TÌNH CẢM HAY TÌNH YÊU

(Mc 10:35-45)

 


Cách đây hơn 21 năm, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc Công đồng Vatican II, Giáo hội đã lên tiếng : “Ngày nay, khắp nơi chúng ta chứng kiến thế giới gia tăng nghèo đói, đàn áp, bất công và chiến tranh, đau khổ, khủng bố, và đủ loại hình thức bạo lực khác.  Cần phải có một suy tư thần học mới và sâu xa hơn để giải thích các dấu chỉ thời đại này dưới ánh sáng Tin Mừng.”[1]  Lạ chưa !  Giữa lúc ai cũng tránh xa và không muốn nghĩ tới những tai họa đó, Giáo hội lại thấy đó là những dấu chỉ thời đại và nỗ lực tìm kiếm giá trị cứu độ nơi những khổ đau đó.  Vì xét cho cùng, “tự bản chất hiệp thông, Giáo hội là một nhiệm tích cứu độ nhân loại.”[2]

Trước một nhân loại và dân tộc đang đau khổ về nhiều mặt như thế, thường người ta đặt ra câu hỏi : Giáo hội phải làm gì ?  Nhưng đó chỉ là câu hỏi phóng về tương lai.  Cần phải hỏi ngược về quá khứ hay về tận nguồn để thấy toàn thể vấn đề.  Câu hỏi về tận nguồn đòi chúng ta phải nhìn vào lòng đời để thấy được lòng mình.[3]  Nói khác, những hiện trạng đau thương đó có tố cáo thực trạng tâm hồn và cuộc sống người Kitô hữu không ?  Liệu chúng ta có thể phủi tay được trước những đau khổ của người khác không ?  Cách nào đó, phải chăng những nạn nhân thời cuộc không do những bàn tay lông lá của chúng ta gây ra ?  Những câu hỏi này không do tưởng tượng phi lý.  Rõ ràng trước thánh lễ chúng ta vẫn đấm ngực cả về “những điều thiếu sót” nữa.   Ðây chính là lúc chúng ta cần xét đến những điều thiếu sót trong sứ mệnh làm chứng hôm nay.  Nếu chúng ta sống sát Tin Mừng, liệu nhân loại có đau khổ như vậy không ?  Từ những vấn nạn đó, đi đến một câu hỏi sâu hơn : khi được sai vào trần thế, chúng ta đã sống và hoạt động theo hướng nào ?  

Muốn tìm được câu trả lời đích xác, chúng ta cần dựng lại khung cảnh và tâm trạng các môn đệ theo Chúa Giêsu ngày xưa. Các ông là những người rất đặc biệt vì đã được tuyển chọn làm tông đồ (tiền thân của giám mục).   Nhưng tinh thần thế tục vẫn chưa gột sạch khỏi đầu óc.  Các ông tìm mọi cách để “cỡi lên đầu lên cổ người ta.”[4]   Muốn đổi đời, phải biết mình đang sống theo tinh thần nào.[5]   Không thể lấy tinh thần thế tục mà cải hóa thế gian.  

Ngay giữa hàng ngũ tông đồ, các ông không đối thoại với nhau.  Bằng chứng, thấy sự kiện Chúa nhỏ to với ông Giacôbê và ông Gioan,  “mười môn đệ kia đâm ra tức tối.”[6]   Ðúng là tình cảm đã làm cho con người tự ái quá mức, khiến họ không còn nhìn thấy vấn đề và hiểu thấu nỗi khổ tâm của anh em nữa.  Họ có biết câu truyện kết thúc thế nào đâu.  Tai họ chỉ nghe phần mở đầu câu truyện.  Phần kết nếu có lọt vào tai cũng không lọt tới tim họ.  Không hiểu hết câu truyện, họ cũng chẳng thèm hỏi lại cho rõ.  Trái lại, cứ phản ứng theo ý mình.  Họ chỉ nghe những điều muốn nghe.  Ðó là chỗ bế tắc.  Không có hiệp thông, cũng không có đối thoại.   Mỗi người chỉ biết có mình.  Họ không thông cảm với hai anh em đang muốn “độn thổ” vì bị Chúa “gài độ.”  Hai anh em đỏ bừng mặt.  Giữa lúc “tẽn tò” như thế, hai anh em lại đụng phải sự tức tối và cái nhìn hằn học từ phía các bạn cùng Nhóm Mười Hai.  Tại sao không trực tiếp nói truyện với hai anh em để tìm hiểu đầu đuôi câu truyện và giải quyết vấn đề ? Ðối thoại hoàn toàn bế tắc.

Ðây là cơ hội ngàn vàng để Chúa dạy một bài học đắt giá về bản chất môn đệ khi được Chúa Kitô sai đi làm chứng và cứu độ nhân loại. 

Bài học đó khởi đầu từ một hướng sống Chúa vạch ra khi đi vào trần gian : “Con Người đến để phục vụ.”[7]  Nếu không phục vụ, chắc chắn Chúa đã không thể nâng con người lên địa vị con Thiên Chúa.  Thánh nhân là Tông đồ dân ngoại, vì đã vất vả và thành công vượt mức trong việc truyền giáo.  Thành quả cao quí đó bắt nguồn từ thái độ rất khiêm tốn của Thánh Nhân.[8]   Thực vậy, “là nhà truyền giáo có nghĩa là cúi xuống phục vụ những nhu cầu của mọi người, như người Samaritanô nhân hậu, nhất là những người nghèo túng và những người cùng khổ nhất, bởi vì ai yêu thương bằng con tim của Chúa Kitô thì không mưu tìm lợi ích riêng, nhưng chỉ tìm vinh danh Thiên Chúa và điều thiện hảo cho tha nhân.”[9]

Như thế, muốn phục vụ hữu hiệu, nhà truyền giáo phải tìm hiểu và quan tâm tới nhu cầu tha nhân.  Chủ quan vạch ra những  đường hướng theo ý mình, và tưởng đó là ý Chúa, họ sẽ không thể phục vụ mọi người.  Không hiểu tha nhân đang cần gì, mà chỉ chú ý đến chương trình và kế hoạch đã vạch sẵn, sẽ làm cho quần chúng xa rời và chán nản. Nếu có một quả tim như Thiên Chúa, chắc chắn họ đã có thể tìm được một đường hướng phục vụ hữu hiệu rồi.  Nếu không, vinh danh Thiên Chúa và thiện ích tha nhân phải nhường bước cho tư lợi hay tham vọng quyền bính. Ðó chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong việc truyền giáo.

Công cuộc truyền giáo ở Việt nam hiện tại có vấn đề không ?  Làm cách nào giải quyết những vấn đề “thâm căn cố đế” trong Giáo hội Việt nam  ? 

Trước hết, ÐGH Bênêđictô XVI nhắc lại lời ÐGH Gioan Phaolô II.   “Linh hồn của mọi hoạt động truyền giáo: Tình yêu đã là và vẫn sẽ là sức mạnh chủ đạo của việc truyền giáo, đồng thời cũng là tiêu chuẩn duy nhất để xét đoán điều gì phải làm hay không nên làm, phải thay đổi hay không thay đổi. Tình yêu là nguyên tắc hướng dẫn mọi hành động và là mục tiêu để mọi hoạt động nhắm tới.  Khi chúng ta hành động vì đức ái, hoặc được khởi hứng bởi đức ái thì không có gì là không thích đáng nhưng tất cả đều tốt.”[10]  Như vậy, tình yêu vừa là động lực, mục tiêu và nguyên tắc hướng dẫn cho công  cuộc truyền giáo.  Không theo đúng hướng đó, tất nhiên không thể có kết quả như mình mong muốn.  Gieo nhân nào gặt quả đó.  Sống trong nghi kỵ, ghen tương, ganh đua, lấn lướt, làm sao có thể hiệp thông ?  Không hiệp thông làm sao có bác ái ?  Không bác ái, thì lấy gì rao giảng ?

Tình yêu là tất cả.  Nếu đúng vậy, ai dám trách cứ chúng ta không có tình yêu khi dấn thân truyền giáo ?  Có dân tộc nào nổi tiếng giàu tình cảm hơn chúng ta ?  Vậy mà, thực tế lịch sử truyền giáo Việt nam có quá nhiều vấn đề.  Chúng ta thua xa Giáo hội Ðại Hàn.  Kinh nghiệm cho thấy chúng ta giàu tình cảm chứ không giàu tình yêu.  Tình yêu khác với tình cảm. Có lẽ cần phải đọc lại thông điệp đầu đời Giáo hoàng của Ðức Bênêđictô, để thấy rõ sự khác biệt giữa agapeeros.  Một dân tộc giàu tình cảm như chúng ta có lẽ ít ai vượt qua ải eros để tới lãnh vực agape.  Tình cảm dễ làm con người mù quáng, không nhìn thấy gì ngoài cái tôi cồng kềnh của mình. Nhất là khi nắm được quyền bính trong tay, cái tôi càng nối dài với mũ gậy cân đai, tôi càng khó đến với anh em.  Cuộc đối thoại bế tắc vì những rào cản ngất ngưởng.

Nếu chỉ có tình cảm mà không tình yêu, con người không thể phục vụ đúng nghĩa.  Tình cảm khiến con người co cụm lại.  Cái tôi được thổi phồng quá mức, đến nỗi không còn nhìn thấy tha nhân và những nhu cầu thực sự của họ nữa.  Chính vì thế, người Pháp mới nói trong mỗi người Việt nam có một ông quan.  Nhưng, như tôi đã từng nhận định, không phải một ông quan, nhưng là một ông tướng đang phùng má trợn mắt trong mỗi người Việt nam chúng ta.

Tình cảm bao giờ cũng đòi hai chiều.  Có đi có lại mới toại lòng nhau. Hòn đất ném đi hòn chì ném lại.  Bánh ích đi bánh quy tới.  Tình yêu mới hoàn toàn vô vị lợi.  Khi yêu nhau thực, chúng ta sẽ biết lắng nghe, học hỏi và chấp nhận nhau.  Chúng ta sẽ biết cách tôn trọng những khác biệt của người khác.  Không yêu nhau, chúng ta sẽ chỉ tìm cách lấn lướt người khác và thiếu vắng hẳn sự thông cảm.  Nhìn vào khung cảnh sống giữa Thày Trò Chúa Giêsu sẽ thấy ngay vấn đề.  Chỉ nghĩ đến mình và thiếu khiêm tốn, nên hai ông Giacôbê và Gioan đã vẽ cho Chúa một tương lai hoàn toàn có lợi cho mình.[11]    Các ông khác cũng không khá hơn.[12]  Trung tâm cuộc sống chỉ là cái tôi mà thôi.  Nhóm Mười Hai quy tụ những cái tôi kếch xù.  Cuộc va chạm nhiều khi nảy lửa.  Thày bị gạt qua một bên.  Thày có đó.  Nhưng mọi người coi Thày như “pha.”

Nhưng Thày không phải là một con người yếu bóng vía và kém bản lãnh.  Thày thiết lập quân bình rất nhanh.  Phải thấy được hướng sống của Thày phát xuất từ một tình yêu tuyệt vời, mới hiểu tại sao Thày hy sinh cao độ như vậy. Không tình yêu, Thày không thể nào phục vụ cho đến chết.  Thày chết không phải để chết.  Nhưng mục tiêu tối hậu của việc phục vụ đó là “giá chuộc muôn người.”[13]  Nhờ vậy, Người “sẽ làm cho muôn người nên công chính.”[14]   Rõ ràng Người đã lấy chính mạng sống mình để xây dựng Nước Thiên Chúa.   Người hy sinh mạng sống cho mọi người sống hạnh phúc và bình an .[15]

Theo gót Thày Chí Thánh, Giáo hội cũng phục vụ quyền lợi của nhân loại, chứ không nhằm bành trướng tổ chức của mình.  “Ðức ái, linh hồn của Truyền giáo,” mở rộng mọi biên cương.  Không có một biên giới văn hóa, chủng tộc, kinh tế, chính trị nào có thể ngăn cản được bước chân nhà truyền giáo.  Quả thực, “chứng tá tình yêu, linh hồn của truyền giáo, liên quan tới mọi người.  Phục vụ Tin Mừng là một bổn phận chung nối kết mọi cộng đồng.”[16]

Thực tế, có chỗ nào Giáo hội tìm được những “chứng tá tình yêu” cho bằng gia đình ?  Giữa cuộc khủng hoảng gia đình rộng lớn hôm nay, sứ mệnh truyền giáo của gia đình càng quan trọng.  Công cuộc tân Phúc Âm hóa phải bắt đầu từ gia đình. Giá trị gia đình có được bảo đảm, tôn trọng và phát huy, con người mới có đủ đức tính để phục vụ lợi ích đồng loại.  Nếu không có gia đình, con người  không được giáo dục để thấu hiểu giá trị đích thực của tình yêu và không có khả năng phục vụ.  Do đó, họ cũng không thể tham gia vào công cuộc Phúc âm hóa toàn cầu. 

Chính trong gia đình, tình yêu được nẩy nở và trở thành động lực cho mọi sinh hoạt, kể cả truyền giáo.   Từ đó đức ái mới được hiểu đúng nghĩa, vượt qua giới hạn của eros, tới lãnh vực agape.  Chỉ có tình yêu này mới là đức ái thực sự.  “Nếu truyền giáo không được đức ái định hướng, nghĩa là, nếu không phát xuất từ hành vi yêu mến Chúa sâu xa, thì có nguy cơ chỉ còn là hoạt động từ thiện xã hội mà thôi.  Thật vậy, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi con người tạo thành cốt lõi của sức sống và lời rao giảng Tin Mừng, và đến lượt tất cả những ai cảm nhận tình yêu ấy đều trở thành chứng nhân cho Tin Mừng.”[17]

Ðịnh hướng truyền giáo như thế, Giáo hội thấy rõ bản chất của việc truyền giáo hay Phúc âm hóa.  “Ngày nay truyền giáo hay Phúc âm hóa không phải là việc bành trướng Giáo hội cũng không còn là lời kêu gọi ưu tiên gởi đến những người ngoài Kitô giáo nữa.  Ðúng hơn, sống truyền giáo theo nghĩa Phúc âm hóa là phục vụ thế giới một cách vô vị lợi, noi theo bản tính Thiên Chúa luôn hướng tới tha nhân.”[18] Ðó là agape đúng nghĩa nhất và là động lực mạnh nhất bảo đảm cho công cuộc truyền giáo đạt kết quả tốt đẹp nhất.

Nhìn lại chính con người mình, tôi cảm thấy thật xấu hổ.  Tự bản chất, tôi là người Việt nam.  Bởi thế, tôi cũng không khỏi bị tình cảm chi phối.  Sự thật và tình yêu nhiều lúc cũng xa tít mù khơi.  Bởi đó, không những không làm gì nên hồn, tôi còn nhìn đời bằng màu đen.  Chúa dạy phải yêu kẻ thù.  Thực tế, tôi không yêu nổi anh em.  Khi hứng chí, tôi làm chết bỏ.  Lúc chán nản, tôi không muốn động tay động chân động não. Tôi sống như người không biết Chúa Kitô.  Nhất là khi gặp những thất bại hay thất vọng, tôi dễ buông xuôi.  Tôi thích nghe nhạc buồn hơn là tìm đến Lời Chúa. 

Giữa lúc đó, tự đáy con tim, bỗng vang lên : “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”[19]  Tôi bừng tỉnh.  Trung tâm cuộc sống đã thay đổi.  Nỗi buồn tắt ngúm.  Niềm vui vang dậy với bản tình ca Alleluia !

 

Lạy Chúa, xin cho con sống thật tình với Chúa để con có thể vận dụng tất cả trái tim và  bàn tay tham gia vào công cuộc Phúc âm hóa nhân loại hôm nay.  Amen.

 

đỗ lực   22.10.2006     

dzuize@gmail.com 


 

 

 



[1] Thương Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới Khóa Ngoại Thường 1985

[2] ibid.

[3]Mt 15:19 : “Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống.”

[4] x. Mc 10:42.

[5] x. Lc 9:55.

[6] Mc 10:41.

[7] Mc 10:45.

[8] x. Ep 3:8.

[9] Bênêđictô XVI : Sứ điệp “Đức ái: Linh hồn của Truyền giáo,” ngày 29 tháng Tư, 2006.

[10] Gioan Phaolô II : Thông điệp Redemptoris Missio, số 60.

[11] x. Mc 10:37.

[12] x. Mc 10:41.

[13] Mc 10:45.

[14] Is 53: 11

[15] x. Rm 14:17.

[16] Bênêđictô XVI : Sứ điệp “Đức ái: Linh hồn của Truyền giáo,” ngày 29 tháng Tư, 2006.

[17] ibid.

[18] x. Kavunkal J., Mission or Evangelization? Mission Studies, Volume 21, Number 1, 2004, pp. 55-64 (10)

[19] Mc 10:45.


Mục Lục