Chúa Nhật 13 C

CÁCH ĂN Ở, CƯ XỬ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ

Lm Phêrô Trần Đình

 

Nhập đề

 

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt : thái độ của người môn đệ của Đức Giêsu đối với những người thù ghét mình và giá phải trả khi theo Chúa. Chúng ta muồn dừng lại ở điểm thứ nhất để nghe Chúa dạy về cách ăn ở, cư xử của Người môn đệ của Chúa Kitô phải có.

 

I. Một ngày kia, thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem và vì không được đón tiếp, hai môn đệ Giacôbê và Gioan, “con của sấm sét” xin thầy sai lửa từ trời xuống đốt làng mạc của họ.

Samari là vùng đất nằm giữa giữa Giuđêa và Galilêa. Người do thái và người Samari có mối hận thù sâu sắc, thâm căn cố đế. Có nhiều lý do :

 

·      Khi họ bị lưu đầy sang Babilon thì một số dân cư nơi khác được điều đến ở nơi đây. Dân cư vì vậy mang tính cách hổ lốn.

·      Không những thế, niềm tin của những người ở đây cũng là một niềm tin hổ lốn : họ thờ phượng Giavê, đồng thời cũng thờ phượng các thần dân ngoại khác nữa.

·      Rồi vì mối cừu địch ấy, họ xây dựng cho mình một đền thờ riêng trên núi Garizim kính thần vô danh. Người do thái dĩ nhiên thấy chướng tai gai mắt vô cùng bởi vì họ thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất.

·      Lại nữa, người do thái chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem. Cho nên khi muốn lên đền thờ chầu lễ thì phải đi ngang qua đất của họ như đã nói trên. Và mỗi lần có những đoàn hành hương của người do thái đi ngang qua, thì  khắp cả miền Samari người ta đều đóng cửa không đón tiếp. Chúa Giêsu vì là người do thái nên cũng phải chịu cảnh tương tự như những người khác. Việc này làm cho các môn đệ, đặc biệt là ông Giacôbê và Gioan, hai người “con của sấm sét” lấy làm tức giận, xin Chúa sai lửa từ trời xuống đốt làng mạc của họ. Tinh thần của hai ông là tinh thần của Cựu ước. Chắc hẳn các ông đã nhớ lại việc tiên tri Eâlia xưa đã sai lửa trời xuống đốt các sĩ quan của vua Akhátgia cùng quân lính đi theo vì đã không thỉnh ý Chúa mà lại đi thỉnh ý của thần dân ngoại (x. II Và 1, 9 tt).

 

II. Đây là cơ hội để Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ để họ hiểu rằng tinh thần nào mới là tinh thần đích thực mình người môn đệ phải có.

 

1. Phải loại bỏ những thành kiến. Người do thái và người samari đã có những thành kiến không tốt về nhau và vì không tháo cởi được cho nên nó biểu hiện ra trong tiếp xúc. Chính thành kiến làm người ta đóng cửa lòng mình lại với người khác.

 

2. Phải loại bỏ quá khứ. Người ta có thói quen thích nhìn kẻ khác ở “thì quá khứ”, trong khi người khác có thể đã thay đổi rồi không chừng. Một định kiến cứng nhắc sẽ giết chết mọi mối tương quan đích thực. Chúa Giêsu không nhìn kẻ khác ở thì quá khứ, nhưng nhìn họ ở “thì hiện tại”, như với ông Giakêu, người phụ nữ tội lỗi khóc lóc dưới chân Người, người trộm lành : “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Ơn cứu độ Chúa ban bao giờ cũng ở trước mắt chúng ta.

 

3. Phải loại bỏ những bức tường. Người do thái hay dựng lên những bức tường bằng luật “sạch, dơ” kéo theo những cách đối xử thiếu tình thương và khinh người. Chỉ có họ là “sạch” thôi, còn ngoài ra là “dơ bẩn” cả. Tiếp xúc với lương dân cũng là đụng chạm với dơ bẩn, không xứng đáng để dâng lễ vật nơi đền thờ nữa. Chúa đã phá đổ bức tường ấy khi đụng chạm đến các bệnh nhân như những kẻ bị phung cùi…Thiên Chúa không có phe phái, bè đảng, chẳng phân biệt do thái hay hi lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Giêsu Kitô.

 

 

III. Đó là những điểm tiêu cực mà những môn đệ phải bỏ đi. Hơn nữa, họ phải tập sống tích cực hơn, theo cái nhìn, quan niệm của Chúa.

 

1. Người samari cũng nằm trong chương trình cứu độ của Chúa : Trước khi về trời, Người dạy các môn đệ rằng : “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Theo sách Công Vụ, Philip là chứng nhân đầu tiên của Chúa Giêsu nơi người samari. Sau đó, khi nghe biết dân miền samari  đã đón nhận lời Thiên Chúa thì Giáo Hội tại Giêrusalem đã cử hai ông Phêrô và Gioan đến với họ (x. Cv 8, 5 tt). Thiên Chúa có cách hành động và cứu độ riêng của Người nơi tâm hồn mỗi người, cho dù họ là ai. Tất cả đều nằm dưới ánh mắt yêu thương của Người và Người đã đến để thu họp đoàn chiên về “một mối”.

 

2. Chúa có cái nhìn tích cực về họ. Chúa ca ngợi sự tốt lành của người samari nhân hậu săn sóc kẻ bị cướp đánh dọc đường, trong khi thầy tư tế và thầy lêvi “tránh qua bên kia đường mà đi”, và hướng đi của hai người này xem ra là trở về “đền thờ Giêrusalem” (x. Lc 10, 29 tt). Mỉa mai thay !

Chúa Giêsu ca ngợi người “ngoại bang” samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa trong khi  “con cái” của Người thì biến đi đâu hết (x. Lc 17, 11 tt).

Chúa cũng ca ngợi không chỉ phụ nữ samari nhưng còn “cả dân thành này” trong việc hoan hỉ và mau mắn đón nhận đức tin (x. Ga 4, 4-42), trong khi những người đồng hương của Người lại chối từ khiến Người phải đau lòng thốt lên : chẳng tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương mình (x. Lc 4, 44).

 

Đó là những “đối ảnh” mà các thánh sử khi vẻ nên đã muốn làm cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn.

 

Kết luận

 

Ăn ở, cư xử với người khác sao cho hợp với tinh thần của Tin Mừng mãi mãi là điều chúng ta cần phải học. Chúng ta đang sống trong tháng thánh tâm, xin Chúa “uốn lòng” chúng ta “nên giống trái tim của Chúa” (kinh cầu trái tim).


Trở Về Mục Lục | Về Trang Nhà