TÌNH YÊU NÀO CHO EM
(Ga 6:51-58)
Nhân dịp Italy kỷ niệm
30 năm công nhận quyền phá thai, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã đón tiếp Phong Trào
Italy phò sự sống. ÐTC khẳng định : “Thực tế chúng ta phải nhìn nhận ngày nay bảo
vệ sự sống con người thật là khó khăn, vì đã dần dần phát sinh một não trạng
coi thường sự sống con người và giao phó sự sống đó cho cá nhân toàn quyền định
đoạt.” Thế nhưng việc phá thai “không những không giải quyết các vấn đề đang làm
cho nhiều phụ nữ và gia đình đau buồn, nhưng còn khơi sâu một vết thương khác
trong xã hội chúng ta. Cần phải làm chứng một cách cụ thể rằng việc tôn trọng sự
sống là hình thức công bình và phải được áp dụng trước tiên. Ðối với những người
có đức tin, điều này trở thành một mệnh lệnh không thể trì hoãn […] Chỉ Thiên
Chúa mới là Chủ sự sống. Người hiểu biết, yêu thương, đòi hỏi và hướng dẫn từng
người […] và mỗi người đều từ trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa mà ra.
”[1] Giữa lúc xã hội coi thường
mạng sống con người, chúng ta lại được chính Chúa Giêsu Thánh Thể mạc khải giá
trị cao cả của sự sống. Sư sống cao cả đến nỗi Chúa đã phải hy sinh chính mạng
sống và còn để lại Mình Máu Chúa hiện diện sống động giữa chúng ta. Lễ Mình Máu
Thánh Chúa là cơ hội lớn nhất cho chúng ta tìm hiểu giá trị sự sống và vai trò
Giáo hội trong việc bảo vệ sự sống ấy. BÍ TÍCH TRUYỀN SINH Sau khi nuôi sống hàng
ngàn dân, Chúa Giêsu muốn mọi người thấy phép lạ đó như một lời mời gọi con người
vượt qua của ăn vật chất mà tìm kiếm lương thực thiêng liêng nơi Thiên Chúa. Chúa
Giêsu ban tặng “thịt tôi cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Sự sống quả là một
tặng phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa ! “Những gì Chúa Giêsu nói
(trong đêm lập Bí Tích Thánh Thể) không phải là lời nói suông, nhưng là một biến
cố, một biến cố nằm giữa trung tâm lịch sử thế giới và cuộc sống mỗi người chúng
ta.”[2]
Chúa hiện diện thực sự và thường trực để bảo vệ giá trị cao cả của sự sống con
người. Dù đã hạ mình làm thân bèo bọt mỏng mảnh của kiếp người, Chúa còn hạ mình
thấp hơn nữa trong tấm bánh và giọt rượu để hóa thân làm người lần nữa trong các
tín hữu. Ðể thực hiện được biến cố vĩ đại này, Chúa đã phải huy động tất cả sức
mạnh Thần Khí để thực sự biến đổi bánh rượu, mà không tiêu hủy chúng. Bởi đó, Thánh Thể là
trung tâm phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Thể nói cho biết Thiên Chúa là
ai trong cuộc đời chúng ta. Thánh Thể cũng mạc khải về bản chất con người và trách
nhiệm chúng ta trong cuộc sống chung với tha nhân. Thánh Thể cũng là trung
tâm của niềm tin. Thánh Thể đề cao việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã
sai Ðức Giêsu đến cứu sống chúng ta. Thánh Thể tán dương việc Thiên Chúa để cho
thân thể Chúa Giêsu bị bẻ ra và máu Người đổ ra cho chúng ta. Thánh Thể nhắc lại
việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Thần Khí đã làm cho Ðức Giêsu trỗi
dậy từ cõi chết để chúng ta có thể chia sẻ quyền năng và thừa hưởng sự sống vĩnh
cửu như lời Chúa đã hứa. Thánh Thể mạc khải chúng ta được kêu gọi hành động hơn là chỉ rước
Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh Thể làm sáng tỏ sự thật chúng ta là – phải là – Mình
Máu Chúa Kitô hy sinh cho nhau. Thánh Thể cho thấy rõ chúng ta được kêu gọi để trở thành tấm bánh bẻ ra và chén máu đổ ra
cho tha nhân, hy sinh cuộc đời để theo đuổi công lý, hòa bình, hòa giải, hòa hợp,
tự do, sự sống và tình yêu. Khi công bố cái chết của Chúa trong Bí Tích Thánh
Thể, chúng ta phải quyết chí hy sinh cả cuộc đời, tài năng và nỗ lực tiếp nối công
cuộc cứu độ của Chúa. Chúng ta được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chân giá
trị của Bí Tích Thánh Thể khi tuân hành mệnh lệnh Chúa Giêsu bảo chúng ta “làm
việc này để nhớ đến” Người. Không phải chỉ cử hành Thánh Thể vào ngày thứ nhất
trong tuần, nhưng còn cung cấp, nuôi dưỡng và tha thứ cho nhau để trở thành Thánh
Thể cho nhau mỗi ngày trong tuần nữa. Trong bài đọc hai, thánh
Phaolô loan báo cho cộng đoàn Côrintô biết Thánh Thể là nguồn suối và là trung
tâm của đời sống. Họ là một trong thân thể Chúa Kitô. Nếu biết đề cao chân lý này,
họ nắm vững chìa khóa để nối các khác biệt lại với nhau.Thánh Phaolô làm việc cực
nhọc để quy tụ một cộng đoàn đã bị xâu xé vì các lực lượng xa lạ với Thiên Chúa. Trước công đồng Vatican
II, lòng tôn sùng Thánh Thể chủ yếu tập trung vào “sự hiện diện đích thực của
Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Phần lớn lòng đạo đức hệ tại những lần thăm
viếng, chầu, rước kiệu Thánh Thể và làm “giờ thánh,” nơi Chúa Giêsu “đang chờ đợi,
kêu gọi và đón chào những ai đến viếng thăm Ngài.”[3]
Từ công đồng Vatican
II, có một sự hiểu biết sâu xa hơn về lòng tôn sùng Bí Tích Thánh Thể gắn liền
với Thánh Thể trong Thánh Lễ. Giáo dân hiểu sâu xa hơn về Thánh Lễ với Hội Thánh
như nhiệm thể Chúa Kitô. Thánh Thể tạo tác nên Hội Thánh, chứ Hội Thánh không tạo
tác nên Thánh Thể. Quả thế, trong đêm bị trao nộp, Đức Giêsu đã nói với các môn
đệ : “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người” (Mc 14:22-24) quy tụ
trong Nước Thiên Chúa. Máu người vô tội đã đổ ra cho tội nhân được tái sinh làm
con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội. Thánh Thể đem lại cho chúng ta sự sống mới
và tăng cường sức mạnh cho Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội. SỰ SỐNG : MỘT GIÁ TRỊ CAO CẢ Mỗi Thánh Lễ là một cuộc
thánh hiến trọn vẹn của Chúa Kitô cho sự sống nhân loại, vì Chúa hiện diện đích
thực, thường tại và hành động để thăng hoa cuộc sống và đổ tràn niềm vui từ cuộc
sống vĩnh cửu cho muôn dân. ÐHY Alfonso López-Trujillo nói : “Bí Tích Thánh Thể
là Bí Tích của Sự Sống. ‘Ta là Bánh Hằng Sống. Ai ăn bánh này sẽ
sống đời đời. Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.’(x. Ga
6:47-58)[4]
Máu Giao Ước của Người có sức mạnh cứu độ muôn người. Chúa đã phải chết để giành
lại sự sống cho con người. Sự sống thực sự là một
giá trị vô cùng cao cả. Thực vậy, “trong Ðức Kitô, chính Thiên Chúa đã được mạc
khải là Cha và là Ðấng ban sự sống. Cũng trong Ðức Kitô, con người đón nhận mọi
sự như tặng phẩm từ tay Thiên Chúa một cách khiêm tốn và tự do. Họ thực sự chiếm
hữu vạn vật khi nhận biết và cảm nghiệm rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, phát
xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[5]
Thiên Chúa là nền tảng và lý do hiện hữu của vạn vật. “Không có Tạo Hóa, tạo vật
sẽ biến tan.”[6] Nơi Thánh Thể, chúng ta
gặp thấy Ðấng tạo thành vạn vật (x. Ga 1:3). Ðỉnh cao trong công cuộc tạo dựng
chính là sự sống con người. Bởi thế, Người đã không ngần ngại hy sinh mạng sống
để dành lại tất cả cho con người. Ðến ngày tận thế, “Chúa Kitô sẽ trình lên Chúa
Cha Vương quốc sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và
hòa bình.”[7]
Nhưng làm sao có thể có một Vương quốc lý
tưởng như thế, nếu Chúa không tiếp tục hiện diện và hoạt động nơi trần gian ? Ðó
là lý do tại sao Người lập Bí Tích Thánh Thể. Không có Thánh Thể, Giáo Hội không
thể có sức sống để hoàn thành sứ mệnh cứu độ nhân loại. Giáo hội hiện diện trên
mặt đất như một nhắc nhở con người nhớ tới trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Lý
do vì “giống Thiên Chúa tận yếu tính và sự sống, con người có liên hệ với Thiên
Chúa một cách sâu xa nhất. Con người là một nhân vị được Thiên Chúa tạo dựng để
sống trong tương quan với Người. Chỉ khi sống trong tương quan và hướng về Thiên
Chúa, con người mới tìm thấy sự sống đích thực.”[8]
Chính trên nền tảng đó, con người mới hiểu tại sao mình có trách nhiệm với sự sống
của mình và người khác. Thật vậy, “tương quan với Thiên Chúa đòi phải coi sự sống
con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm.”[9]
Khi mất ý thức và xác tín đó, con người khinh thường và hủy diệt sự sống tha nhân
và xúc phạm đến Thiên Chúa . Ngày nay, tội ác tràn
ngập trong xã hội đến mức đã ăn sâu vào truyền thống và các cơ chế. Thực tế đó
là những tội xã hội. “Tội xã hội là mọi tội chống lại công lý đòi phải có trong
tương quan giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đoàn, và giữa cộng đoàn với
cá nhân nữa. Mọi hành động chống lại quyền con người, bắt đầu là quyền sống, gồm
cả sự sống trong bào thai, chống lại sự toàn vẹn thân xác của cá nhân, hay chống
lại sự tự do của tha nhân, đều được gọi là tội xã hội.”[10]
Tham gia vào các tội xã hội đó có nhiều cách khác nhau và mức độ vi phạm cũng
không giống nhau. Trong phạm vi gia đình, tội phá thai dẫn đầu. Ngoài xã hội, tồi
tệ và quái đản nhất là tội diệt chủng và đàn áp tự do tôn giáo. |
Thực ra, trong gia đình
cũng như ngoài xã hội, con người đều được kêu gọi và có bổn phận phục vụ, chứ
không phải hủy diệt sự sống.[11]
ÐGH Gioan Phaolô II từng nói : “Quyền sống là quyền trẻ em phát triển trong lòng
mẹ từ lúc mới thụ thai; quyền sống trong một gia đình hiệp nhất và môi trường đạo
đức để có thể tăng trưởng nhân cách.”[12]
Nhưng hình như cả gia đình và xã hội cấu kết với nhau để phá hủy sự sống từ
trong phôi thai. Phá thai “là một tội ác khủng khiếp và đặc biệt làm xáo trộn
trầm trọng trật tự luân lý. Ðó không phải là một quyền, nhưng là một hiện tượng
đau buồn góp phần nghiêm trọng vào việc gieo rắc não trạng chống lại sự sống, và
cho thấy một mối đe dọa nguy hiểm chống lại một cuộc sống chung của xã hội
trong công bình và dân chủ.”[13] Làm sao có thể chữa trị
não trạng chống lại sự sống đó, nếu không nhờ tới Thánh Thể ? Quả thực,“Bí Tích
Thánh Thể dạy các gia đình và thúc đẩy họ bảo vệ sự sống.”[14]
Nếu biết quy tụ bên Thánh Thể, gia đình sẽ hăng say bảo vệ cũng như tôn trọng sự
sống vì khám phá ra Thánh Thể là nguồn mạch và thành trì bảo vệ sự sống. Ðó là
lý do tại sao ÐHY Alfonso López-Trujillo khẳng quyết : “Hy tế Thánh Thể
là chính hành động của Đức Kitô tiêu diệt sự chết và phục hồi sự sống cho chúng
ta. Mỗi khi họp nhau để tham dự Hy lễ này, chúng ta mừng sự sống chiến
thắng sự chết, và như thế cũng chiến thắng phong trào phá thai. Phong trào phò
sự sống không phải hoạt động cho chiến thắng mà hoạt động từ chiến thắng.
Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói ở Denver năm 1993, “Đừng sợ. Kết
quả của cuộc chiến phò sự sống đã được định đoạt.” Công việc của chúng ta
là áp dụng chiến thắng đã được thiết lập vào mọi phương diện của xã hội chúng
ta. Cử hành Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của công việc ấy.”[15]
Thực tế, phong trào phò
sự sống gặp rất nhiều khó khăn, có lẽ vì chúng ta còn thiếu đức tin vào Bí Tích
Thánh Thể, nguồn mạch sự sống ? LÒNG MẸ HAY PHÁP TRƯỜNG ? Không có điều gì chống
lại con người cho bằng hủy diệt sự sống con người ngay từ trong lòng mẹ. Lòng mẹ
trở thành pháp trường. Nhìn vào tình hình phá thai trên thế giới hôm nay, chúng
ta phải bàng hoàng kinh sợ. Trên toàn thế giới hàng
năm có tới 42 triệu trẻ em bị giết trong bụng mẹ. Trung bình một ngày khoảng
115.000 vụ phá thai. Hầu hết các vụ phá thai xảy ra ở các nước nghèo (83%). Nơi
các nước phát triển chỉ đạt tỷ lệ 17%. Thế nhưng riêng tại Hoa Kỳ, mỗi năm cũng
có khoảng 1.370.000 vụ phá thai (1996). Từ năm 1973 đến 2002, Hoa Kỳ có 42 triệu
vụ phá thai hợp pháp. Tại Việt Nam càng ngày
càng có nhiều phụ nữ tìm cách phá thai, vì phá thai được nhà nước coi như sách
lược hàng đầu để kiểm soát sinh sản. Bởi thế, Giáo Hội càng phải cam go chiến đấu
với não trạng chống sự sống đang thịnh hành tại Việt Nam. Tỷ lệ phá thai tại Việt
Nam cao nhất thế giới. Công khai có 83 vụ phá thai trong 1000 người mang thai. Nếu
tính cả việc phá thai lén lút, con số lên tới khoảng 2 triệu trong một năm vụ
phá thai, tỷ lệ 111 phần ngàn. Năm 1996 có 1.520.000 vụ phá thai.[16]
Con số phá thai công khai có khuynh hướng tăng cao trong vòng hai thập niên
qua. Tỉ lệ phá thai cao nhất từ năm 1976 và 1987, khi số phá thai công khai tăng
gấp 10 lần, từ 70.281 đến 811.176 vụ (Goodkind, 1996). Theo thống kê mới nhất, có
1/3 những phụ nữ mang thai đã phá thai.[17] Còn phụ nữ Việt Nam tại
Hải ngoại thì sao ? Chưa có một thống kê chính xác và khoa học về vấn đề này.
Nhưng “hiện nay tại Orange County, thủ phủ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ, có ít
nhất 2 chương trình phá thai miễn phí được quảng cáo trên báo chí Việt ngữ. Và
tính trung bình chỉ 1 trung tâm thôi con số những phụ nữ Việt Nam đến để phá
thai có khoảng chừng 500 vụ mỗi tháng.”[18]
Theo một bác sỹ sản phụ khoa hành nghề lâu năm tại Bệnh Viện Fountain Valley,
nơi có nhiều sản phụ Việt Nam nhất Orange County, California, “người Việt Nam
phá thai nhiều hơn đẻ.”[19]
Trước sự thật ấy, ai còn dám hãnh diện về văn hóa dân tộc nữa không ? Ai là người chịu trách
nhiệm trực tiếp trong việc sát nhân từ trong lòng mẹ, nếu không phải là chính
người mẹ ? Còn đâu hình ảnh “lòng mẹ bao la như biển Thái bình”? Truyền thống đạo
đức gia đình tới đâu ? Nhìn vào số phá thai trên
thế giới, có lẽ nhiều người càng bi quan hơn khi thấy 35,4% phụ nữ là Tin Lành,
31,3% là Công Giáo. Nói chung phụ nữ phá thai theo Kitô giáo chiếm gần 70%.
Trong khi đó, các phụ nữ không có đạo chiếm 23,7% mà thôi.[20]
Những sự kiện đó cho thấy giáo dân còn ít dấn thân theo Chúa Kitô tới mức nào. Tới đây, cần tìm hiểu tại
sao phụ nữ phá thai. Chỉ có 1% phá thai vì bị hãm hiếp hay loạn luân, 6% vì vấn
đề sức khỏe của mẹ hay con, và 93% vì những lý do xã hội (nghĩa là có con ngoài
ý muốn hay không thuận tiện).[21]
Nói chung phụ nữ đưa ra ít nhất 3 lý do phá thai : 3/4 nói có con làm cản trở công việc, học hành
hay những trách nhiệm khác. Khoảng 2/3 nói
không thể nuôi con. Và 1/2 nói không muốn làm mẹ neo đơn hay đang có vấn đề với
chồng hoặc bạn tình.[22]
Nói tóm, phụ nữ phá thai chỉ vì không muốn hy sinh. Tính ích kỷ đã chiếm trọn
con người và ảnh hưởng tới quyết định của họ. Phải chăng đặt vấn đề
như thế đã lỗi thời ? Ðây là câu trả lời của ÐGH Bênêđictô XVI : “Trên phương
diện luân lý, đánh giá của Giáo Hội về vấn đề ly dị và phá thai là phân minh và
thấu đáo: đó là tội nặng, vi phạm phẩm giá con người, kéo theo sự bất công sâu
sắc trong quan hệ con người và xã hội, xúc phạm đến Thiên Chúa, Ðấng đảm bảo
cho kết ước vợ chồng và Đấng tác thành sự sống.”[23]
Nếu ý thức được việc phá thai nặng nề và nguy hại như thế, chắc chắn sẽ không còn
ai dám phá thai nữa. Khốn nỗi dù biết là tội nặng, nhiều Kitô hữu vẫn phá thai,
bất chấp tiếng nói lương tâm. Chắc chắn chẳng phụ nữ nào vui sướng phải đi đến
quyết định phá thai. Thật vậy, theo ÐGH, “ly dị và phá thai là những chọn lựa
(…) trong những tình thế khó khăn và nguy kịch. Ðó là nguồn mạch sinh ra đau
đớn sâu thẳm nơi những người phải đưa ra quyết định đó. Nó tác động đến những
nạn nhân vô tội: đứa trẻ bị giết trong lòng mẹ khi chúng chưa chào đời, trẻ em
bị ảnh hưởng bởi ly dị.”[24]
Trước tình hình phá
thai trên thế giới, Giáo Hội có thể làm được gì để chữa những vết thương trong
tâm hồn phụ nữ và cứu những trẻ em vô tội ? ÐGH cam đoan :“Giáo Hội có bổn phận
gần gũi, yêu thương và khéo léo đối với những người như vậy.”[25]
Giáo Hội đây là ai, nếu không phải là các Kitô hữu ? Bởi vậy, tình trạng phá
thai cũng nhắc Kitô hữu ý thức trách nhiệm dấn thân vào phong trào phò sự sống
của Giáo Hội. Hiện nay, có thể tìm thấy
một mẫu dấn thân như thế nơi anh Tống Phước Phúc, một nhà thầu Công giáo sống ở
Nha Trang. Ngày 13.07.2004, anh thuyết phục một cô gái từ bỏ ý định phá thai chỉ
vì cô muốn giữ thể diện gia đình. Thế là anh đã cứu được một mạng người. Trong
mấy năm trời, tổng cộng anh đã cứu sống 60 trẻ em thoát cảnh phá thai. Mặc dù
găp nhiều khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, anh vẫn luôn phó thác mọi sự
trong tay Chúa quan phòng. Hàng ngày anh đi lễ tại nhà thờ chánh tòa Nha Trang
lúc 5:00 sáng.[26]
Thánh Thể trở thành sức mạnh cho anh vượt qua tất cả trở ngại. Sở dĩ trở thành
anh hùng cứu sống nhiều sinh mạng trẻ thơ, vì anh đã tìm được nguồn mạch tình
yêu nơi Chúa Giêsu Thánh Thể. Khi chú giải Kinh thánh
về Bí tích Thánh thể, tác giả Hurault viết : “Lịch sử không thể dừng lại. Không
phải chỉ có tiến bộ kỹ thuật đẩy ta về phía trước, mà thật ra là những đòi hỏi
công lý – phát sinh từ cái chết của một người vô tội (và Thiên Chúa là Ðấng Vô
Tội) – không ngừng bắt ta phải xét lại
trật tự hiện hành. Cái chết của Chúa Kitô không cho phép chúng ta được yên ổn,
không được nghỉ ngơi.”[27]
Trong Thánh Lễ hàng ngày, Chúa Giêsu vẫn hy sinh để đẩy mạnh công cuộc tạo dựng
nền văn hóa sự sống cho nhân loại. Tóm lại, Thánh Thể đã đem
lại sức sống cho nhân loại. Càng kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, tâm hồn càng
tràn đầy nhựa sống và niềm hy vọng. Hơn khi nào, gia đình cần phải đến với Thánh
Thể để học hỏi cách sống hạnh phúc và bảo vệ sự sống cho mình và tha nhân. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con luôn kết hiệp mật
thiết với Chúa để chúng con có đủ sức mạnh chống lại nền văn hóa sự chết và làm cho nhân loại phục sinh trong tình
yêu Chúa. Amen. đỗ lực 25.05.2008 |
[2]
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20060615_corpus-christi_en.html
[3] Trích từ một lời nguyện.
[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 46.
[6] Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966), 1054.
[7] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 57.
[8] ibid., 109.
[9] Giáo Lý Công Giáo, 2258.
[10] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 118.
[11] x. Vatican II, Gaudium et Spes, 50-51 : AAS 58
(1966), 1070-1072.
[12] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 155.
[13] ibid., 233.
[15] ibid.
[19] ibid.
[21]
ibid.
[23]
La Croix 05/04/08. Trích lại từ VietCatholic News (Thứ Bảy 05/04/2008 10:20)
[24] Ibid.
[25] Ibid.
[27] Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, Kinh Thánh Tân
Ước : Lời Chúa Cho Mọi Người 2005: 745