Ngày 23.07.2006
TÌNH BƠ VƠ
Mc 6:30-34
Chúa nhật vừa qua, thay
cha xứ, tôi chủ tọa phiên họp Hội đồng Mục vụ.
Anh trưởng ban sinh hoạt giới trẻ trình bày rất hấp dẫn về kế hoạch sinh
hoạt và quy tụ bạn trẻ trong giáo xứ. Mọi
người say sưa lắng nghe. Tôi lên tiếng :
“Xin các bạn lưu ý một thực tế : khi sinh hoạt giới trẻ, nhiều người cho rằng
truyền thụ đức tin cho giới trẻ là điều quan trọng duy nhất. Nếu giới trẻ chỉ hiểu giáo lý bằng tiếng Anh,
chúng ta sẽ thất bại, nếu dạy bằng tiếng Việt.”
Anh trưởng ban phản pháo : “Từ nãy đến giờ con có nói gì về tiếng Anh
hay tiếng Việt gì đâu. Con chỉ muốn tìm
mọi cách đáp ứng nhu cầu của giới trẻ thôi.”
Tôi đáp lại : “Ðúng vậy ! Nhưng
khi hướng dẫn giới trẻ, nếu chỉ tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu giới trẻ, mà không
nêu lên được đường hướng, tôi sợ giới trẻ không biết đi về đâu. Không phải vô tình Giáo hội Hoa kỳ chấp nhận
cho thành lập giáo xứ Việt nam trên đất Mỹ.
Không thể coi nhẹ yếu tố văn hóa dân tộc trong việc duy trì và bảo vệ đức
tin. Trong tình thế hiện nay, tôi không kỳ
vọng dạy giáo lý bằng tiếng Việt một trăm phần trăm. Nhưng nếu nói tiếng Mỹ một trăm phần trăm như
hiện nay cũng không ổn. Nếu không sáng
suốt, chúng ta có thể đi xa ý hướng ban đầu, đánh mất căn tính giáo xứ Việt Nam
và tạo nên hai lớp giáo dân không thể nói truyện và làm việc được với nhau. ”
Lãnh đạo không phải là
chạy theo thị hiếu quần chúng. Không phải
vì “chạnh lòng thương,” (Mc 6:34) mà Chúa mù quáng đến nỗi không còn phân biệt
những nhu cầu muôn mặt của họ. Cần một hướng
sống chứ không cần tìm thỏa mãn những nhu cầu tầm thường. Nhưng làm sao có thể tìm được một đường hướng
tốt đẹp, nếu không “lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (Mc 6:31.32) ? Rút vào nơi hoang vắng không phải để khoe
khoang thành tích (bệnh thành tích đã thịnh hành rất sớm và kết thúc rất trễ nơi
các tông đồ !). Như mọi người, các môn đệ
cũng có những nhu cầu tự nhiên như “nghỉ ngơi” hay “ăn uống.” (x. Mc 6:31) Nhưng khác mọi người, họ cần rút vào nơi hoang vắng, để múc lấy sức mạnh và ánh sáng từ Chúa
Cha. Sở dĩ Chúa Giêsu và các tông đồ hấp
dẫn quần chúng (x. Mc 6:33.34) và thành công quá mức (x. Mc 6:30), vì các ngài đã
biết tìm đến nơi vắng vẻ để tăng cường nội lực.
Ðó là thời gian “dưỡng
quân” vô cùng cần thiết.cho công cuộc cứu độ muôn dân. Nếu không có thời khắc quý báu này, làm sao các
môn đệ có thể học biết tại sao “Ðức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh
lòng thương.” (Mc 6:34) Dần dần con mắt
môn đệ mới bừng sáng trước nguyên nhân sâu xa của lượng hải hà đó : “Vì họ như
bầy chiên không người chăn dắt” (Mc
6:34) ! Qua lịch sử đau thương của dân
tộc, Chúa cho các môn đệ thấy rõ chính “những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn
dắt phải thất lạc và tan tác.” (Gr 23:1) Họ cắm đầu
vào lợi lộc vật chất. Họ lo vắt hết sữa
và xả thịt chiên. Tự bản chất, họ là phường
trộm cướp suốt ngày tìm mưu tính kế sát hại đoàn chiên (x. Ga 10:1.8.10). Họ là những hạng lãnh đạo mất tinh thần. Vô phương hướng. Vô tổ chức.
Bè phái. Kiêu căng. Hợm hĩnh.
Bởi thế, đoàn chiên mới lạc lõng bơ vơ.
Trước tình cảnh , làm sao Chúa không chạnh lòng thương cho được chứ ?!
Nhưng nếu vì quá yêu thương,
Chúa Giêsu và các tông đồ lăn xả vào đám đông, còn đâu thời giờ Chúa huấn luyện
họ thành “các mục tử để lãnh đạo” ( Gr 23:4) đoàn chiên theo đúng “kế hoạch yêu
thương” (Ep 1:9) của Thiên Chúa ? “Kế
hoạch yêu thương” này dần dần được mạc khải qua những nét vĩ đại của tình yêu
khi thấy Thày “chạnh lòng thương” dân chúng.
Như vậy, “nơi thanh vắng” người môn đệ đón nhận cả chân lý lẫn tình yêu để
có đủ khả năng “dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6:34) về Nước Thiên Chúa. Vào “nơi hoang vắng” không phải để xa rời
quần chúng, nhưng để thấy rõ những vấn đề của họ và biết cách diễn tả tình yêu đối
với họ. Nhờ thế, người môn đệ mới có thể
“quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Ðức Kitô.” (Ep
1:10) Mục đích cuối cùng là làm cho nhân loại “hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể
duy nhất” và “liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep
2:16.18)
Một phương hướng cao sâu
như thế, thử hỏi vào “nơi thanh vắng” tới bao giờ mới có thể quán triệt được
? Xét lại, tôi thấy mình đã dành thời
giờ quá ít trong “nơi thanh vắng” để suy tư, cầu nguyện. Lúc nào tôi cũng bận bịu với đám đông. Cuối tuần, tôi lo chạy hết đám tiệc này đến bữa
nhậu kia. Trong tuần, tôi xoay sở với đủ
mọi thứ giấy tờ và điện thư. Suốt ngày
“cắt gián” đủ mọi thứ kinh kệ, thông cáo, tin tức v.v. Tôi quay cuồng trong mục vụ ở Mỹ. Làm gì còn thời giờ đọc sách ! Năm này sang tháng khác, chỉ cần một cuốn sách
soạn bài giảng đủ chuẩn bị món ăn tinh thần nuôi dưỡng đoàn chiên. Ai cũng sợ vì tôi là người chỉ đọc một sách
! Không ngờ có “con chiên” dám phê bình bài giảng
tôi thiếu chất lượng, vì không dành thời giờ soạn bài. Tôi có dư lý lẽ biện bác. Không cần suy nghĩ, tôi “gân cổ” cãi ngay :
“Mỗi người giảng một cách. Không nên lấy
khuôn mẫu của người khác mà quàng lên đầu lên cổ tôi, bắt tôi phải theo.” Thực tế, tôi không trầm lắng đủ để thấy rõ vấn
đề. Thay vì hướng dẫn đoàn chiên theo Mục
tử nhân lành, tôi lại bị chính họ lèo lái theo những xu hướng và nhu cầu thời đại.
Hoàn toàn bế tắc. Làm sao tìm được lối
thoát bây giờ ?!
Ðầu óc tôi hoàn toàn trống
rỗng. Tài năng chỉ có hạn. Nhưng mắc bệnh “thành tích” trầm trọng, nên tôi
hay thích phóng đại mọi “công trình” của mình .
Gặp đám đông bao giờ tôi cũng thích khoe khoang mọi việc tôi đã làm “cho
Chúa.” Ðám đông càng lớn càng có dịp mọi
người biết đến tôi. Tội gì không chụp ngay cơ hội vô cùng hiếm có
và quý giá đó ! Nếu không, đợi tới lúc
nào mọi người mới biết đến tôi ?!
Trước cơn gào thét của đoàn
chiên, tôi không hề rung động. Con tim thành chai đá trước những khổ thống của đoàn
chiên. Cuối cùng là tình bơ vơ. Tôi không thể hiểu tại sao “Ðức Giêsu chạnh lòng
thương đám đông” tầm thường như vậy. Dù
có dư phương tiện, tôi vẫn không bao giờ mở rộng bàn tay. Cứ cho mãi, tôi lấy gì trang trải cuộc sống
? Tôi đang lo tích trữ tiền của cho những
năm tháng hưu dưỡng của tôi đây. Tôi không
lo thì ai sẽ lo cho tôi bây giờ ? Không những không cho người nghèo, tôi còn tìm
mọi cách ngăn cản người khác làm việc bác ái.
Trên tòa giảng, trang web hay báo chí, tôi vạch ra những lý do mạnh mẽ
cho mọi người thấy làm việc bác ái mãi sẽ cạn kiệt và mỏi mệt. Không ngờ có nhiều người đồng ý với tôi. Thế là từ nay, ai lăm le vác giỏ sang xin Mỹ xin xỏ cũng phải
dè chừng tôi. Sống chết mặc bay ! Không cần “chạnh lòng thương” ai cả ! Từ nay, tuyệt đối “an toàn trên xa lộ,” tôi
phóng thẳng một mạch tới Thiên đàng ! Sẽ
có rất nhiều “con chiên” theo tôi . . .
Lạy Chúa, xin hãy biến
con tim chai đá của con thành con tim bằng thịt. Xin cho con biết “chạnh lòng thương” như Chúa
! Xin Chúa mau cứu lấy đoàn chiên của Chúa khỏi bao nhiêu
mục tử đang làm đoàn chiên tan tác. Xin
cho các nhà lãnh đạo Giáo hội Việt nam hôm nay biết noi gương Chúa “hy sinh
thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2:14) giữa các phe
nhóm và “thiết lập hòa bình” (Ep 2:15) thực sự trên quê hương yêu dấu của con. Chỉ Mục Tử tối cao và toàn năng như Chúa mới có
thể giải thoát chúng con mà thôi ! Xin đừng để chúng con thất vọng vì đã tin vào
Chúa. Amen...
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực,
OP