Chúa Nhật IV mùa Vọng

 

          Nhìn thiên hạ chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, ta có cảm tưởng lễ Giáng Sinh hiện thời không còn giống với lễ Giáng Sinh đầu tiên nữa, từ hình thức cho tới tinh thần.  Những hình ảnh khiêm nhượng, đơn sơ, nghèo hèn đã bị thay thế bằng những nhộn nhịp, tốn phí và tục hóa mất rồi.  Vẫn trong tinh thần chuẩn bị đích thực, Lời Chúa hôm nay trình bày những mẫu người khiêm nhường đích thực.  Bài trích sách ngôn sứ Mi-kha giới thiệu “một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en” mà lại xuất thân từ Bê-lem, nơi nhỏ bé nhất Giu-đê.  Thư Do-thái nói về Chúa Ki-tô khiêm tốn, đến chỉ để thực thi ý Thiên Chúa.  Còn bài Tin Mừng nêu lên tấm gương khiêm nhượng của Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa.  Khiêm nhượng là con đường Chúa đến với ta và cũng là đường ta đến với Chúa.

 

1.  Thân phận khiêm nhượng của Bê-lem và “vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”  (bài đọc Cựu Ước – Mi-kha 5:1-4a)

 

          Địa linh nhân kiệt, đất thiêng nảy sinh người tài là quan niệm thông thường của người đời.  Nhưng điều này không đúng với trường hợp của thành Bê-lem và Chúa Giê-su, “vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en”.  Thực vậy, nơi Chúa Giê-su sinh ra và nơi Người lớn lên đều không được người Do-thái xếp vào hạng địa linh, vì Bê-lem thì “nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (Mk 5:1), còn Na-da-rét thì “từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được!” (Ga 1:46).  Thiên Chúa chọn con đường khiêm nhu để đến với nhân loại, lấy Bê-lem làm nơi xuất hiện đấng thống lãnh Ít-ra-en.  Cả nơi chốn lẫn người xuất hiện đều mang những nét khiêm tốn.

          Trước hết là Bê-lem, “thành của vua Đa-vít”.  Tuy có tiếng như vậy, nhưng thực tế Bê-lem chẳng có gì để giữ người ta lại.  Đa-vít làm vua, sống tại Giê-ru-sa-lem nên Bê-lem cũng hầu như bị quên lãng.  Dân chúng thưa thớt, người ta tản mát đi tìm những nơi đô thị để sinh sống.  Gia đình thánh Giu-se và gia đình Đức Mẹ là một thí dụ điển hình.  Họ bỏ Bê-lem không biết từ đời nào, để lên miền bắc sinh sống tại Na-da-rét.  Bởi vậy từ bao nhiêu năm Bê-lem cũng vẫn chỉ là “nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa”.  Bé nhất trước mắt người đời, nhưng lại lớn nhất và quan trọng nhất trước mắt Thiên Chúa vì Bê-lem nằm trong đường lối khiêm nhu của Người.

          Nếu Bê-lem đã được chọn để tỏ ra đường lối khiêm nhu của Thiên Chúa, thì “vị thống lãnh Ít-ra-en” xuất thân từ Bê-lem cũng sẽ là người lãnh đạo đi theo cùng đường lối ấy để đưa nhân loại đến hòa bình đích thực.  Ít-ra-en biểu tượng cho nhân loại trước thời cứu độ và Ít-ra-en Mới là Giáo Hội Chúa Ki-tô.  Ta hãy nghe lời Đức Chúa nói về vị lãnh đạo Ít-ra-en Mới, tức là Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ.  “Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”.  Thánh sử Gio-an cũng nói đến nguồn gốc ấy trong lời tựa Tin Mừng:  “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời” (Ga 1:1).  Nhiệm vụ của vị thống lãnh là đưa “những anh em sống sót trở về với con cái Ít-ra-en”.   Những “anh em sống sót” đây chính là những người được Chúa Giê-su cứu độ và đưa về làm con cái Thiên Chúa.

          Nhưng làm thế nào vị thống lãnh sẽ đưa ta trở về với Thiên Chúa?  Bằng con đường tắt là sử dụng quyền năng Thiên Chúa để ép buộc mọi người về làm con cái Chúa hay sao?  Không phải vậy.  Nhưng “Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ” (Mk 5:3).  Đó chính là đường lối Chúa Giê-su đã theo khi Người thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ.  Người thi hành sứ vụ chăn dắt bằng cách hoàn toàn dựa vào Thiên Chúa, khiêm tốn thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha và để cho Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi sự.  Chúa Giê-su khẳng định:  “Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8:28).

 

2.  Lòng khiêm nhượng của Chúa Ki-tô:  Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài  (bài đọc Tân Ước – Do-thái 10:5-10)

 

          Đoạn sách ngôn sứ Mi-kha trình bày Đấng Cứu Độ là vị thống lãnh Ít-ra-en chăn dắt họ trong tinh thần khiêm nhượng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa; còn bài đọc trích thư Do-thái lại trình bày Đấng Cứu Độ đến trần gian để “thực thi ý Thiên Chúa, hiến dâng thân mình làm lễ tế” (Dt 10:10).

          Trước hết, đoạn thư nêu lên lý do tại sao Chúa Ki-tô “vào trần gian”.  Người đến với nhân loại theo ý định của Thiên Chúa.  Mà ý định của Thiên Chúa là thay đổi phương thức đền tội.  Trong Cựu Ước, việc đền tội được thực hiện bằng hy lễ và hiến tế, bằng máu chiên bò lễ toàn thiêu và lễ xá tội.  Giờ đây Thiên Chúa “không ưa” chúng nữa, vì chúng không thực sự “xóa bỏ tội lỗi trần gian” được, mà chỉ nhắc nhớ người ta phải trở về với Thiên Chúa thôi.  Cho nên Thiên Chúa muốn thay thế “những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền” ấy bằng “một thân thể”, thân thể của Ngôi Hai xuống thế làm người.

          Đến trần gian với một thân thể được Thiên Chúa tạo dựng (Dt 10:5) và với mục đích để thực thi thánh ý Thiên Chúa, Chúa Giê-su “đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:10).  Điều này cho ta thấy rõ ràng tinh thần và ý lực của việc Người giáng sinh là lòng khiêm nhượng.  Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đề cao lòng khiêm nhượng của Chúa Giê-su khi Người đến trần gian, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, vâng lời cho đến chết trên thập giá (Pl 2:6-8).  Như vậy, sau hơn hai ngàn năm mừng Chúa Giê-su ra đời bằng những cách phô trương bề ngoài, người ta đã làm mất đi tinh thần và ý nghĩa khiêm nhượng của biến cố Giáng Sinh rồi!  Giáng Sinh không dừng lại đó, nhưng là bước khởi đầu của con đường cứu độ xóa bỏ tội lỗi trần gian.  Tinh thần khiêm nhượng và khó nghèo của Giáng Sinh được tiếp nối bằng sứ vụ rao giảng Tin Mừng với lòng nhiệt thành vì công việc nhà Chúa nung đốt, sau cùng tinh thần khiêm nhượng phục tùng ấy đạt tới đỉnh cao qua cái chết trần truồng trên thập giá.  Nói khác đi, con đường khiêm nhượng vâng phục của Chúa Giê-su bắt đầu từ Bê-lem, rảo bước khắp miền Pha-lét-tin và thành toàn trên thập giá.  Mong sao đoạn thứ Do-thái trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở ta hãy trở về với tinh thần đích thực của biến cố Giáng Sinh, để ta chú trọng hơn đến việc chuẩn bị tâm hồn thay vì những trang hoàng vô bổ và thương mại.

 

3.  Mẹ Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, gương mẫu chuẩn bị mừng Chúa giáng sinh  (bài Tin Mừng – Lu-ca 1:39-45)

 

          Bài Tin Mừng Lu-ca kể lại cuộc thăm viếng lịch sử của Mẹ Ma-ri-a với bà chị họ Ê-li-sa-bét tại Ein Karem.  Có tính cách lịch sử, vì là cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ đặc biệt biểu tượng cho thời Cựu Ước kết thúc và thời Tân Ước khởi đầu.  Nhưng hai bà mẹ ấy lại có cùng một tâm tình trước công trình cứu độ của Thiên Chúa, tâm tình khiêm nhượng và cảm tạ.

          Khi thiên sứ truyền tin thụ thai Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ Ma-ri-a được biết bà chị họ Ê-li-sa-bét tuy lớn tuổi nhưng đã có thai được sáu tháng.  Mẹ chuẩn bị lên đường thăm viếng bà Ê-li-sa-bét.  Cuộc thăm viếng có nhiều mục đích:  chia sẻ với tin mừng của bà chị, ở lại để giúp đỡ bà cho tới ngày sinh, nâng đỡ tinh thần của bà khỏi suy sụp, đem Chúa đến cho người khác.  Ta cứ tưởng tượng khung cảnh một gia đình của hai người lớn tuổi, một người mới bị câm, một người “chưa quen” với tình trạng có thai.  Họ gặp khó khăn về đủ phương diện, nhất là vấn đề ngôn ngữ.  Có lẽ bà Ê-li-sa-bét cũng chẳng biết đọc biết viết để vợ chồng có thể nói với nhau bằng cách viết trên bảng (Lc 1:63).  May mắn thay, đã có Mẹ Ma-ri-a hiện diện để giải quyết mọi khó khăn!

          Qua câu truyện thăm viếng này, điều giúp ta đi vào Mầu nhiệm Giáng Sinh chính là những tâm tình khiêm nhượng và cảm tạ Thiên Chúa của hai bà mẹ.  Những lời đón chào của bà Ê-li-sa-bét và nhất là bài ca Ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Ma-ri-a đã lột tả được hết những tâm tình ấy.  Trước hết, cung cách của Mẹ Ma-ri-a lên đường là “vội vã đi đến miền núi”.  Tại sao lại phải vội vã nếu không phải là vội vã của “bước chân người ra đi loan tin mừng”?  Mẹ đến mau với bà chị họ, không phải để khoe khoang mình mới “lên chức” Mẹ Đấng Cứu Độ, nhưng là để phục vụ.  Mẹ sống tinh thần phục vụ để sau này dạy Con mình cũng phải đến để phục vụ (x. Mc 10:45).  Bài đọc Tân Ước hôm nay (Dt 10:5-10) đã cho ta thấy tinh thần phục vụ của Chúa Giê-su như thế nào.

          Điểm dễ thương của câu truyện này là trước những lời chân tình và khiêm tốn của bà Ê-li-sa-bét, ta không thấy Đức Mẹ nói gì ngoài những lời ngợi khen và cảm tạ Chúa trong bài ca Magnificat.  Chắc chắn Mẹ không “bối rối” như khi sứ thần truyền tin.  Nhưng chúng ta có thể tưởng tượng ra khuôn mặt Đức Mẹ hơi hồng lên vì bẽn lẽn trước lời khen thật thà của bà chị, ánh mắt reo vui hướng về trời cao cảm tạ Thiên Chúa.  Mẹ cảm tạ Chúa không chỉ cho riêng mình, nhưng cho hết thảy nhân loại.      Những lời chân tình của bà Ê-li-sa-bét xuất phát từ một tâm hồn thực sự khiêm tốn, nhìn nhận những gì Thiên Chúa làm cho bà và đứa con trong bụng qua cuộc viếng thăm của cô em Ma-ri-a.  Cả hai bà đều thấy được tình yêu và ơn phúc của Thiên Chúa dành cho mình và cho nhân loại.  Cả hai đều bày tỏ lòng khiêm nhường tin tưởng vào công việc Chúa làm trong công trình cứu độ, lật đổ triều đại của tội lỗi để thiết lập Triều Đại Thiên Chúa.  Mẹ Ma-ri-a đã thay mặt cho toàn thể nhân loại, cất lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa bắt đầu thực hiện kế hoạch lấy tình yêu và khiêm nhượng để phá tan sức mạnh của ghen ghét và kiêu căng.

 

4.  Sống Lời Chúa

 

          Qua gương mẫu của Mẹ Ma-ri-a, Giáo Hội mời gọi ta hãy trở về với tinh thần đích thực của biến cố Giáng Sinh.  Tinh thần ấy là khiêm nhượng, cảm tạ và tin tưởng vào sức mạnh Tình yêu Thiên Chúa.  Cuộc viếng thăm của Mẹ Ma-ri-a cũng thúc giục ta hãy chia sẻ ơn cứu độ với mọi người, nhất là những người chúng ta thường tiếp cận, tại gia đình, sở làm, cộng đoàn…, để giúp mọi người cùng với ta nhận ra mình là những người được chúc phúc, thánh hóa và cứu độ nhờ Chúa Giê-su đã sinh ra, đã thi hành sứ vụ rao giảng và đã chết trên thập giá.

 

Suy nghĩ:  Bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra ơn phúc Chúa ban cho bà vì được Thân Mẫu Chúa đến viếng thăm.  Trong cuộc sống, tôi có luôn luôn nhận ra những ơn phúc Chúa ban về mọi phương diện không?  Trước những ơn phúc muôn vàn đó, tôi có khiêm nhượng ngợi khen và cảm tạ Chúa không?  Tôi làm gì để biểu lộ tâm tình ngợi khen và cảm tạ Chúa?

 

Cầu nguyện:  Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời thiên sứ truyền tin mà cho chúng con biết thật Đức Ki-tô, Con Chúa, đã xuống thế làm người.  Xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con, để nhờ công ơn Con Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Vọng).

 

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

         


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm C