CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI - MÔN ĐỆ CHÚA LÊN ĐƯỜNG

L.M.Nguyễn công Đoan S.J.

Ngày 27 tháng 5 năm 2019

 

Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Chúa Giê-su Lên Trời và Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Nhưng toàn thể màu nhiệm Vượt Qua, gồm cuộc khổ nạn và tôn vinh của Chúa Giê-su, là mở đầu cho một kỷ nguyên mới ; cũng như lễ Vượt Qua và Lễ Ngũ Tuần kỷ niệm bước khai nguyên cho sự hiện hữu của Dân Thiên Chúa trong Giao Ước Xi-nai. “Con cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-sét đi Xúc-cốt… cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ” (Xh 12,37-38). “Tháng thứ ba kể từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập…” (Xh 19,1). Họ rời A-cập sau khi an thịt chiên Vượt Qua, tức là đêm 15 tháng thứ nhất, đầu tháng thứ ba là ngày thứ 47. Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hãy đến với dân và bào họ : hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế… và đến ngày kia [ngày mốt] phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân…” (Xh 19, 10-11).

Như vậy ngày thứ 49 Thiên Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, tuyên bố nhận đám dân đã ra khỏi Ai-Cập dưới sự lãnh đạo của Mô-sê làm dân của Thiên Chúa, và Thiên Chúa làm Chúa của họ, và ban Lề Luật để họ sống làm dân của Thiên Chúa. Đó là Giao Ước Xi-nai.

Lịch phụng vụ Cựu Ước đã biến hai ngày lễ hội nông nghiệp thành lễ tôn giáo, lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần (x. Lv 23,5-8.15-16) để kỷ niệm hai biến cố liên hệ mật thiết với nhau như hai thì của một biến cố : Thiên Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ để họ được trở thành dân của Thiên Chúa và có Luật để biết sống làm dân của Thiên Chúa.

Lịch phụng vụ của Hội Thánh đã sớm thêm cho hai ngày lễ này một ý nghĩa mới : Lễ Phục Sinh [Vượt Qua] kỷ niệm Chúa Giê-su đã chết và phục sinh để đem cho chúng ta ơn tha tội là giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và cái chết, để làm con cái của Thiên Chúa, dân của Thiên Chúa trong Giao Ước Mới, là Giao Ước lập bằng Máu của “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”.

Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ là bộ sách hai cuốn của cùng một tác giả, theo như lời mở đầu của mỗi cuốn :

1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. 3Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. (Lc 1, 1-4)

1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.

4 Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là : ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.

6 Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” 7 Người đáp : “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”

9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh 11 và nói : “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1,1-11)

Ở cuối cuốn thứ nhất, đã thấy kể lời căn dặn cuối cùng và việc Chúa lên trời :

Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.

49 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24,45-53)

Cũng nên nhớ là Lc 9,51 đã chuẩn bị người đọc chờ đợi phần kết cuốn thứ nhất : “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem.”

Như vậy có thể nói hai cuốn sách của Lu-ca cho chúng ta thấy phụng vụ của Hội Thánh, cộng đoàn Dân Mới tiếp tục những lễ tôn giáo của Cựu Ước liên quan tới bước khai nguyên của Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước và trong Tân Ước. Tân Ước không phải một sao băng từ ngoài rơi xuống đất, nhưng là sự phát triển liên tục với Cựu Ước. Những gì liên quan tới Chúa Giê-su không phải là những gì “đã xảy ra” nhưng là những gì “đã được thực hiện giữa chúng ta” (Lc 1,1). Những gì “đã xảy ra” thì là “tình cờ”, nhưng “đã được thực hiện”, tức là theo một kế hoạch. Khi Chúa phục sinh “mở trí” cho các môn đệ hiểu Sách Thánh thì Người đã tóm tắt hai điểm : “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại – Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về các điều ấy.” Rồi Chúa hứa và căn dặn “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Chúa Giê-su đã hoàn tất những gì Sách Thánh nói về Đấng Ki-tô, Người đã thực hiện ơn cứu độ. Bây giờ đến phiên môn đệ, với tư cách chứng nhân, phải đi rao giảng ơn cứu độ cho muôn dân. Nhưng Đức Giê-su Ki-tô còn làm tiếp phần của Người là, từ trong vinh quang Chúa Cha, Người sẽ gởi điều Chúa Cha đã hứa, là quyền năng từ trời cao.

Chúa lên trời không phải là chấm dứt, nhưng là sang một giai đoạn mới : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì Sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đẽ chép về Thầy phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44). Chúa “chọn nhóm Mười Hai để họ ở với Người và để Người sai họ đi” (Mc 3,13). Lu-ca chỉ kể rằng “Người thức thâu đêm để cầu nguyện cùng Thiên Chúa, đến sáng Người gọi các môn đệ lại, chọn lấy mười hai người và gọi là Tông Đồ” (6,12-13). Lu-ca mở rộng “quy chế” về những người được sai đi, ngoài nhóm Mười Hai, gọi là Tông Đồ, Người còn sai đi và căn dặn bảy mươi hai người nữa : “Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai đi từng hai người một” (Lc10,1). Sau khi họ đã ở với Chúa để xem và nghe Chúa giảng dạy, Chúa sai họ đi thực tập với những lời căn dặn kỹ lưỡng (x. Lc 9,1-6 ; 10,1-11).

Bây giờ Chúa đã “ngự giá xe mây” (Tv 104/103,3) lên trong vinh quang của Thiên Chúa, sự phân công trở nên rõ ràng : Chúa ngự trong vinh quang gởi quyền năng từ trời cao, các môn đệ còn ở lại phải lãnh nhận quyền năng từ trên cao và đi rao giảng với tư cách chứng nhân.

Thời gian sứ mạng kéo dài cho tới khi “Người sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Các ông đã thấy Người lên trên đám mây, thì NGƯỜI CŨNG SẼ ĐẾN TRÊN ĐÁM MÂY, (cf. Mc 15,62 //Mt 26,64). Nhưng từ nay tới đó thì “đám mây đã quyện lấy Người, khiến các ông không thấy Người nữa” (Cv 1,9), đăm đăm nhìn lên cũng chỉ thấy đám mây. Phải nhìn xuống đất như Người đã nhìn, Người đã thấy những gì và đã làm những gì từ khi Người nhận được quyền năng Thánh Thần ở bờ sông Gio-đan.

Ê-li-a lên trời thì thả rơi cái áo choàng cho Ê-li-sa lượm và “trắc nghiệm” rẽ nước sông Gio-đan cho thấy “thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa” (2 V 2,8-18) để tiếp tục sứ mạng. Nay các môn đệ của Chúa (chứ không phải một người thôi) sẽ nhận được quyền năng Thánh Thần để tiếp tục thấy và làm công việc của Người trên trần gian.

Hai người áo trắng đã đàm đạo với Chúa Giê-su khi Người tỏ vinh quang trên núi (Lc 9,30-31), đã báo tin cho các phụ nữ ra viếng mộ biết là “Người là Đấng đang Sống” (Lc 24,5) nay đến báo cho các ông biết là “Người sẽ đến y như Người đã lên”.

Các ông “trở về Giê-ru-sa-lem, lên lầu trên là nơi các ông trú ngụ… Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với các người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.” (Cv 1,12-14). Chúa Giê-su cũng đã cầu nguyện sau khi chịu phép rửa và Thánh Thần xuống đậu lại trên Người (Lc 3,21-22). Chúa Giê-su mở rộng hiệu quả của cầu nguyện cho mọi con cái của Thiên Chúa : “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái minh của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?” (Lc 11,13).

Quả nhiên, năm ấy, “khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2,2-4)

Và từ hôm ấy, họ đứng ra rao giảng. Ông Phê-rô, mới đêm nào bị một “con hầu” điểm mặt đã khẳng khái chối “không biết người ấy”, dù người ấy là người thân nhất đời của ông và ông vừa mới thề “sống chết có nhau, vào tù hay chết cũng có nhau”. Hôm nay thì khác, đứng trước đám đông từ khắp nơi kéo đến, ông dõng dạc làm chứng : “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.” (Cv 2,32).

Kể từ hôm ấy, các môn đệ lên đường, không còn sợ ai, cũng chẳng sợ gì nữa. Lúc nào cũng có quyền năng Thánh Thần là sức mạnh và là ánh sáng dẫn đi trên mọi nẻo đường mới lạ để đi tới tận cùng thế giới. Từng đoàn người, từng dân tộc, từng màu da, tiếng nói sẽ nhập đoàn với họ để làm môn đệ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã phục sinh và lên trời, rồi sẽ đến trong vinh quang xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi cả Hội Thánh tiếp tục đi tới mọi biên cương, chính là mời gọi chúng ta tiếp tục để cho Thánh Thần đưa đi mãi, đừng tìm an toàn ở một nơi nào, trong một tình trạng nào. Những người chống đối ĐTC chính là những người muốn an toàn trong cái vỏ ốc đã nhận làm nhà, không muốn dấn thân vào con đường của Thánh Thần là Đấng đổi mới mọi sự : “Thần khí Ngài Ngài gởi đến, là chúng được tạ thành, và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104/103,30). “Nếu chúng tasống nhờ Thánh Thần thì cũng hãy nhờ Thánh Thần mà tiến bước” (Gl 5,25).

Chúng ta có còn tin vào Chúa Phục Sinh và Quyền Năng Thánh Thần để dám dấn thân vào những nẻo đường mới, những vùng biển lạ hay không ? Cứ nhìn lại lịch sử trong khoảng thời gian cuộc đời của thế hệ tín hữu di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, rồi thế hệ di tản và thuyền nhân Viêt Nam 1975-1990, và so với hiện nay, Hội Thánh tại Việt Nam đã tiến bước như thế nào, để thấy Quyền Năng của Chúa Phục Sinh và của Thánh Thần mà tin tưởng đi tới. “Thầy đây, đừng sợ !” (Ga6,20). Lời Thiên Chúa hứa với Áp-ra-ham : “dòng dõi ngươi sẽ chinh phục quyền lực (cửa) của kẻ thù” (St 22,17), thì Chúa Giê-su đã thực hiện khi chiến thắng cái chết và Chúa hứa khi tuyên bố xây Hội Thánh trên tảng đá Phê-rô : “Các cửa [quyền lực] của hỏa ngục không làm gì được” (Mt 16,18)

Các sách Tin Mừng khác không trình bày rõ ràng thành hai ngày khác nhau như Lu-ca nhưng cũng cho chúng ta thấy là không phải trong cùng một ngày.

Tin Mừng Gio-an (sách Tin mừng xuất bản sau cùng) kể rằng sau khi Đức Giê-su đã chết và được mai táng ngày thứ sáu, ngày thứ nhất trong tuần, ban sáng, Chúa đã cho bà Maria Mác-đa-la gặp, và sai bà đi báo tin : “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em”. Bà Maria Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và kể lại những điều Người đã nói với Bà.” (Ga 20,17-18).

Nhưng chiều ngày ấy vẫn chưa có gì biến đổi nơi các môn đệ :

“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (20,19-23)

Chúa Phục Sinh đích thân đến ban bình an và cho các ông bằng chứng là chính “Thầy của các ông” đã chết trên thập giá, bị đâm thủng cạnh sườn và được mai táng trong mộ, bây giờ đang đứng trước mặt và nói với các ông. Trong bữa Tiệc Ly, Người đã ban điều răn mới, tức là Giao Ước Mới, đã hứa sẽ đến cho các ông bình an và niềm vui không ai lấy mất được, và đã trao sứ mạng cho các ông để ra đi (x. Ga 13-16). Hôm nay Người đã sai bà Maria Mác-đa-la báo tin là Giao Ước Mới đã thành tựu, bây giờ Người đến cho các ông bình an, niềm vui và Thánh Thần để các ông đưa người ta vào trong Giao Ước Mới nhờ ơn tha tội.

Ông Tô-ma không có mặt tối hôm đó, về nghe nói, nhất định đòi phải được thấy tận mắt, bắt tận tay mới tin. Tám ngày sau, vẫn cử đóng then cài.

Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông : “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông Tô-ma thưa Người : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” 29 Đức Giê-su bảo : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (20,24-29).

Điều mới mẻ trong cuộc gặp mặt dành riêng cho Tô-ma hôm nay, là Tô-ma tuyên xưng đón nhận Giao Ước : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Và Chúa Giê-su công bố mối phúc cho mọi người từ đó về sau : “Phúc thay những người không thấy mà tin”.

Sau đó Gio-an lại kể việc các ông trở lại nghề chài lưới ở Biện Hồ Ga-li-lê và Chúa đến… Câu chuyện lần này dành cho ông Phê-rô tuyên xưng lòng mến, Chúa trao cho ông làm mục tử giống như Thiên Chúa khi đưa dân lưu đầy trở về (x. Is 40,11) và như chính Chúa Giê-su, Mục Tử Đẹp, gương mẫu, thí mạng vì đoàn chiên. (Ga 21). Ôn lại bấy nhiêu để thấy Tin Mừng Gio-an cũng cho thấy là có một khoảng thời gian giữa ngày Chúa phục sinh với ngày môn đệ bắt đầu thi hành sứ mạng. Nhưng không kể thêm về ngày các ông bắt đầu thi hành.

Tin Mừng Mác-cô (sách Tin Mừng đầu tiên xuất bản), kể vắn gọn, nhưng tinh vi, hóm hỉnh và thâm thúy hơn. Mc kể nội dung “tin nhắn” thiên thần ngồi trong “ngôi mộ trống” trao cho các bà đem về cho các môn đệ, là hãy về Ga-li-lê, các ông sẽ được gặp Đấng Phục Sinh ở đó. Nhưng “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.” (Mc 16,8).

Sau đó phần kết như chúng ta đọc hiện nay có vẻ tóm tắt những gì Tin Mừng Lu-ca kể. Tuy nhiên, vẫn có nét riêng của Mác-cô là chân dung các môn đệ không thay đổi, “không tin và cứng lòng”. Bà Maria Mác-đa-la đi tìm các ông để chuyển tin nhắn, thì thấy các ông đang buồn bã khóc lóc. Mchài hước và dí dỏm, hí họa một thế giới đảo lộn : các bà thì không nói, các ông thì ngồi khóc tỉ tê ! Bà kể gì các ông cũng chẳng tin.

Hai môn đệ từ Em-mau trở về báo tin, các ông vẫn “vững như kiềng ba chân”.

Cuối cùng Chúa Giê-su đích thân đến :

Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các ông : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng. (Mc 16,14-20)

Chúa Phục Sinh chẳng an ủi, nhưng quở trách các ông “không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy”. Vang vọng lời quở trách ở chương thứ tám trước khi ông Phê-rô tuyên xưng :

“Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh ? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao ? Lòng anh em ngu muội thế ! 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư ? Anh em không nhớsao : 19 khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh ?” Các ông đáp : “Thưa được mười hai.” 20 “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh ?” Các ông nói : “Thưa được bảy.” 21 Người bảo các ông : “Anh em chưa hiểu ư ?”

Lc và Ga cho thấy Chúa an ủi, dỗ dành, vực dậy lòng tin của các ông. Mc không hề kể một lời hay cử chỉ an ủi vỗ về nào. Theo sau lời quở trách là lệnh lê đường quyết liệt : “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi thụ tạo”.

Đáng chú ý là theo Mc thì phải “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” chứ không chỉ cho mọi dân mọi nước. Người dịch hay người giải thích, thường giảm ý nghĩa của từ thọ tạo ở đây. Nhưng nếu chú ý thì sẽ thấy, ngay trong 13 câu đầu sách, Mc đã gợi nhớ chuyện tổ tông phạm tội trong Vườn Địa Đàng, kết quả là làm cho mọi loài thọ tạo phải lụy : đất sẽ sinh ra gai góc. Còn Chúa Giê-su chiến thắng thì biến hoang địa trở lại thành vườn, như I-sai-a loan báo (x. Is 42,15-16 ; 43,18-21 ; 51,3 ;Mc 1,1-13 ; St 3,17-19)

Đáng ngạc nhiên là Mc nói Chúa hứa cho “những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin”. Họ tin rồi thì họ đâu cần dấu lạ nữa ! Dấu lạ tác dụng trên ai, với mục đích gì ? Hẳn là tác dụng trên những ai không có lòng tin, để xác nhận rằng họ tin là phải, là đúng. Những người có lòng tin này không hề được “thấy” như các môn đệ, và chính các ông cũng không chịu tin những người đã thấy Chúa sau phục sinh.

Vậy thì chính các môn đệ vốn không chịu tin, phải ngỡ ngàng trước những dấu lạ đi theo những người đã tin lời họ rao giảng. Họ phải nhận ra là họ đã sai khi không tin lời những người đã thấy. Chúa chữa lòng cứng tin của các môn đệ bằng cách cho thấy lời họ rao giảng có sức để tự mọc lên như nhạt giống, chứ không phải nhờ họ (x. Mc 4,26-29).

Mc giải thích điều này khi kể thêm :

19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

Chúng ta gặp lại lời thánh Phao-lô đã viết cho dân Cô-rin-tô vốn “hay cãi, hay co…”

5 Vậy A-pô-lô là gì ? Phao-lô là gì ? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. 7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. 8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. 9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên. (1 Cr 3,5-9).

Tin Mừng Mát-thêu lại có một cách trình bày khác. Sau khi các phụ nữ đi viếng mộ được thiên thần báo tin và nhờ các bà đi báo tin cho các môn đệ, thì chính Chúc Phục Sinh đến gặp các bà trên đường :

Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : “Chào chị em t !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà : “Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” (Mt 28,9-10).

Sau khi kể chuyện lừa bịp do các thượng tế và kỳ mục dựng đứng cách vụng về, Mt kể tiếp :

Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (28,16-20)

Chúa Phục Sinh đích thân sai các bà đi báo tin cho “anh em của Thầy”. Như vậy là Chúa Phục Sinh đã nâng cấp cho các môn đệ thành “anh em của Chúa” rồi. Nhóm Mười Hai lúc này chỉ còn Mười Một. Mt không kể việc Mát-thi-a được chọn thế chỗ Giu-đa.

Thấy Người thì các ông bái lạy, Mt như ngầm cho thấy là Chúa đến trong vinh quang. Lúc Chúa sinh ra thì các hiền sĩ từ phương Đông đã đến bái lạy. Hôm nay thì chính nhóm Mười Một đã từng ở với Chúa bái lạy. Tuy nhiên, điều khó hiểu là “có mấy ông lại hoài nghi”. Mt không nói rõ hoài nghi điều gì, hoài nghi về Chúa phục sinh hay vì không tin nổi mắt mình ?

Chúa Giê-su “lại gần các ông”, có vẻ như để xóa nỗi hoài nghi, và long trọng tuyên bố vương quyền Người đã nhận từ Thiên Chúa, bao trùm trời đất. Và nhân danh quyền ấy Chúa sai nhóm Mười Một đi làm cho muôn dân thành môn đệ. Môn đệ đã thành anh em của Chúa, vậy thì sứ mạng trao cho nhóm Mười Một là “làm cho muôn dân thành anh em của Chúa !”

Mát-thêu đã mở đầu sách Tin Mừng bằng gia phả của Chúa Giê-su, với hai vị tổ phụ được nêu làm cột mốc : Đa-vít và Áp-ra-ham. Hai vị này đã nhận những lời Thiên Chúa hứa liên quan tời dòng dõi. Đa-vít được lời hứa là dòng dõi sẽ đời đời làm vua (x. 2 Sm 7) còn Áp-ra-ham thì được lời hứa dòng dõi đông như “sao trời, cát biển” và “phúc lành cho muôn dân” (x. St 22,15-18)

Nơi Chúa Giê-su, Con vua Đa-vít đã phục sinh và nhận mọi quyền trên trời dưới đất, thì lời hứa cho Đa-vít đã thực hiện cách tuyệt vời. Mt đã trích dẫn lời hứa về Em-ma-nu-en (Is 7,14) để nói về nguồn gốc Chúa Giê-su, thì bây giờ Đức Giê-su Phục Sinh đã được tôn phong làm Chúa và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. “Em-ma-nu-en, Chúa-ở-cùng-chúng-ta”đây rồi.

Chính Người làm cho lời hứa cho Áp-ra-ham dòng dõi đông đúc, và phúc lành cho muôn dân thành hiện thực. Nhưng Người dùng Nhóm Mười Một và những người kế tiếp để làm công việc này.

Ta thắc mắc sao Mát-thêu lại dừng ở con số Mười Một ? Mười Hai chi tộc Ít-ra-en, thì Lê-vi được dành để phụng sự Thiên Chúa, không có phần đất riêng. Chúa Giê-su là dòng dõi Giu-đa, nhưng đã trở thành Thượng Tế muôn đời : “Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng : “muôn thuở con sẽ là Thượng Tế, theo phẩm trật Men-ki-xe-đê” (Tv 110/109,4).

Thư Híp-ri quảng diễn điều này, đặc biệt từ chương 7 dến 10. Chúa Giê-su vừa là Vua vừa là Thượng Tế muôn đời, nên không cần đến việc tế tự mà Cựu Ước trao cho dòng họ Lê-vi nữa.

Giê-ru-sa-lem, ngày 27 tháng 5, 2019

L.M. Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.

 


Trang Suy Niệm Các Chủ Đề Chung