Noel đến khẽ động vào ta bởi một chút lạnh của thiên nhiên, bởi
những cung bậc trầm bổng của những bài thánh ca, cùng với lời kêu gọi khẩn
thiết của Ngôn sứ Isaia và tiếng hô xé nát cõi lòng của Gioan Tẩy Giả.
Noel đến, nhà nhà, người người nô nức làm hang đá. Nơi các nhà thờ,
hang đá là nơi để con người đến chiêm ngắm, khám phá tình yêu bao la của Hài
Nhi Giêsu khi từ bỏ ngai vàng của mình mang thân phận con người hạ mình sinh
nơi nghèo khổ.
Noel đến, người người đến với hang đá, nhưng có mấy ai đến để cho
Hài Nhi Giêsu một chút hơi ấm của lòng mình, hay chỉ là: “Đến xem hang đá này
anh em ơi! Nó đẹp lắm…”
Noel đến, lời thiên thần loan báo cho các mục đồng đến Belem thờ
lạy Hài Nhi Giêsu sinh ra trong hang đá nghèo hèn lại vang lên, làm mủi lòng những
người muốn chia sẻ và thúc giục họ nhanh chóng lên đường.
Đáp lại, các mục đồng “áo nâu” đã hăng hái theo gót các mục
đồng xưa hăm hở nhắm theo hướng Bêlem mới là anh chị em dân tộc Kơho mà thẳng
tiến. Càng tiến tới, Bêlem dần dần xuất hiện, nằm yên bình dưới một thung lũng,
được bao bọc bởi những dãy núi trùng điệp. Ở giữa thung lũng, ngôi thánh đường
sừng sửng vươn mình lên trên nền trời xanh thẳm, tượng trưng cho khát vọng vươn
lên của những con người nghèo khổ.
Sau hơn một ngày đêm sống tại Bêlem, các mục đồng đều no lòng thoả
dạ về những ân lộc được lãnh nhận, rồi hớn hở ra về. Giờ đây khi đã yên vị
trong ngôi nhà thân yêu của cộng đoàn, nghĩ tới Tà Nung, lòng tôi dấy lên những
cảm xúc khôn tả.
Tôi thật ngạc nhiên về những gì tôi thấy tôi nghe và tôi cảm ở Tà
Nung. Trước chuyến đi tôi đã nghĩ về họ như một Giêsu nghèo khổ, tội nghiệp và
thiệt thòi về mọi mặt. Tới nơi rồi tôi quá đỗi ngạc nhiên. Đời sống của họ như
cây thông tràn trề nhựa sống. Rễ chắc khoẻ bám sâu vào đất, cành vươn ra đón
ánh nắng mặt trời. Đời sống kinh tế đang chuyển động trong họ. Sự nghèo khổ
ngày nào đang bị đẩy lui, đưa họ tiến gần hơn với đời sống của người kinh. Nhìn
họ tôi thầm cảm tạ Chúa và xin Người tiếp tục ban ơn cho họ.
Đến với họ, tôi như lạc vào giữa một thế giới của tình yêu thương,
lòng biết ơn và sự chân thật. Ở họ luôn toát lên sự hiền hoà, thân thiện, hiếu
khách đến lạ thường. Họ không muốn bất kỳ ai đến với họ phải về tay không,
nhưng muốn lữ khách phải ngây ngất trong đại dương yêu thương. Nhìn họ, tôi đã
phải thốt lên: “Ôi! Con người Tà Nung, sao đời sống tinh thần của ngươi phong
phú và giầu có đến vậy.” Trong giây phút cảm xúc dâng tràn, tôi bỗng nghĩ về
tôi – một con người nghèo nàn. Tôi thật sự cám ơn họ vì nhờ họ tôi nhận ra tôi
- một con người ốm yếu về tình thương, nghèo nàn về lòng biết ơn và sự chân
tình. Tà Nung ơi! Ngươi đã trở thành gương sáng cho ta soi mình trong đó.
Đẹp đẽ là vậy, thanh thoát là vậy, nhưng vẫn ẩn tàng trong đó những
bóng đen. Nhìn một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bảy đang nép mình bên
cánh cửa. Người bạn cùng đi với tôi nhẹ nhàng hỏi: “Em học lớp mấy rồi?” Đơn sơ
và thành thật em trả lời: “Đã hai con rồi, còn học hành gì nữa hả thầy.” Tôi
trố mắt lên nhìn. Câu nói đơn sơ của cô gái như một sợi dây vô tình nào đó thắt
chặt tim tôi. Lời tâm sự của một chị Nữ Tỳ Chúa Thánh Thần còn vang vẳng trong
tôi: “Giá như có một cộng đoàn tu sĩ nam ở đây để giúp các bạn trẻ về vấn đề
tâm lý và luân lý thì tốt biết mấy.” Tôi nhắm mắt lại, lặng lẽ cúi đầu và thầm
nghĩ: “Lạy Chúa, phải chăng Chúa đang nói với con về nỗi lòng của Chúa.”
Mai Văn Công