Tản mạn
về Ơn Gọi
Ơn
Gọi nôm na được hiểu là
lời kêu mời dấn thân làm một việc gì đó, đi theo một con người hay một chủ thuyết
nào đó. Đây là kiểu nói trong đạo, còn ngoài đời thì chắc ít nơi nào dùng từ ngữ
đó. Trong quá khứ - và có khi ngay cả trong hiện tại - ơn gọi thường được hiểu là chỉ dành cho hai giới sau đây : linh mục
và tu sĩ. Công đồng Vaticanô II đã đưa ra một cái nhìn khác hẳn về ơn gọi khi nhìn nhận vai trò của người
tín hữu giáo dân. Do đó mà trong những thập niên sau này, nghĩa là từ khi các
nghị quyết của Công đồng được ban bố, ngoài ơn
thiên triệu là ơn gọi linh mục, tu sĩ, ta còn nghe nói đến ơn gọi giáo dân nói chung và, cách riêng, ơn
gọi hôn nhân gia đình.
Là một người trong cuộc mà đưa ra những
nhận định tích cực về ơn gọi của mình, e rằng không thuyết phục được ai. Nhưng trong
tinh thần Năm Thánh và hướng về Đại Hội Dân Chúa sắp đến, người viết xin mạo muội
nói lên một vài suy nghĩ của mình, dựa trên những giáo huấn của Hội Thánh.
Trước hết, chúng ta hãy lược khảo những
gì đã được Thánh Công Đồng Vaticanô II công bố về vai trò vị trí của người giáo
dân trong Giáo Hội.
Có hai văn kiện của Công đồng đặc biệt liên
quan đến người tín hữu giáo dân đó là "Sắc
lệnh về Tông đồ giáo dân (TĐGD), được ban hành ngày 18.11.1965 và "Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của
Giáo hội"(HĐTG), được ban
hành ngày 07.12.1965. Nếu sắc lệnh sau bàn về một hoạt động đã có từ ngàn đời
trong giáo hội, vì truyền giáo chính là bản tính của giáo hội Chúa Ki-tô (HĐTG,
số 6), thì sắc lệnh trước lại bàn đến một hoạt động rất mới mẻ, trước công động
Vaticanô II chưa hề được nói đến, như ta được biết qua lời giới thiệu : " Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một
Công Đồng Chung đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề tông đồ của giáo dân" (Lời giới
thiệu về TĐGD :Tính cách độc đáo).
Khi phân biệt chức linh mục thừa tác dành cho các mục tử - giám mục, linh mục, và
chức linh mục cộng đồng, dành cho
giáo dân, sắc lệnh về TĐGD nói rõ rằng,
nếu với chức linh mục thừa tác, các mục tử tham dự vào các sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Đức
Ki-tô, thì với chức linh mục cộng đồng hay phổ quát, người giáo dân cũng được
chia sẻ những sứ vụ đó theo cách riêng của mình.(Lời giới thiệu về TĐGD : Những nét chính)
Như vậy hoạt động tông đồ và truyền giáo
không chỉ dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà đó còn là phần của người tín hữu
giáo dân, theo như Công Đồng dạy :
-
Người giáo dân sống trong thế giới và giữa những thực tại trần gian, cho nên ơn
gọi của họ là thánh hóa những gì trần tục (Lời giới thiệu TĐGD : Chiều hướng nền
tảng).
-
Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời, nên
chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần ki-tô giáo, họ
làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột (TĐGD, số 2).
-
Vì vậy, hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người
trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa (TĐGD, số 3).
-
(Người giáo dân phải biết
tôn trọng ) những đức tính liên quan đến
đời sống xã hội : sự liêm khiết, tinh thần công bình, lòng thành thực, lòng
nhân hậu, lòng quả cảm; không có những đức tính đó không thể có đời sống ki-tô
hữu đích thực (TĐGD, số 4).
-
Mọi ki-tô hữu dù sống ở đâu, đều phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời
nói để biểu dương con người mới mà họ đã mặc lấy nhờ phép rửa, và biểu dương sức
mạnh của Chúa Thánh Thần mà họ đã được củng cố nhờ phép thêm sức…(HĐTG, số 11).
-Phúc âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống
và sinh hoạt của một dân tộc, nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân…
Nhiệm vụ chính của người giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Ki-tô,
làm chứng bằng đời sống và lời nói, trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội
cũng như trong từng nghề nghiệp (HDTG, số 21).
-
Chính khi nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và bác ái đối với tha nhân , họ …làm
cho Giáo hội xuất hiện như một dấu chỉ nổi lên giữa các dân là ánh sáng thế gian và là muối đất (HĐTG, số 36).
Đối với gia đình ki-tô giáo, sắc lệnh
TĐGD có lời dạy :
Gia
đình ki-tô giáo vẫn là chứng nhân quí giá nhất của Chúa Ki-tô đối với thế gian,
bằng tất cả đời sống gắn liền với Phúc Âm và tỏ ra là gia đình ki-tô giáo gương
mẫu (số 11).
Về phần mình, qua Tông huấn về gia đình (được ban hành ngày 22.11.1981), Đức Thánh
Cha Gioan-Phaolô II đã dạy :
Gia
đình ki-tô hữu, nhất là ngày nay, được mời gọi làm chứng cho giao ước Phục sinh
của Đức Ki-tô, nhờ việc kiên trì tỏa sáng niềm vui của tình yêu và sự chắc chắn
của lòng trông cậy …(số
52). Cũng trong số này, Đức Gioan-Phaolô II nhắc lại lời dạy của Đức Phao-lô VI
: " Cũng như Hội Thánh, gia đình có
nghĩa vụ tạo môi trường cho Tin Mừng được truyền đạt tới và từ đó được loan tỏa
ra …một gia đình như thế sẽ có sức tin-mừng-hóa nhiều gia đình khác và cả môi
trường chung quanh."
Được soi sáng bởi những lời dạy rất thiết
thực trên đây của Hội Thánh, chúng ta có thể đi đến những kết luận sau đây :
- Người tín hữu giáo dân, cũng như gia
đình ki-tô giáo, phải ý thức Ơn Gọi
làm tông đồ của mình : theo nghĩa là
được mời gọi loan báo Tin Mừng của Đức Ki-tô.
- Nhưng công việc tông đồ dành cho người
tín hữu giáo dân và cho gia đình ki-tô hữu phải được ưu tiên thực hiện bằng chứng tá đời sống - bằng cách " Nhiệt thành phụng sự Chúa và bác ái
đối với tha nhân" ngay trong đời sống thường ngày của chính mình, của
chính gia đình mình.
Kết luận như thế để thấy rằng, nếu người
tín hữu giáo dân và gia đình ki-tô giáo hiểu sai ơn gọi của mình, thực hành ơn gọi đó không đúng cách, do đó tích cực dấn thân vào những hoạt động -
bề ngoài xem ra rất chính đáng - nhưng lại tiềm tàng mầm mống phản chứng, thì nhất định chúng ta không phải là những ki-tô hữu đích thực.... Cha An-tôn Nguyễn Ngọc Sơn có lần
đã chia sẻ thao thức của ngài về tình trạng không thay đổi của tỷ lệ người công
giáo Việt-nam. Ngài đã viết : "…tại
sao từ 120 năm nay , GHVN vẫn chưa gia tăng được 1% dân số công giáo so với số
dân trong nước [nghĩa là vẫn ở mức 6-7%], dù có hàng chục ngàn linh mục tu sĩ và hàng trăm ngàn đoàn viên của
các hiệp hội Công Giáo Tiến Hành…" (Nguyệt san CG&DT, số 176,
tháng 8.2009, tr.21-22). Theo thiển ý, sở dĩ có tình trạng đó, phải chăng là do
người tín hữu Việt-nam đã làm cho tôn giáo của mình mất đi phẩm chất ban đầu của
nó, là "đạo yêu thương" - yêu
thương nhau và yêu thương tha nhân, tha nhân đây là người hàng xóm, người đồng nghiệp …của chúng ta. Cha An-tôn
Nguyễn Ngọc Sơn còn viết, cũng trên Ns CG&DT (số 174, tháng 6.2009, tr.28) :
" Tại sao GHVN, với bao nhiêu dòng
tu, bao nhiêu hoạt động tích cực trong xã hội, bao nhiêu lễ nghi rất hoành
tráng (thí dụ như Đại hội Đức Mẹ La-vang với khoảng 500.000-600.000 người tham
dự) mà vẫn không cuốn hút người ta theo đạo ? Nếu tình trạng chỉ xảy ra trong
1, 2 năm thì chúng ta còn cho là ngẫu
nhiên, nhưng kéo dài đến 50 năm [từ khi Hàng GPVN được thiết lập, năm 1960 - NV]
thì đó là vấn đề đáng ta tìm hiểu và phân tích."
Từ gần hai ngàn năm về trước,
khi viết đoạn thư bất hủ thường được gọi là "Bài
ca đức mến" trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Cô-rinh-tô (1Cr
13), chắc thánh Phao-lô đã nhìn thấy
tính chất phản chứng trong các hoạt động tông đồ không được thực hiện "vì lòng nhiệt thành phụng sự Chúa và
bác ái đối với tha nhân" đích thực của chúng ta. Thật khó chịu, và khó
hiểu, khi nghe ngài nói : " Giả như
tôi đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố
thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng
chẳng ích gì cho tôi." (câu 3). Thật may là ngài đã giải thích : "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm
tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù… " "(câu 4-5). Có một câu trong sách Công Vụ Tông đồ (Cv 2,
47) rất đáng cho chúng ta suy nghĩ : "…họ được toàn dân thương mến". Phải
chăng chúng ta đã "mất cảm tình" với đồng bào của chúng ta, khi những
giáo huấn của Hội Thánh được trích dẫn trên đây vẫn còn hay đã trở nên xa lạ đối
với chúng ta ?
DU-TRƯỜNG
Tháng Mân Côi 2010.