CỬA TRỜI RỘNG HẸP AI
HAY ?
(Lc
13:22-30)
Hôm nay, ngồi nghe tâm
sự bạn trẻ nhiễm HIV trên mạng, lòng tôi se buồn. Nỗi buồn càng ngấm khi đọc số liệu về tình
trạng HIV tại Việt nam. “Năm 2000, số người nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam là 122.000 người,
sáu năm sau con số đó tăng lên hơn gấp đôi, vượt trên 280.000 người. Trung bình
mỗi ngày Việt Nam có hon 100 ca nhiễm mới.
Cho đến tháng 6 năm 2006, tại Việt Nam mới chỉ có 1500 người được điều
trị bằng ARV nhờ tiền của chính phủ Mỹ, trong khi đó số người chết vì AIDS
trong năm 2005 là 14.000 người.”[1] Nỗi
buồn càng tăng khi thấy các bạn hối hận về quá khứ và lo lắng trước tương
lai. Con đường thênh thang đầy đam mê
tuổi trẻ đã dẫn các bạn đến thảm trạng hôm nay.
Nhưng bỗng một bạn trẻ nhiễm HIV cho mình có phước hơn nhiều người, vì
có thời gian chuẩn bị ngày gặp Chúa. Nỗi
buồn ngừng hẳn lại. Một chân trời mới đã
mở ra. Phải phấn đấu tới mức nào, bạn
trẻ mới có một niềm tin như thế ? Có
phải bạn trẻ ấy đang “chiến đấu (với ác thần) để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc
13:24) Nước Thiên Chúa không ? Ðức tin
quả là một sức mạnh phi thường ! CÓ TRỜI CÓ TA Chúa
Giêsu đem đến một cơ hội cuối cùng cho những người muốn vào Nước Thiên
Chúa. Người lên đường lên Giêrusalem,
xuyên qua các thành thị và làng mạc. Ðó
là cuộc hành trình chót. Trên đường,
Người dạy dỗ quần chúng. Ðây đó trong
Tin Mừng Mathêu cũng có những cảnh tương tự.
Một cửa hẹp (Mt 7:13). Tiếng các
thiếu nữ kêu gào (Mt 25:11). Một câu trả
lời tiêu cực : “Ta không biết các ngươi.” (Mt 7:22). Một cuộc đổi đời : “Những kẻ đứng chót sẽ lên
hàng đầu.” (Mt 8:11) Thoáng
đọc qua Tin Mừng Luca hôm nay, ai cũng nhận thấy có một sự căng thẳng ngay từ
đầu. Cánh cửa khép lại để bao kẻ chen
nhau ngoài ngưỡng cửa. Chủ nhà cấm cửa thực
khách và nói : “Ta không biết các anh từ đâu đến … Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi
tất cả những quân làm điều bất chính !” (Lc 13:25.27) Thật là lạ lùng và đau xót ! Ơn
cứu độ là công trình của Thiên Chúa.
Chính Chúa có sáng kiến đó. Người quy tụ. Người sai đi.
Người chọn các tư tế và Lêvi ngoài những bộ tộc truyền thống để lắng
nghe sứ điệp này: “Ta là cửa !” (Ga 10:9)
Ðó không phải là một cánh cửa mở rộng cho đủ mọi hạng người, nhưng chỉ cho
những ai được Thiên Chúa tiền định nên đồng hình đồng dạng với Con của Người
(x. Rm 8:29.30). Bởi thế, ơn cứu độ hoàn
toàn là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Rõ
ràng chúng ta không thể tự cứu rỗi.
Không có cách nào tự mình phấn đấu để được Thiên Chúa ưng nhận. Không phải do sức riêng, con người có thể
chiến đấu và chiến thắng. Nói thế không
có nghĩa con người hoàn toàn thụ động và không cần nỗ lực đóng góp chút gì vào
công trình đó. Nếu không, Chúa Giêsu đã
không quả quyết : “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm
được.” (Mt 11:12) Như
thế rõ ràng ơn cứu độ là một công trình của cả Thiên Chúa lẫn con người. “Có Trời mà cũng có ta !” Chính vì thế, con
người không hoàn toàn vô trách nhiệm về phần rỗi của mình. Nếu mọi người sẽ được cứu độ, chẳng ai cần cố
gắng làm việc lành và cũng chẳng cần sám hối nữa. Nếu Ðức Giêsu mạc khải ít người được tuyển
chọn, người ta sẽ nản chí sờn lòng và dễ dàng bỏ cuộc. Tôi hy sinh làm gì nữa ... nếu tôi biết mình
sẽ không bao giờ vượt qua cửa ải quá nhỏ như thế. Nhưng không !
Ðức Kitô mạnh mẽ kêu gọi chúng ta cố gắng hết sức để được cứu độ, nghĩa
là trở nên công chính. Như
thế, ơn cứu độ cũng là công trình của tất cả chúng ta. Các tín hữu phải trở nên những sứ giả và có
trách nhiệm làm chứng tích cực cho anh em mình về hồng ân cứu độ của Thiên
Chúa. Mọi người sẽ nhìn xem cách họ đón
nhận và đáp trả hồng ân ấy như thế nào.
Chúng ta chỉ lảng tránh lời mời gọi của Thiên Chúa khi bỏ quên người
thân cận, gia đình, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp của mình. Chính trong lối sống, tư tưởng, lời nói, hành
động, phán đoán của chúng ta, ơn cứu độ đang diễn ra. Nói khác, sự công chính được thành hình từ
môi trường chúng ta đang sống. Sống
giữa bao nhiêu thử thách và cám dỗ, con người phải nỗ lực hết sức mới có thể
trở nên công chính. Có khi phải liều cả
mạng sống mới có thể chen chân vào Nước Trời. Chúa Giêsu là một thí dụ điển hình. Viễn ảnh cái chết ở Giêrusalem cũng không làm
Chúa chùn chân trước sứ mệnh cứu độ nhân loại. CĂNG THẲNG Dù
Israel không nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðấng Thiên sai, Thiên Chúa cũng không ngưng
kế hoạch cứu độ nhân loại. Chư dân đã
đến chiếm chỗ dân Do thái trong bàn tiệc Nước Trời. Dù được mời gọi trước tiên,
Do thái đã bị chư dân qua mặt.[2] Thiên Chúa thực hiện lời hứa cho nhân loại và
tập hợp muôn dân (Is 66:18-21). Không có
dân tộc nào được ưu đãi đặc biệt. Israel
đích thực gồm mọi người tin vào Thiên Chúa.
Ðây là sự kiện quan trọng thánh Luca nhấn mạnh khi ông hướng Tin Mừng về
Dân Ngoại (x. Rm 4:16-25; Gl 3:6-9).[3] Vấn đề không phải là Do thái hay Dân
Ngoại. Vấn đề chủ yếu là có “thi hành ý
muốn của Thiên Chúa” (Mc 3:35) là Ðấng công chính hay không. Cuối
cùng mọi sự được giải tỏa khi “thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 13:29) Chắc
chắn đây phải là những người công chính, không phân biệt chủng tộc, văn hóa,
ngôn ngữ, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp v.v.
Bởi đấy, không nên ngạc nhiên khi trong Nước Thiên Chúa đầy những người
nghèo, thấp cổ bé họng, bị khinh miệt và gạt ra bên lề xã hội. Tuy nghèo hèn và bị đời lãng quên, nhưng họ
thật “vĩ đại” trước nhan Thiên Chúa, vì đã trung thành giữ lời cam kết với
Chúa. Họ trở nên công chính vì đặt Thiên
Chúa trên tất cả mọi giá trị trần gian.
Bởi đấy họ đủ điều kiện để nhập tiệc Nước Trời với mọi người trên thế
giới.[4] Tự
bản chất, Nước Thiên Chúa là sự công chính.
Những bọn người bất chính, làm sao đủ điều kiện ? Không đủ điều kiện không phải vì những bất
chính quá khứ, nhưng vì không biết nhìn nhận tội lỗi mình và chấp nhận ơn tha
thứ của Chúa. Tuy có lắng nghe và khâm
phục những phép lạ của Chúa, nhưng vì quá tự tin và cố bám vào những thành tích
và truyền thống, nên họ không quan tâm và tin tưởng vào Thiên Chúa cứu độ. |
“Trong
hoàn cảnh sống ngày nay, công lý rất quan trọng, vì giá trị cá nhân, phẩm giá và
quyền lợi con người bị đe dọa một cách nghiêm trọng bởi các xu hướng lạm dụng
các tiêu chuẩn lợi nhuận và quyền tư hữu một cách thái quá ở khắp nơi.”[5] Từ đó mọi hình thức bất công mới xuất hiện
trong xã hội. Muốn được cứu độ hay nên
công chính, Kitô hữu không thể làm ngơ hay im lặng trước những cảnh cường quyền
đàn áp dân oan. Lời mời gọi của Thiên
Chúa vang lên mãnh liệt hơn lúc hết ! SAI CHINH TA Chúng
ta có thể giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi ấy mà có thể được cứu độ hay hạnh
phúc cho riêng mình không ?! Dĩ nhiên, nếu cứ tiếp tục im lặng, không những
chúng ta có thể bị lạm dụng vào mục tiêu bất chính, mà còn rơi vào ảo tưởng
mình vẫn làm chứng cho sự thật và sống công chính. “Chúng ta phải tố cáo tội bất công và bạo lực đang len lỏi vào xã hội bằng nhiều
ngả và hiện thân trong xã hội. Biết bao
vấn đề xã hội nảy sinh từ sự bất công trên thế giới. Khi nhân quyền bị lãng quên hay chà đạp, tình
trạng lạm dụng và bất quân bình sẽ nổi lên và đưa tới biến động xã hội. Bạo lực và bất công sẽ tràn lan. Công bằng xã hội là câu trả lời đích xác cho
những vấn đề lớn lao đó.”[6] Bất
công là nguồn gốc sinh ra mọi vấn đề xã hội.
Thế nên muốn chữa trị những căn bệnh xã hội, phải chữa tận gốc. “Thực vậy, công lý không phải chỉ là một quy
ước thuần túy nhân loại, vì những gì là ‘công chính’ trước tiên không do luật
pháp, nhưng do bản chất sâu xa của con người quy định.”[7] Nói khác, con người và xã hội không thể quyết
định hay thay đổi những tiêu chuẩn công lý.
Công lý cũng như nhân quyền không tùy thuộc vào văn hóa, hoàn cảnh, dân
tộc, luật pháp v.v. Phát xuất từ bản
chất sâu xa của con người, công lý là một tiếng nói phổ quát nằm sâu trong
lương tâm con người. Thực
tế, công lý đòi con người hy sinh nhiều hơn bác ái, có khi mất cả mạng
sống. Nếu chỉ lo làm bác ái, chúng ta chỉ
chạm tới ngọn, mà chưa đụng tới gốc. Nhổ
cỏ phải nhổ tận gốc ! Nếu không, vấn đề
ngày càng phình to hơn. Công cuộc bác ái
nhiều khi trở thành một trò chơi thời thượng trước mắt những kẻ cầm quyền. Bản
chất vấn đề xã hội vẫn còn nguyên vẹn. Những kẻ độc tài và bộ máy đàn áp có thể sống
chung với những người và cơ quan làm việc bác ái, nhưng không bao giờ có thể
đồng hành với những người tranh đấu cho công lý và hòa bình. Chẳng ai chết vì những công cuộc bác ái bao
giờ. Trái lại, có nhiều người chết vì
công lý. Trong đó Chúa Giêsu là số
một. THẾ ÐỨNG GIÁO HỘI Tóm
lại, trên phương diện cá nhân hay tập thể, sự công chính vẫn là điều kiện duy
nhất và cần thiết nhất cho công cuộc cứu độ.
Ở cấp độ quốc gia hay quốc tế, công lý là mẹ sinh ra hòa bình. Bởi thế, ngày nay nhiều người thiện chí và tổ
chức không ngừng săn tìm công lý cho xã hội. Giáo Hội Công Giáo rất vui mừng khi được kể
vào số đó. Quả
thực, tiếp nối công trình của Thày Chí Thánh, Giáo Hội luôn làm chứng và hy
sinh cho công lý và hòa bình nhân loại.
Ðó là điều kỳ vọng duy nhất thế giới đang đặt nơi Giáo Hội Công Giáo
toàn cầu và địa phương. Thực thế, ông Kagefumi Ueno, Tân Ðại sứ Nhật Bản tại Tòa Thánh nhận định : “ÐGH là một hạng
‘người canh giữ’ tình hình quốc tế. Cộng
đồng quốc tế kỳ vọng Người nói về hòa bình và công lý.” [8] Ông thú nhận Tòa Thánh
có một giá trị và thẩm quyền đạo đức được cả các thẩm quyền ngoài Kitô giáo tôn
trọng. Khi phát biểu về các vấn đề quốc
tế, từ việc giải trừ vũ khí hạt nhân đến các cuộc đàn áp tại Phi châu hay Á
châu, tiếng nói của ÐGH được nhanh chóng phổ biến khắp thế giới và thu hút sự chú
ý quốc tế. Tóm lại, theo ông Tân Ðại sứ Nhật Bản, Vatican rất độc đáo và gây nhiều ấn tượng vì
lập trường vô tư và cương quyết trước những vấn đề luân lý xã hội và chính trị
quốc tế ! [9] Dựa
vào đâu Giáo hội có được một tiếng nói mạnh mẽ như vậy, trong khi nhân loại
ngày càng xa dần Thiên Chúa và bị trần tục hóa ? Thưa, chính vì muốn cho mọi người thấy tầm
vóc cao cả và giá trị đích thực của mình
như món quà vô giá của Thiên Chúa, nên Giáo hội không ngừng tranh đấu hồi phục
quyền làm người cho nhân loại. Theo Rose Busingye, một Nữ Y tá săn sóc bệnh nhân
AIDS ở Uganda, Phi châu, vấn đề lớn nhất lục địa Phi châu không phải là sự
nghèo đói hay thiếu thốn các cơ sở hạ tầng, nhưng là “sự vắng bóng một thẩm
quyền cho thấy đang thiếu một lý tưởng và một ý nghĩa cuộc sống.” Theo cô, đó là nguyên chính gây nên sự bất an
nói chung trong tương quan nhân vị. Hằng
ngày cô phấn đấu với hiện tượng này.
Không những lo đáp ứng những nhu cầu vất chất cho bệnh nhân, cô còn cố
gắng làm cho họ ý thức về giá trị của họ.
Giá trị này không thể bị suy giảm ngay cả khi họ chìm ngập trong nỗi
khốn cùng. Dạy
cho con người biết giá trị của mình là giải đáp cho những vấn đề Phi châu hôm
nay. Cô kết luận : “Hy vọng của Phi châu
cũng là hy vọng toàn thể nhân loại cần đến, đó là biết mình là ai.”[10] Nói khác, hy vọng đó tăng lên theo mức độ
nhân quyền con người được hưởng trong một xã hội công bằng. Tất cả giá trị con người nằm ở đó ! Niềm
hy vọng đã nhú lên trong xã hội và Giáo Hội Việt nam chưa ? Bao lâu nhân quyền bị chà đạp và công lý chưa
có tiếng nói, niềm hy vọng vẫn còn tắt ngúm.
Trách nhiệm đó về ai ? Dĩ nhiên
không thể quy trách cho hàng lãnh đạo Giáo Hội mà thôi. Nhưng trong tình thế hiện tại, có lẽ giáo dân
cũng không thể làm gì hơn với cơ chế cứng ngắc trong Giáo Hội. Bởi thế, “người tín hữu đang chờ đợi nhiều cải cách làm sao để công việc chung của
giáo hội không phải là ưu lo riêng, phận vụ riêng của một giới, một bậc sống mà
của mọi tín hữu. Và không phải trong nguyên tắc nhưng trong thực tế áp dụng với
những điều kiện thực hiện được.”[11] Trong một thế giới đầy biến động và nhiều bất công hôm nay, “Giáo hội
có bổn phận phải biện minh, giải thích, bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền không
chỉ bằng lời nói, nhưng hơn nữa còn phải bằng hành động và cuộc sống của mình.
Hơn ai hết, Giáo hội không được làm cho thế giới chúng ta ngày nay phải thất
vọng về nỗi khao khát công lý và ước muốn
sôi nổi tìm về nhân tính của mình.”[12] Nhưng làm sao Giáo Hội
có thể hoàn thành sứ mạng đó, nếu bộ máy giáo quyền còn quá nặng nề, giáo dân
thiếu hiểu biết và chỉ cúi đầu vâng phục ? Còn lâu giấc mơ mới thành sự thật, vì giáo dân
không tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để trở nên những Kitô hữu
trưởng thành dám lãnh trách nhiệm trước lịch sử ! Lạy Chúa, tất cả sức mạnh chúng con ở nơi Chúa. Xin cho chúng con luôn phấn đấu cho quê hương
và thế giới sống trong công lý và hòa
bình. Amen. đỗ
lực 26.08.2007 |
[1] http://www.vietcatholic.net/News/Html/46613.htm
[2] The New American Bible 1991:1117.
[3] ibid.
[4] ibid.
[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội 2005:90.
[6] ibid., 36
[7] ibid., x. ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 40: AAS 80
(1988), 568;
x.Giáo
Lý Giáo Hội Công Giáo, 1929.
[9] ibid.
[10] ibid.
[11] Gs.
Nguyễn đăng Trúc, http://www.conggiaovietnam.net/TiengVongGB/giaohoiconggiaovanhanquyen.htm
[12] ÐGH Phaolô VI, trích lại từ Gs. Nguyễn đăng Trúc, ibid.