CUỘC QUANG LÂM CỦA CON NGƯỜI

(Máccô 13,24-32 – CN XXXIII TN - B)

 

1.- Ngữ cảnh

Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường thuật cuộc Khổ Nạn (Mc 14–16), chúng ta gặp bài Diễn từ cánh chung (Mc 13). Bài này khởi đi từ lời Đức Giêsu loan báo rằng Đền Thờ Giêrusalem huy hoàng tráng lệ như thế đó sẽ bị tàn phá và từ câu hỏi bao giờ sẽ xảy ra chuyện ấy. Bài Diễn từ này được ngỏ với bốn môn đệ Đức Giêsu đã gọi đầu tiên (x. 13,3 và 1,16-20), nhưng có một giá trị tổng quát (13,37). Bài không chỉ liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, nhưng còn nhìn tổng quát về tương lai. Đức Giêsu phác ra những đường nét lớn cho các môn đệ thấy tương lai sẽ mang lại cho họ điều gì (13,5-27) và họ sẽ phải ứng xử thế nào (13,5.21-23.28-37). Chúng ta có thể chia bài diễn từ này thành ba phần:

1) Khi nào (cc. 5b-8.9-13.14-23);

2) Dấu chỉ: Cuộc quang lâm (cc. 24-27);

3) Giờ chính xác (cc. 28-32.33-37).   

2.- Bố cục

Bản văn đọc hôm nay có thể chia thành hai phần :

1) Cuộc Quang Lâm (13,24-27);

2) Thời gian (13,28-32).

3.- Vài điểm chú giải

- Nhưng trong những ngày đó, … các ngôi sao từ trời sa xuống (24-25): Với liên từ “nhưng”, tác giả đưa độc giả tới khúc quanh quan trọng. Ngài mở ra một viễn tượng phổ quát bằng cách dùng những hình ảnh thuộc Cựu Ước nói về Ngày của Yhwh (Đức Chúa) (Is 13,10; 34,4; Ge 2,10–3,4; 4,15t.). Trong Cựu Ước, các hiện tượng này là những hoàn cảnh đi theo cuộc xét xử trong thịnh nộ, “ngày của Yhwh”. Theo những bản văn Isaia, việc phán xét nhắm đến Babylon và Êđôm. Trên cái nền Kinh Thánh này, các hình ảnh được vận dụng để minh họa cuộc phán xét trên các kẻ gian ác.

- Con Người (26): Trên tấm phông là một vũ trụ bị rung chuyển, Con Người xuất hiện, được mô tả bằng những từ ngữ của Đn 7,13tt. Các đám mây cho hiểu là Người thuộc về thiên giới, thuộc về Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tỏ bày năng và vinh quang của Người ra, mọi người sẽ được thấy: không mơ hồ như những tiếng đồn được lưu ý ở 13,22 (x. Mt 24,27t). Quyền lực lớn lao và vinh quang của Người bao quanh Người, nêu bật vẻ uy nghiêm của Người, khiến Người nổi lên rõ ràng trên bóng tối và tình trạng hỗn độn của vũ trụ. Mục tiêu Người nhắm khi đến thì chưa rõ. Hình thái của bài Diễn từ không liên quan đến ai rõ ràng khiến phải kết luận rằng ở chỗ này, bài được ngỏ với các đối thủ, các kẻ gian ác và tội lỗi. Đối với họ, Con Người đến là để phán xét.   

- tập họp của những kẻ được tuyển chọn (c. 27): Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa quy tụ (Đnl  30,3-4 [LXX]; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) nhờ các thiên thần (Tv 17/18,11; 103/104,4; Đn 7,10): Ngài quy tụ về Thánh Địa tất cả những người Do Thái đang bị phân tán, đưa về cho hiệp thông với Ngài. Ở đây, Con Người được giới thiệu là Đấng thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái (x. Ga 14,3).

- từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: dịch sát: “từ bốn gió, từ mút cùng đất đến mút cùng trời”. Các hình ảnh này là cách cổ điển mà Kinh Thánh và người Hy Lạp dùng để nói về thế giới.

- thí dụ cây vả  (28): Trong Cựu Ước, mùa hè và cuộc thu hoạch là những hình ảnh diễn tả sự  cùng tận, cuộc giải phóng và phán xét chung cuộc (x. Ge 4,17; Am 8,1tt; Is 28,4; Gr 8,20). Những gì xảy ra với cây vả được dùng để ví những dấu chỉ xảy ra nhằm báo cho biết Đức Kitô đã đến gần (c. 29).

- thế hệ này (30):  “Thế hệ này”, dù là “thế hệ gian ác” (Mc 8,38; 9,19; Mt 12,39.45) gồm những người không tin Đức Kitô hoặc sứ điệp của Giáo Hội, thì cũng là thế hệ đương thời với tác giả Mc. Khi nghe đọc đoạn văn này, các tín hữu càng được củng cố trong nỗi niềm chờ mong Đức Chúa của mình ngự đến.

- mọi điều ấy: Dựa trên câu hỏi của các môn đệ ở c. 4b và cùng với tauta (“các điều ấy”) được lấy lại từ c. 29, có thể quy về toàn thể các biến cố được mô tả trong bài Diễn từ cho đến điểm này, tức cũng quy về cuộc Quang Lâm của Con Người. Dựa theo câu nói này, ta nhận ra một sự chờ đợi nôn nóng trong một thời gian ngắn. 

- những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31): Đức Giêsu xác định những lời Người nói có cùng một sự chắc chắn và một uy tín như những lời của Yhwh trong Cựu Ước (Is 40,8; 51,6; 54,10; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).

- không ai biết được, ngay cả Người Con …, chỉ có Chúa Cha mới biết (32): Câu này là một crux interpretum (thập giá của các nhà chú giải). Lời này dường như mâu thuẫn minh nhiên với Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con…”. Người ta thường giải quyết bản văn khó này như sau. Mt 11 nói về sứ mạng mạc khải của Đức Giêsu để cứu độ thế gian: để đạt được mục tiêu này, Người đã được Thiên Chúa ban cho toàn quyền mạc khải và mọi hiểu biết cần thiết. “Nhưng Người đã có thể không biết một số điểm thuộc về chương trình sau này của Thiên Chúa, như Ngài khẳng định ở đây một cách rõ ràng” (P. Benoît). Phải hiểu Đức Giêsu không biết đây là không biết trong bối cảnh mầu nhiệm nhập thể, khi đó Chúa Con đã từ khước nhiều đặc quyền thần linh của mình (x. 2 Cr 8,9; Pl 2,6tt) để chia sẻ thân phận con người sâu xa hơn.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Cuộc Quang Lâm (24-27)

          Tiếng nói cuối cùng trên toàn thể lịch sử nhân loại và trên tất cả các tình huống là biến cố Con Người ngự đến trong vinh quang Thiên Chúa (Mc 13,26; x. 8,38; 14,62). Người đã đi qua đau khổ và cái chết; sau khi sống lại, Người đã chỉ tỏ mình ra với các môn đệ tuyển chọn; nhưng trong tương lai, Người sẽ xuất hiện trước mắt tất cả mọi người trong phẩm tước đích thực của Người. Cuộc tỏ mình của Người cũng như quyền chúa tể hữu hình của Người, duy nhất và vô biên, là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại.   

 

* Thời gian (28-32)

          Cho câu hỏi “khi nào?”, Đức Giêsu trả lời trước tiên bằng một dụ ngôn rõ ràng. Cần  phải học bài học từ việc quan sát cây vả. “Khi nó trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần” (cc. 28-29). Tác giả muốn nói đến các biến cố ở cc. 6-13, cc. 6-23 hay cc. 14-23? Bởi vì công thức “khi anh em thấy” (hotan idête) nhắc lại c. 14, chúng ta nên coi các biến cố thuộc phân đoạn cc. 14-23.  

Cuối cùng, có ba câu nói về thời gian (cc. 30-32): “thế hệ này”; “những lời Thầy nói”; “chỉ có Chúa Cha biết”. Tất cả được mở đầu bằng giọng long trọng: “Thầy bảo thật (amên) anh em”. Sự hiểu biết về lịch sử loài người và mọi câu hỏi liên quan đến tương lai dường như dễ đưa tới sự lừa dối và sai lầm: đây là vùng hoạt động của các ngôn sứ giả. Lời khuyến cáo của Đức Giêsu vẫn còn có giá trị cho mọi thời đại: “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Các lời Người nói sẽ có giá trị mãi mãi (c. 31). Và với giọng rõ ràng chắc chắn, Người khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa biết ngày hoàn tất những điều đã được loan báo (c. 32). 

 

+ Kết luận

 Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ: khi nào xảy ra những điều ấy? Câu trả lời của Đức Giêsu vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Người ta sẽ không còn coi Đền Thờ là nơi quy tụ nữa. Đền Thờ sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền Thờ, Người sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi tà thần: Người là Đức Chúa phục sinh quang vinh.

Toàn bài Diễn từ cánh chung muốn thổi một làn gió lạc quan trên thế giới. Đồng ý là có những thời trong đó sự dữ thắng thế, nhưng nó không thể khai sinh một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Đức Kitô và nhờ Thánh Thần, một mầm sống mãnh liệt mới khai sinh một vũ trụ mới. Với lại, kiểu hành văn “cánh chung” bao giờ cũng chất chồng các hình ảnh tai hoạ u ám để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong người tín hữu không bối rối khi đọc thấy sự dữ lan tràn, nhưng nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang được triển khai.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Tương lai của nhân loại có đen tối đến đâu và nhìn bề ngoài thì dường như đang đi đến chỗ hoàn toàn diệt vong, nhưng cuối cùng, vẫn còn có Con Người, Đấng đã chia sẻ tất cả định mệnh con người, nay đang ở trong sự hiệp thông xán lạn và vinh hiển với Chúa Cha toàn năng. Các môn đệ của Đức Giêsu có bị bách hại, bị ghét bỏ và bị giết tàn bạo đến mức nào đi nữa, Đấng mà họ bước theo sau và cũng là Đấng mà họ đã chia sẻ cùng một số phận, đang chờ họ và sẽ bênh vực họ (x. 8,34-38). Đức Giêsu là Đấng trung thành và quyền năng. Người sẽ tìm được họ dù họ lang bạt đến tận đâu và sẽ quy tụ họ lại. 

2. Các môn đệ của Đức Giêsu phải tránh những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ không được trông mong vào một thiên đàng hạ giới chan hòa bình an. Trái đất vẫn là một thung lũng đầy nước mắt, nên họ phải sẵn sàng chấp nhận gian lao vất vả, bị từ khước và bị bách hại. Họ không được chạy theo ảo tưởng và cũng không được buông theo thất vọng. Họ phải tin cậy vững vàng vào lời nói của Đức Giêsu và tương lai mà Người phác họa ra.

3. Điều nói trên không có nghĩa là các môn đệ không được bận tâm đến tương lai và không được để cho tương lai ảnh hưởng trên lối sống hiện tại của mình. Như khi thấy các lá non của cây vả, chúng ta biết mùa hè đã đến gần, chúng ta cũng không được bám cứng vào những gì đang xảy ra, nhưng phải quay hướng về biến cố kết thúc đang đến (13,28t).

4. “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Đức Giêsu như đang nói: Anh em đừng để cho mình bị lạc đường vì tò mò và sợ hãi! Thầy đã chỉ cho anh em thấy rõ ràng thực tại chung kết. Hãy bám vững vào đó và hãy bằng lòng với điều đó! Điều đó hoàn toàn đủ cho anh em rồi! Vì về ngày đó, chỉ Chúa Cha biết; tất cả mọi tính toán về ngày cuối cùng đó chỉ là chuyện tưởng tượng bừa bãi, đi ngược lại với lời nói rõ ràng của Đức Giêsu.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B