MỘT TRANG SỬ MỚI
(Mt 11:2-11)
Ngày 10/12/2007 vừa qua là Ngày Thế Giới Về
Nhân Quyền và cũng là ngày LHQ hướng đến kỷ niệm 60 năm bản Tuyên Ngôn Phổ Quát
về Nhân Quyền (1948-2008). Trong bối cảnh đó, Đức Cha Tomasi, quan sát viên
thường trực của Tòa Thánh tại LHQ, tuyên bố :
“Nhân phẩm là nền tảng cho việc áp dụng mọi quyền con người, và đồng
thời, là điểm quy chiếu để xác định những lợi ích quốc gia, nhằm tránh mối nguy
cơ chủ nghĩa cá nhân cực đoan và chủ nghĩa tập thể. Nhân phẩm cũng là chuẩn mực
để thông qua những biện pháp trong mọi lãnh vực nhân vị được bày tỏ: thương mại,
kinh tế, khoa học, an ninh, sức khỏe và những lãnh vực tương tự.”[1] Nhân
phẩm quả là mấu chốt mọi vấn đề. Mọi bế tắc sẽ khai thông, nếu hướng tới chiều kích sung mãn của nhân phẩm Ðức Kitô.
Chính vì thế, giữa cảnh cùng cực, thánh Gioan Tẩy Giả đã sai môn đệ đến chất
vấn Ðấng ông đã từng loan báo. Phải chăng trong một khoảng cách gần nhất, họ đã
bừng tỉnh trước chiều kích sung mãn và căn tính Thiên Sai của Chúa? Phải chăng
ông đã thấy cả một con đường bừng sáng trước mặt, mặc dù thân xác đang bị giam
cầm trong khung cảnh chật hẹp, tăm tối? KHÚC ÐƯỜNG GẬP GHỀNH Trước
khi bị tống ngục, ông Gioan Tẩy Giả đã mở cho muôn dân một con đường sám hối,
từ bỏ, canh tân để đón mừng Chúa đến. Niềm hy vọng Kitô giáo căn cứ trên một
biến cố lịch sử, được ngôn sứ Isaia loan báo và Chúa Giêsu thực hiện. Tất cả sẽ chín mùi ngày Cánh Chung. Nhìn suốt
con đường dài đó mới thấy tại sao niềm vui bùng vỡ ngay từ hôm nay. Lúc
đó, ông Gioan đang ngồi tù, xa cách mọi người và hoàn cảnh. Chẳng bao lâu ông
sẽ bị chặt đầu vì đã dám đòi vua Hêrôđê sống theo công lý. Ông đã trải qua
những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ
sông Giođan xin ông làm phép rửa. Chắc chắn lúc đó ông thành công hơn Chúa
Giêsu, vì dân chúng nghĩ ông là một ngôn sứ có nếp sống khắc khổ, ẩn tu, được
Thiên Chúa đến kêu gọi mọi người sám hối. Thời
vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình thăm nuôi ông Gioan Tẩy Giả
đang ngồi trong ngục thất mà thôi. Ðã đến lúc ông phải sai các môn đệ đến hỏi
Chúa Giêsu một câu bất ngờ : "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? " (Mt 11:3) Theo một số nhà
chú giải, đó là lối nói của một tử tội đang tuyệt vọng, nghi ngờ về sứ mệnh ông
đã từng loan báo không mỏi mệt : Ðây là Chiên Thiên Chúa. Ông Gioan hé lộ nhu
cầu muốn được bảo đảm về sứ mệnh ấy. Lối
giải thích kém cỏi đó không phù hợp với nhân vật này! Ðể sống bấp bênh trong sa
mạc và biết lìa xa cuộc sống đơn độc để đám đông tội nhân tràn đến xin làm phép
rửa, như một dấu chỉ Thiên Chúa thứ tha, chắc chắn ông phải là con người cứng
rắn và can đảm. Chúa Giêsu đã đề cao ông Gioan cho thấy điều đó. Thái độ kiên
trì của vị ngôn sứ được tóm tắt trong một câu vắn gọn : Người phải lớn lên, còn
tôi phải nhỏ đi. Là một nhân chứng trung thành, ông Gioan tự xóa trước Ðức Kitô
và tách xa khỏi các môn đệ cuối cùng của mình để họ tới gần Ðấng là con đường,
là sự thật và là sự sống. Phải
chăng ông Gioan đã chẳng sai các tông đồ Gioan và Anrê đến hỏi Chúa Giêsu :
“Thưa Thày, Thày ở đâu?” Vì khiêm tốn, ông đã thú nhận mình chỉ là tiếng kêu
trong sa mạc, một người mở đường đi vào một trang sử mới, vì sứ điệp Ðức Kitô
tuyệt đối mới lạ. Khi từ bỏ tất cả những gì mình có, ông Gioan hiện hữu theo
đúng kế hoạch: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ,
chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong
Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” (Mt 11:11) Như vậy, trong khi Gioan tìm cách
xác định niềm tin vào Ðức Kitô, thì chính Chúa đã nói rõ về ông và về chính
mình. Mỗi người ở một vị thế quan trọng trong chương trình cứu độ nhân loại. Dĩ
nhiên, vai chính vẫn là Ðức Kitô. Ông Gioan biết rất rõ như thế. Nhưng không
phải vì thế mà Chúa coi thường vai trò và nhân phẩm của ông. Trái lại, Chúa đã
đề cao ông như một người cao trọng “hơn cả ngôn sứ nữa.” (Mt 11:9) Hơn
hẳn các ngôn sứ, ông Gioan là một sứ giả dọn đường cho Chúa đến (x. Mt 11:10).
Ông đem đến cho nhân loại niềm vui lớn nhất, niềm vui của Nước Thiên Chúa đã
xuất hiện giữa nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô. Vui vì Người sẽ giải thoát và đem
lại tự do đích thực cho con người. Vui vì từ nay con người mới đích thực là
người, vì họ có thể đạt đến mạc khải toàn vẹn về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa.
Họ có thể lớn lên trong chiều kích sung mãn của tình yêu nơi Chúa Giêsu Kitô. VƯƠN TỚI CHIỀU KÍCH SUNG
MÃN Sở
dĩ có thể vươn tới chiều sung mãn đó, vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1:14) Với hai
bản tính, Thiên Chúa thật và con người thật, Chúa Giêsu ‘lưu lại’ và ‘cư ngụ’
giữa chúng ta. Thông
thường chúng ta không để ý nhiều đến nhân tính của Chúa Giêsu. Người đến trần
gian để hàn gắn lại mối quan hệ thân thương giữa Thiên Chúa và con người, mối
quan hệ đã bị vẩn đục bởi tội lỗi của nhân loại. Người đến phá vỡ hàng rào ngăn
cách thế giới Thiên Chúa và thế giới con người. Nếu chối bỏ nhân tính của Chúa Giêsu, nghĩa là
phủ nhận Chúa Giêsu giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, chúng ta dựng
lại bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và chúng ta. |
Trong
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Do Thái có đoạn viết như sau: “Bởi thế
Người đã nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng
tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì
bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những
ai bị thử thách.” (Dt 2:17-18) Chỉ khi Chúa Giêsu là người thật ‘về mọi phương
diện,’ Thiên Chúa mới có cơ hội chia sẻ trọn vẹn nhân tính của con người, con
người Giêsu mới thật sự đại diện nhân loại một cách trọn vẹn trước nhan Thiên
Chúa. Không
những thấu hiểu mọi chi tiết trong cuộc sống thăng trầm, Người còn mạc khải ý
nghĩa cao cả trong cuộc sống ngày thường của chúng ta trong chương trình vĩnh
hằng của Người. Việc Người trở nên một với nhân loại là món quà tình yêu vô giá
của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Món quà được ban tặng để giải thoát đến tận
cùng mọi điều kiện sống của những ai tin vào Người. NHÂN PHẨM TRONG KẾ HOẠCH
CỨU ÐỘ Chúa
Kitô xuống trần gian nhằm “cứu độ tất cả và toàn diện con người : đó là ơn cứu
độ phổ quát và toàn vẹn. Ơn cứu độ liên quan tới con người trong mọi chiều kích
: cá nhân và xã hội, thiêng liêng và thể chất, lịch sử và siêu việt.”[2] Tập thể cũng chỉ là một kết hiệp tạm thời ở trần gian đáp ứng những nhu
cầu tinh thần và vật chất của con người mà thôi. Nếu
nhân phẩm không được tôn trọng, ơn cứu độ cũng mất hiệu lực. Thực tế, chính vì
muốn phục hồi nhân phẩm, nên Con Chúa mới đến trần gian cứu độ nhân loại. Nhân
phẩm đích thực tìm thấy trong hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. “Trong tình yêu hiệp
thông, tức Thiên Chúa, Ba Ngôi yêu mến nhau và là Một Thiên Chúa. Con người
được kể gọi khám phá nguồn gốc và đích điểm cuộc sống và lịch sử.”[3] Ðó là lý do tại sao Thiên Chúa xuống trần gian. Người đưa tất cả về tận
nguồn sống sung mãn và sâu xa nhất của mình. Trong nguồn sống vô cùng lớn lao
đó, con người cũng tìm thấy giá trị cao cả nhất của mình. Thật vậy, “mạc khải
trong Ðức Kitô về mầu nhiệm Thiên Chúa như tình yêu Ba Ngôi đồng thời cũng là
mạc khải về lời mời gọi con người yêu thương. Mạc khải này chiếu sáng vào mọi
khía cạnh nhân phẩm và tự do của con người, và vào những miền sâu xa trong bản
tính xã hội của họ.”[4] Có
cái nhìn sâu xa như thế, mới thấy tất cả nền tảng và nguyên nhân mọi giá trị
con người cũng như ý nghĩa của những tương quan nhân loại. Cái nhìn đó phát
xuất từ niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa. Chỉ trong tương quan giữa Ba Ngôi
Thiên Chúa, người ta mới khám phá tất cả những nét cao đẹp trong tương quan
nhân loại. Không có chiều kích siêu việt này, tương quan nhân loại dễ đổ vỡ hay
rơi vào cảnh tầm thường, nhàm chán. Nói khác, tương quan siêu việt giữa Ba Ngôi
là nền tảng cho mọi giá trị trong tương
quan nhân loại. Không có tương quan siêu việt đó, tương quan nhân loại mất sức
sống và động lực. Bằng chứng, khi đánh mất tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa,
nguyên tổ thấy nhân phẩm mờ nhạt trong một tương quan nhạt nhẽo và vô giá trị. Chính
vì thế, trước khi đến với loài người, Thiên Chúa đã sai ông Gioan Tẩy giả đến
thiết lập trật tự từ trong lòng người đến ngoài xã hội. Nhưng sứ mệnh ông cũng
có giới hạn. Ông chấp nhận để nhường bước cho Ðấng có quyền thanh tẩy muôn dân
“bằng Thánh Thần và lửa.” (Mt 3:11) Sau khi chứng kiến tận mắt Chúa Giêsu phục
hồi nhân phẩm cho người mù, kẻ què, người cùi, kẻ điếc, người chết, kẻ nghèo
v.v., các môn đệ có thể đem về cho ông những bằng chứng sống động và hùng hồn
nhất. Chắc chắn ông kinh ngạc về sức mạnh Thánh Thần nơi con người Chúa Giêsu. Chỉ
có sức mạnh Thánh Thần mới trả lại phẩm giá cho con người. Thật vậy, “là hình
ảnh Thiên Chúa, con người chiếm hữu nhân phẩm. Họ có thể tự hiểu biết, tự sở
hữu, tự do hiến thân và hiệp thông với tha nhân.”[5] Với sức mạnh Thần Khí, Chúa Giêsu đã phục hồi hình ảnh Thiên Chúa nơi con
người. Nhờ đó, con người mới nhận ra hình ảnh tuyệt vời của nhau và tạo nên
tương quan tốt đẹp. Khi
không nhìn thấy hình ảnh tươi đẹp của Thiên Chúa nơi tha nhân, con người không
thể tôn trọng nhân phẩm. Họ sẵn sàng bóp nghẹt tự do và chà đạp công lý. Làm
sao xã hội có thể phồn thịnh khi nhân phẩm không còn được coi là giá trị cao
quý nhất? “Một xã hội công bằng chỉ có thể trở thành hiện thực, khi xây dựng
trên sự tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người. Con người là mục tiêu cao
cả nhất của xã hội. Mọi trật tự xã hội đều phải quy hướng về con người.”[6] Bởi vậy, khi con người biến thành phương tiện sản xuất, xã hội đánh mất
mục tiêu và phương hướng. Chính
vì thế, Thiên Chúa đã muốn chia sẻ thân phận làm người với chúng ta để ban cho
đời sống chúng ta chiều kích nhân tính sung mãn của Người, tức ơn cứu độ muôn
đời. “Nếu biết tôn trọng nhân phẩm, người ta phải nhìn nhận chiều kích tôn
giáo của con người. Ðây không chỉ là một
đòi hỏi ‘về những vấn đề đức tin,’nhưng là một yêu cầu gắn liền với chính thực
tại cá nhân.’ Có thực sự nhìn nhận quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo như
một trong những lợi ích và bổn phận quan trọng nhất của mỗi người, người ta mới
bảo đảm phúc lợi cho cá nhân và xã hội như mọi người mơ ước.”[7] Nói
tóm, giữa những bế tắc trong gia đình và ngoài xã hội hôm nay, nếu biết tôn
trọng nhân phẩm người ta sẽ tìm thấy con đường tốt đẹp nhất giải quyết mọi vấn
đề. Chính vì thế, giữa lúc gặp cảnh bĩ cực, ông Gioan đã muốn cho các môn đệ
thấy con đường giải thoát chính là Ðức Kitô, nơi quy tụ mọi chiều kích sung mãn
nhât của phẩm giá con người. Lạy Chúa, giữa muôn nẻo
đường dẫn đến Chúa và tha nhân đều bế tắc, xin cho con luôn tin tưởng mãnh liệt
chỉ có Chúa Kitô mới là con đường giải thoát duy nhất. Amen. đỗ lực 16.12.2007 |