LỄ HIỂN LINH

(Mát-thêu 2:1-12)

 

        Thánh sử Mát-thêu viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc Do-thái.  Do đó, ngài sử dụng rất nhiều trích dẫn từ Cựu Ước là sách quen thuộc với người Do-thái để chứng minh Chúa Giê-su thực hiện những điều nói về Người.  Bắt đầu từ chương hai, Tin Mừng Mát-thêu lưu tâm tới việc nhân loại đáp lại sứ vụ cứu thế và sứ điệp của Chúa Giê-su.  Những câu truyện về vua Hê-rốt với các nhà chiêm tinh Đông phương, về cuộc hành trình của Chúa Giê-su từ Bê-lem qua Ai-cập trở về Na-da-rét, đều có những trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước đã được đan dệt dưới ngòi bút của Mát-thêu cốt để giúp suy tư và giải thích những biến cố hiện tại.  Biến cố hiện tại ấy chính là “Chúa Giê-su, Đức Vua dân Do-thái mới sinh.”  Tiếp nhận và chối bỏ là hai thái độ đã được Mát-thêu diễn tả qua hai nhóm người:  ông vua vô đạo cùng với triều đình Giê-ru-sa-lem của ông, và những người chân thành tìm kiếm chân lý đã từ xa tới.

 

a)  Những kẻ chối bỏ Chúa Giê-su và sứ điệp của Người

       

        Hê-rốt, một người I-đu-mê xảo quyệt và tàn ác đã trở thành vua Ít-ra-en dưới sự giám sát của chính quyền Rô-ma, và cả thành Giê-ru-sa-lem đã xôn xao trước Tin Mừng “Đức Vua dân Do-thái mới sinh.”  Hê-rốt là con người rất mực đa nghi.  Khi đã nghi ngờ ai, ông ta tìm mọi thủ đoạn để tiêu diệt.  Ông đã giết vợ là Mariamne và bà mẹ vợ Alexandra.  Cậu con cả Antipater và hai em là Alexander và Aristobulus cũng bị ông bố ám sát.  Ông tàn ác đến độ Augustus, hoàng đế Rô-ma, phải nói lên:  Thà làm con heo của Hê-rốt còn hơn làm con của Hê-rốt.  (Đây cũng là lối chơi chữ trào phúng, vì trong Hy-ngữ, hus là con heo và huios là đứa con trai).  Năm 70 tuổi, biết mình gần đất xa trời, trước khi về hưu tại Giê-ri-khô, ông ra lệnh bắt giam tất cả những công dân ưu tú của Giê-ru-sa-lem và ông muốn là khi ông chết thì những người này cũng phải chết theo!  Con người đa nghi như thế làm sao ngồi yên được trước tin vua dân Do-thái mới sinh ra.  Ông không yên tâm thì cả Giê-ru-sa-lem cũng không thể yên ổn.  Phải tìm cho ra tung tích ông vua mới sinh và phải diệt bỏ mối đe dọa ngai vàng của ông.

        Ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại.  Sử dụng vốn liếng thần học, họ trích dẫn sách ngôn sứ Mi-kha để cho ông biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở Bê-lem.

        Như thế, trước tin mừng Đấng Ki-tô mới sinh ra, Hê-rốt phản ứng theo lòng thù hận, còn các thượng tế và kinh sư thì hoàn toàn dửng dưng, máy móc và nặng phần sách vở chữ nghĩa.  Tóm lại các nhà lãnh đạo Do-thái, đạo cũng như đời, đã bắt đầu một âm mưu chống đối Chúa Giê-su và sứ vụ cứu thế của Người, đưa tới cuộc Thương khó mai sau.

 

b)  Những người chân thành tìm gặp Đấng Cứu Thế

 

        Các nhà chiêm tinh đến từ Đông phương đã được một vì sao nhiệm mầu hướng dẫn.  Hành trình tâm hồn của họ đi từ việc truy cứu thiên nhiên tiến đến ngưỡng cửa đức tin.  Nhờ kiến thức và Kinh Thánh của người Do-thái, nhất là nhờ chính Thiên Chúa dẫn dắt, họ đã đến được Bê-lem mà thờ lạy Chúa Giê-su (câu 10-11).

        Phản ứng của họ trước tin mừng Đấng Ki-tô mới sinh ra là phản ứng của thờ lạy, muốn để lại dưới chân Người tất cả những gì đối với họ là quý giá nhất.

        Câu truyện sách Tin Mừng Mát-thêu kể lại về việc Ít-ra-en chối từ trong khi Dân ngoại tiếp nhận Đấng Cứu Thế mở đầu cho cuộc đời công khai của Đức Ki-tô cũng là một thách đố lựa chọn của mọi người mọi thời.  Những Hê-rốt, thượng tế, kinh sư của thời đại hôm nay không hẳn chỉ là những người đối lập với Chúa Ki-tô, nhưng cũng có thể là chính ta nữa.  Mặc dù đã được ơn lãnh nhận đức tin, ta vẫn phải tiếp tục con đường của những nhà chiêm tinh Đông phương mà xác tín được con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su.

 

c)  Sứ điệp thánh Mát-thêu muốn gửi đến chúng ta:  Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế

 

        Trở lại với cách trích dẫn và sắp xếp câu truyện, ta có thể nhận ra điều thánh Mát-thêu muốn ta xác tín.  Sách Xuất Hành (chương 22-24) kể lại một biến cố ly kỳ.  Ông Mô-sê lo lắng vì vua Ba-lác gian ác đã cho “mời ông Bi-lơ-am đến từ đồi núi phía đông” (Ds 23:7) để chúc dữ và nguyền rủa dân Chúa.  Nhưng Bi-lơ-am đã từ chối không làm theo như vua Ba-lác muốn, thay vì nguyền rủa thì lại chúc lành cho dân Ít-ra-en và ông đã đọc sấm ngôn như sau:  “Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc; tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;  một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24:17).  Sau này, truyền thống Do-thái coi “vì sao” ấy là Đấng Ki-tô.

        Câu truyện Cựu Ước này Mát-thêu muốn dùng để giải thích câu truyện Chúa Giê-su.  Vua Hê-rốt đâu khác gì một thứ vua Ba-lác, muốn tìm cách ngăn cản quyền năng cứu chuộc của Thiên Chúa.  Còn Chúa Giê-su là ông Mô-sê mới, Đấng sẽ cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ tội lỗi.  Các nhà chiêm tinh Đông phương cũng giống như Bi-lơ-am, từ phương Đông tới làm chứng cho vương quyền bất diệt của Thiên Chúa nơi Đấng Ki-tô.

 

d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

 

        Chúa luôn luôn muốn tỏ mình ra cho mọi người mọi thời và mọi nơi.  Người dùng những dụng cụ là chính chúng ta.  Vậy tôi đã làm dụng cụ để người khác được biết về Chúa như thế nào?

        Những thượng tế và kinh sư đã dửng dưng khi trích dẫn Kinh Thánh nói về Đấng Ki-tô.  Còn thánh Giê-rô-ni-mô thì nói:  Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô.  Tôi có cùng một thái độ như thế không?  Kinh Thánh có thực sự giúp tôi lập một mối quan hệ mật thiết với Chúa Ki-tô không?  Tôi sẽ có chương trình giúp mình nhờ Kinh Thánh mà biết Chúa Ki-tô?

        Tôi có thể tìm hiểu thêm ý nghĩa những lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược không?  Tôi có gì để dâng cho Chúa?  Tại sao?

 

        “Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến.

        Xin đừng mỉm cười mà nói rằngChúa đã ở bên chúng con rồi.

        Có cả triệu người chưa biết Chúa.

        Nhưng biết Chúa thì được cái gì?

        Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ?

        Xin hoán cải chúng con.

        Xin lay chuyển chúng con.

        Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con,

        trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.

        Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,

        và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên.

        Bởi vì chỉ như thế,

        sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa,

        thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa.”

-      Helder Camara

 

Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi


Trở Về Mục Lục | Về Trang Nhà