VƯỢT QUA NỖI SỢ
(Lc 21:5-19)
Ngày 28
tháng 10 năm 2007 vừa qua, Giáo Hội phong chân phước cho 498 vị tử đạo Tây Ban
Nha. Trong số đó, đặc biệt có chân phước Bartolomé Blanco
Márquez. Márquez bị tử hình vào ngày 02
tháng 10 năm 1936, lúc mới có 21 tuổi, trong lúc hô to : “Vạn tuế Vua Kitô!”
Chính niềm tin vào Ðức Kitô đã giúp Márquez can đảm từ bỏ tất cả. Nhưng trước
khi chết, Márquez không quên viết cho bạn gái một lá thư rất ý nghĩa và giá trị.
Anh dặn dò người yêu : “Bản án kết tội anh trước tòa án nhân loại sẽ mạnh mẽ
bênh vực anh trước tòa Thiên Chúa. Khi
cố sức nhục mạ anh, họ đã tôn vinh anh. Khi sắp kết án anh, họ đã giải thoát
anh, và khi toan tiêu diệt anh, họ đã cứu anh. Vì khi giết anh, họ cho anh sống
thực sự và khi kết án anh vì lý tưởng cao đẹp nhất của tôn giáo, quốc gia và
gia đình của anh, họ mở cánh cửa thiên đàng trước mặt anh. Anh xin phép nêu lên
một vấn đề với em : lúc này chúng ta nhớ tới tình yêu đã chia sẻ với nhau. Tình
yêu đó vẫn lớn mạnh. Mong em hãy lấy việc cứu rỗi linh hồn mình làm mục tiêu
hàng đầu. Nhờ đó, chúng ta sẽ đoàn tụ để sống đời đời trên thiên đàng, nơi
không có gì ngăn cách được chúng ta.”[1] Làm
sao Márquez có thể hy sinh tất cả và có thể vượt qua nỗi sợ trước cái chết như
thế? Tại sao trong cuộc sống hàng ngày chúng ta không thể vượt qua nỗi sợ? Nếu
không thể vượt qua nỗi sợ thường tình, làm sao có thể chống chọi với những tai
họa ngày tận thế? Có cách nào không những vượt qua mà còn có thể lợi dụng những
đau khổ để đạt tới niềm hy vọng lớn lao không? LÀM SAO VƯỢT QUA NỖI SỢ ? Chúa
Giêsu không sợ đối diện với thực tế. Người không muốn chúng ta trốn chạy hay
quên lãng những đau khổ của kiếp người. Trái lại, Người còn muốn chúng ta thấy
trước nỗi khổ lớn nhất con người phải đối đầu vào ngày cùng tận của thế giới.
Vào những lúc khủng hoảng cùng cực đó, con người không còn biết trốn chạy vào
đâu. Người ta có thể chạy theo bất cứ ai đưa ra lời hứa hấp dẫn nhất. Nhưng
Chúa cảnh giác : “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt. Anh em chớ có theo họ.”
(Lc 21:8.9) Ðó
là chưa kể có những kiểu lường gạt tinh vi hơn nhiều. “Có nhiều kẻ sẽ mạo danh
Thày đến nỗi nói rằng : ‘Chính ta đây.’” (Lc 21:8) Thực tế, những hạng giả dạng
ngôn sứ hay Kitô đó cố tình khai thác sự nông cạn và dễ tin của quần chúng để
thống trị và lôi kéo những người đang hoảng loạn trước những đường cùng. Nhiều
người đổ xô theo họ khi nghe những lời tiên báo về ngày tận thế với những tai
họa gần kề. Khi
Chúa mới nói một chút về số phận cùng tận của đền thờ Giêrusalem, các môn đệ đã
nhốn nháo hỏi về ngày tháng và điềm báo. Họ tưởng biết trước những thông tin
như thế, có thể giúp họ tỉnh thức hơn, y như người ta theo dõi đài khí tượng
tiên báo về thời tiết vậy. Chúa đã không đáp lại sự mong đợi đó của các môn đệ.
Trái lại, người còn nói về các loại đau khổ cả tinh thần lẫn thể xác sẽ ập đến
hành hạ con người. Người không muốn cho họ tính toán ngày tháng, nhưng muốn cho
họ thấy ý nghĩa lịch sử nhân loại. Lịch sử đầy những biến động đau thương và bi
đát, nhưng phải có hồi kết thúc, kết thúc trong một định hướng. Ðịnh hướng này
phân chia lịch sử Giáo hội làm hai cực : bóng tối và ánh sáng. Chúng ta đang hướng tới sự sống, dù đang phải
trải qua cơn đau khổ. Lịch sử phải đi tới một kết quả và thăng hoa nhờ cuộc
phục sinh của Chúa Kitô, Ðấng tuyên bố chiến thắng dứt khoát trên tử thần và
tội lỗi. Nếu
không thấy được hướng sống đó, chúng ta sẽ ngã gục trên đường đời. Nhiều người
tưởng đang sống trong một thế giới được bảo đảm về mọi mặt. Những tiến bộ kỹ
thuật, phương tiện vật chất mạnh mẽ, hệ thống xã hội phức tạp và những phương
tiện truyền thông vạn năng đủ bảo đảm cuộc sống. Nhưng chính lúc đền thờ
Giêrusalem đã làm cho mọi người lóa mắt và hãnh diện, Chúa Giêsu đã loan báo
cho các môn đệ biết tương lai sẽ “bị tàn phá hết không còn tảng đá nào trên
tảng đá nào.” (Lc 21:6) Cũng thế, “cuộc đời như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.”[2] Một cuộc động đất, sập cầu, khủng bố, dịch tả, cúm gà v.v. cũng đủ làm
tiêu tan bao mộng ước. Không ai có thể tìm được chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống
nữa. Giữa
cuộc đời bấp bênh và đầy cạm bẫy đó, “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là
ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119:105) Có Lời Chúa dẫn đường, chúng ta không
thể sa hầm sập bẫy trần gian. Lời Chúa không lừa dối, nhưng xua tan mọi ảo
tưởng và phơi bày mọi sự thực trần gian. Hơn
nữa, có điểm dựa nào vững chắc bằng Tin Mừng? Chính Chúa quả quyết : “Ai nghe
những lời Thày nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được người khôn xây nhà trên
đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã
xây trên nền đá.” (Mt 7:24) Ðược Lời Chúa làm nền tảng, bản lãnh chúng ta sẽ vững
chắc và đủ sức đương đầu với bất cứ thách đố nào trong cuộc đời. Lời
Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta thấy “núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là
Chúa.” (Tv 31:4) Ðó là lý do tại sao ÐGH Gioan Phaolô dám nhắc lại lời Thày chí
thánh để kêu gọi Giáo hội “Ðừng sợ!” ngay từ lúc mở đầu triều đại giáo hoàng. Nếu
thời đại có làm cho chúng ta lo âu về thế giới và Giáo hội, thì cũng đừng thối
chí nản lòng. Chúa bảo đảm cho chúng ta. Người không bỏ rơi thế giới Người đã
kết ước, cũng chẳng lìa xa Giáo hội
“Người đã hiến thân.” (Ep 5:25) Phải nhìn lên Chúa Kitô mới thấy được tất cả
sức mạnh và lý do của niềm hy vọng. Nếu không, chúng ta sẽ bị trôi dạt như
những chiếc lá trong cơn nước lũ. Khi
đã tỉnh thức và tìm được ý nghĩa lịch sử cũng như chỗ dựa vững chắc, không
những chúng ta tràn trề niềm hy vọng, mà còn có thể vận dụng chính những đau
khổ thành phương tiện làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu. Ðối
đầu với cơn lốc lịch sử nhân loại và những cuộc bách hại không phải là một thái
độ tiêu cực, nhưng là làm chứng một cách tích cực. Tin Mừng không che đậy khi
nói những thử thách đó có thể là cơ hội “tử đạo” (nguyên nghĩa là “làm chứng”).
Ðó là lý do tại sao Chúa nói : “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì
Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10) Vào thời thánh Luca viết Tin Mừng, thánh Phêrô,
Phaolô và nhiều người đang làm chứng rất mãnh liệt. Hiện nay, nhiều anh em kitô
hữu, giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân đang bị bách hại. Mỗi năm hàng chục
người đổ máu để làm chứng cho Chúa ở Phi châu, Á châu và các nơi khác. Mặt trời
công chính không bao giờ lặn! Từ
ngàn xưa, Chúa đã hứa : “Ðối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt
trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.” (Ml 3:20)
Mặt trời công chính đã mọc lên là Ðức Kitô. Giữa cảnh tăm tối trần gian, các
tông đồ đã thấy “dung nhan Chúa chọi lọi như mặt trời.” (Mt 17:2) Phải có niềm
tin sâu xa mới thấy ánh sáng phục sinh là “các tia sáng chữa lành bệnh” cho
những người đã bị thương tích vì Chúa Kitô. Tất cả sẽ được tái sinh trong một
cuộc sống phong phú gấp vạn lần. Nhưng phải nhớ một điều : “Có kiên trì, anh em
mới giữ được mạng sống.” (Lc 21:19) Tất cả không nằm ngoài chương trình quan
phòng của Thiên Chúa. Thật vậy, “dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị
mất đâu.” (Lc 21:18) Phần
đông chúng ta không bị bách hại như thế. Nhưng chúng ta bị nhạo báng và chê
cười về niềm tin. Những người vô tín châm chọc chúng ta tại nhà trường, văn
phòng và cả trong gia đình nữa. Ðó là cơ hội làm chứng. Ðừng mất công tìm cách
đối đáp với những người đó. Chúa bảo đảm : “Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói
thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay
cãi lại được.” (Lc 21:15) Tuy
nhiên, nên nhớ chứng từ có sức thuyết phục nhất không phải là những bài diễn
văn hùng hồn, nhưng là hành động : hòa hoãn, khoan dung, chia sẻ và tha thứ. Có
thể thêm nhiều hơn nữa vào các sứ vụ và bổn phận hàng ngày của chúng ta. |
KHI MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH
MỌC LÊN Trên
bước đường theo Ðức Kitô, nhiều người bị ngược đãi, bắt bớ, tù đày, bị chính
những người thân nhất phản bội. Còn gì đau khổ hơn?! Vì danh Ðức Kitô, nhiều
người đã trở thành đối tượng cho mọi sự thù ghét. Mọi hình thức xỉ nhục và đau
khổ thi nhau xuất hiện. Sau cùng, một số người bị đẩy vào cõi chết. Thật là những mất mát quá lớn lao! Làm sao bù lại
được những gì đã mất sau những hy sinh đó? Xét
về mặt trần gian, quả thật không gì có thể bù đắp được! Nhưng tử đạo là một
tiếng nói uất nghẹn và phản kháng những thế lực chà đạp tự do tôn giáo. Khi
chấp nhận cái chết, các vị tử đạo không những muốn tuyên xưng đức tin, nhưng
còn muốn khẳng định quyền tự do tôn giáo là quyền căn bản nhất của con người. Không
tuân phục lệnh nhà vua hay bọn cường quyền, họ muốn khẳng định quyền tự do tôn
giáo là một ân huệ Thiên Chúa, chứ không phải là một thứ quà tặng theo chế độ
“xin cho” của nhà nước. Công đồng Vatican II quả quyết : “Tự do tôn giáo có căn
cứ nơi phẩm giá con người và phải được thừa nhận như một dân quyền trong lãnh
vực pháp lý xã hội.”[3] Con người chỉ có một thứ phẩm vị
duy nhất. Thế nên, không thể có tiêu chuẩn kép hay hai cách hiểu về nhân quyền,
nhất là về tự do tôn giáo. Khi bóp nghẹt hay đàn áp tự do tôn giáo, nhà cầm
quyền đã chà đạp lên nhân phẩm và phủ nhận nhân quyền. Ðàng khác, tự do tôn giáo là tổng hợp mọi thứ tự do, vì nhờ đó, con người có
quyền sống trong chân lý đức tin và sống phù hợp với phẩm giá siêu việt con
người.[4] Giá trị cao cả nhất nằm trong quyền tự do tôn giáo : “Mọi người không thể
bị bất cứ cá nhân hay đoàn thể xã hội và quyền lực loài người nào cưỡng bức.
Không ai bị buộc phải hành động trái với niềm tin, cách kín đáo hay công khai,
một mình hay với người khác, trong những giới hạn đòi buộc.”[5] Tôn trọng quyền tự do này là dấu chỉ “con người có tiến bộ đích thực trong
bất cứ chế độ xã hội, hệ thống hay hoàn cảnh nào.[6] Tất cả những tiến bộ về mặt kinh tế, chính trị v.v. không thể nhằm đáp ứng
những nhu cầu tâm linh hay tôn giáo. Nhà nước không thể đóng vai trò giáo hội.
Các người lãnh đạo cũng chỉ là con người. Không ai có thể thay thế vai trò
Thượng đế. Hơn
nữa, phát triển kinh tế để làm gì? Nếu chỉ dừng lại ở những sinh hoạt đó, con
người chỉ đạt đến những phương tiện sống, mà quên mất mục đích và cứu cánh cuộc
đời. Trong khi đó, tín ngưỡng hay tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh cao
cả nhất của con người. Nếu là một quyền sống, tôn giáo phải được công lý bảo vệ
khỏi những cuộc xâm phạm và đàn áp. Công
lý đòi mọi người phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Những người bị đàn áp và
giết chết vì niềm tin đã tạo thành một tiếng nói phản kháng những chế đô độc
tài. Máu họ đổ ra có sức kêu thấu trời xanh và thức tỉnh lương tâm con người. Những
ai còn chút lương tâm không thể không tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Chỉ tôn
giáo mới có thể huấn luyện và hướng dẫn con người sống đúng lương tâm. Nếu hoàn
toàn vô thần, làm sao lương tâm được hướng dẫn? Không có niềm tin tôn giáo,
không thể có lương tâm ngay chính. Người ta giữ luật pháp chỉ vì sợ tù tội mà
thôi. Nhưng luật nào chẳng có kẽ hở? Chế độ làm sao có thể thay thế lương tâm
kiểm soát mọi sinh hoạt dân chúng? Trong chế độ vô thần, tự do tôn giáo không
được tôn trọng. Ðàn áp tôn giáo là hủy diệt một sức mạnh lớn nhất giúp con
người sống theo đường ngay lẽ phải. Chỉ tôn giáo chân chính mới có thể huấn
luyện lương tâm và hướng dẫn con người sống theo công lý. SỨC MẠNH ÐỨC TIN Ðàn
áp tôn giáo cũng có nghĩa là chà đạp lương tâm của chính mình. Nhưng chính khi
những người cầm quyền chà đạp lương tâm mình, tiếng nói công lý vang lên mạnh
mẽ từ những con người đã liều thân vì niềm tin tôn giáo. ÐGH Gioan Phaolô II đã
gọi họ là những người “tử đạo vì đức tin.” Những nhà độc tài đã dùng đủ mọi
biện pháp bóp nghẹt đức tin đó. Nhưng các vị tử đạo đã dùng cái chết để phản
kháng và nói cho mọi người biết không có gì mạnh hơn đức tin. Ðức
tin nảy sinh trong tâm hồn tín hữu từ khi họ được gìm vào trong cái chết và
phục sinh của Ðức Kitô nơi giếng rửa tội. Nhờ đó, họ được sống và sống dồi dào.
Nhờ tin vào chân lý hằng sống là Ðức Kitô, họ được hứng khởi và can đảm làm
chứng cho Chúa. Nếu không yêu Chúa Kitô mãnh liệt, Kitô hữu không thể hy sinh
cả mạng sống cho Chúa và anh em. Nhưng các vị tử đạo biết mình đã đón nhận được
ân sủng lớn lao để có thể chọn cái chết
vì đức tin. Chỉ có ân sủng mới có thể giải thích và cho ta thấu hiểu tại sao
các ngài lại hy sinh đến thế. Năm
1843, giữa gông cùm xiềng xích ngục tù, thánh Lê Bảo Tịnh đã viết cho bạn: “Tôi
là Phaolô đang bị xiềng xích vì danh Chúa Kitô, muốn kể cho anh về những khổ
cực tràn ngập thân tôi mỗi ngày để vì yêu mến Thiên Chúa, anh có thể dâng lên Người
lời tạ ơn ‘vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.’ Nhà tù này quả là hình
ảnh Hỏa ngục đời đời ... Nhưng ngày xưa Chúa đã giải thoát ba em nhỏ khỏi ngọn
lửa, giờ đây Thiên Chúa cũng luôn ở bên tôi và giải thoát tôi khỏi kiếp khốn
cùng này và biến cải những khổ đau thành hương vị ngọt ngào, ‘vì muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương.’ Xin hãy cầu nguyện giúp tôi chiến đấu tới cùng, kết
thúc vòng đua một cách hân hoan. Nếu không còn nhìn thấy nhau trên cõi đời này,
chúng ta sẽ vui mừng khi đứng trước tòa Con Chiên vẹn tuyền, chung tiếng ngợi
khen Chúa, hân hoan mừng chiến thắng đời đời. Amen.”[7] Khi
chọn tử vì đạo, các Kitô hữu hoàn toàn tự do bước theo Chúa Kitô để dấn thân
vào sứ mệnh Giáo hội. Họ từ bỏ mạng sống để sống hoàn toàn tự do và tiếp tục
sống mãi, nghĩa là được cứu độ. Nói khác, ơn cứu độ làm cho con người hoàn toàn
tự do và có thể sống hiệp thông hoàn toàn cũng như đối thoại với Thiên Chúa. Ðó
là mục tiêu cao cả và quyết liệt nhất của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng.
Nghĩa là, “chân lý Tin Mừng cũng được công bố để cứu vãn nhân phẩm và sự thánh
thiêng của đời sống con người. Do đó, tự bản chất bất cứ hành động nào nhằm cổ võ
nhân phẩm đều có đặc tính cứu độ, và bất cứ hoạt động nào nhằm dẹp bỏ hay ngăn
trở việc công bố này đều bị coi là cản trở hay bách hại đức tin.”[8] Người ta đã huy động bao nhiêu lực lượng để đàn áp tôn giáo? Nhưng lực
lượng nào có thể đọ với đức tin? Lịch sử cho thấy trở lực nào cũng có hồi kết
thúc và phải trả lại công lý cho
những người bị đàn áp tôn giáo. Nói
tóm, chỉ có một con đường cứu thoát duy nhất là Ðức Kitô. Chúa Giêsu quả quyết
: “Chính Thày là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Giữa bao nhiêu
thách đố, Kitô hữu có thể tìm được nơi Lời Chúa một nền tảng vững chắc và một
nơi ẩn trú bình an. Ðó là tất cả bí quyết giúp Kitô hữu vượt qua mọi cơn sợ hãi
và vận dụng mọi khả năng biến đau khổ thành phương tiện làm chứng cho Ðức Kitô.
Không nắm được bí quyết ấy, nhiều người sợ chết mà đành kéo lê kiếp trâu ngựa
suốt đời. Ðó có phải là số phận dân tộc ta hôm nay không? Lạy Chúa, xin cho chúng con một đức tin kiên cường như cha ông Tử Ðạo Việt
Nam, để chúng con có thể vượt qua mọi nỗi sợ hãi hiện tại và biến những đau khổ
thành phương tiện làm chứng cho Chúa giữa lòng dân tộc và nhân loại hôm nay. Amen. đỗ lực 18.11.2007 [2] Nguyễn Công Trứ. [3] Dignitatis
Humanae, AAS 58 (1966), 929-946. [4] x. Gioan Phaolô II, Tông Thư Centesimus Annus, 47: AAS 83 (1991), 851-852. [5] Dignitatis
Humanae, AAS 58 (1966), 930-931. [6] Gioan Phaolô II, Tông Thư Redemptoris Hominis, 17: AAS 71 (1979), 300. [8] Dictionary of Fundamental Theology 1995:629. |