tác giả Lc đã chỉ ghi lại những quy chiếu tổng quát về toàn bộ Cựu Ước theo các phần lớn được phân biệt trong các bài đọc ở hội đường (24,44): Luật Môsê (bản séder), các ngôn sứ (bản haftara) và các Thánh vịnh (bản mizmor). Dĩ nhiên, tác giả đã có thể nghĩ đến những bản văn rõ rệt. Khi ghi lại các bài giảng của các tông đồ, sách Cv đã ghi một loạt những đoạn văn quy chiếu: Tv 16,8-11 (Cv 2,24-28; 13,34-37); Tv 2,7 và Is 55,3 (Cv 13,32-34); Tv 118,22 (Cv 4,11)…   

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (35-43)

Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông và chào chúc: “Bình an cho anh em!”. Sự bình an của Người là ân huệ phục sinh của Người. Người không ban cho các môn đệ bất cứ đảm bảo nào là các ông sẽ sống yên ổn suốt đời, các ông sẽ có một cuộc sống luôn luôn huy hoàng, không phải thiếu thốn, đau khổ hay lo lắng gì. Chính Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh, đã không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù nghịch, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng Đấng Chịu đóng đinh đây cũng chính là Đấng Phục Sinh. Đã có lúc Người bị điệu đi đến cái chết, run rẩy khiếp sợ, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng Vẫn Sống, Đấng đã vượt thắng cái chết và nay không thể chết nữa. Như thế, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy rằng họ không sợ rơi vào nguy cơ là bị hủy diệt hoàn toàn. Ngay cái chết cũng không thể làm hại chúng ta vĩnh viễn, phương chi các thiếu thốn khác làm gì có thể gây hại bao nhiêu cho đời sống chúng ta! Ân huệ phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự bình an của một cuọc sống không bị xáo trộn, nhưng là sự bình an được sống trong tình trạng yên hàn, bảo đảm và che chở phát xuất từ quyền lực và tình yêu của Thiên Chúa. Nền tảng và bảo đảm cho lời chào và ân huệ ấy là chính Đấng Phục Sinh trong sự sống mới của Người, một sự sống đã thắng được cái chết.   

 

* Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (44-48)

Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x. Cv 1,21t).

 

+ Kết luận

          Đức Giêsu đã thuyết phục các môn đệ tin vào thực tại của đời sống mới của Người. Người đưa các ông đến chỗ hiểu Kinh Thánh và hành trình Người theo lâu nay. Người chỉ cho các ông thấy nội dung của việc loan báo và nhiệm vụ truyền giáo. Người củng cố các ông trong tư cách chứng nhân, bằng cách hứa là các ông sẽ nhận được quyền năng từ trên cao (Lc 24,49). Tất cả những điểm này đang đưa chúng ta đến chỗ kết của TM III, và chuyển chúng ta sang phần thứ hai của tác phẩm Luca, đó là sách Cv. Thánh Thần sẽ được Chúa Cha ban xuống trên Họi Thánh phôi thai (Cv 2,1) để làm cho các thành viên trở thành những chứng nhân minh mẫn và can đảm, quảng đại và kiên trì dấn thân làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Kitô chết trên thập giá đã thật sự sống lại, bằng xương bằng thịt. Sự kinh hồn bạt vía và ngờ vực của các tông đồ lại hữu ích cho chúng ta: chính thái độ khó tin đó của các ông lại là một đảm bảo cho tính vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin của chúng ta không dựa trên chứng tá của những con người dễ tin, dễ bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đức tin của chúng ta dựa trên những con người thực tế, đòi hỏi những dấu chỉ và bằng chứng. Chứng tá của các ông càng mạnh mẽ do chỗ là chứng tá không phải của một thái độ dễ tin theo chuyện mê tín nhưng là một sự cứng tin đã thắng vượt nhờ óc phê bình.

2. Nhiều người đương thời chúng ta vẫn coi Đức Giêsu Phục Sinh chỉ là một bóng ma, một thứ gì đó thay vì là một Đấng, là một huyền thoại thay vì là một Con Người đang sống. Theo họ, Đức Kitô cùng lắm chỉ là một điển hình cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một giáo lý và những gương sống đáng phục…, nhưng bây giờ Người không còn sống nữa, Người chẳng “ngự bên hữu Chúa Cha” trên trời, cũng chẳng hiện diện trong hình bánh hình rượu đã truyền phép… Trách nhiệm của các Kitô hữu là làm chứng bằng đời sống và lời nói rằng Người thật sự vẫn là Người Sống.

3. Vấn đề không phải là chuyện nhạy cảm hoặc kinh nghiệm cá nhân chủ quan. Vấn đề là tin, tin tất cả những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta bằng Kinh Thánh và bằng Thánh Truyền. Vấn đề là tin những gì Hội Thánh đã và đang dạy khắp nơi. Tin vào Đấng Phục sinh, là chấp nhận chứng từ của một nhóm đông đảo gồm các tông đồ và các môn đệ của Đức Giêsu đang khẳng định trước mặt thế giới và sẵn sàng chấp nhận tử đạo rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá nhưng đã trở lại với cuộc sống trong một thân xác hiển vinh không còn lệ thuộc các hoàn cảnh thông thường của thời gian và không  gian nữa.

4. Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều trở ngại, do chẳng hạn có những Kitô hữu, vì hèn nhát, đang sống ích kỷ hơn, sống hà tiện hơn, kiêu ngạo hơn, trơ trẽn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng tất cả chúng ta biết rằng Đức Kitô Phục Sinh muốn họ hoán cải: Người muốn tha thứ tất cả và biến họ trở thành tông đồ của Người, và điều này không bao giờ là quá trễ, nhằm nối tiếp các Tông Đồ đầu tiên.

                                                                                      Lm PX Vũ Phan Long, ofm


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B