« Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn
tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ
được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc
lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là
người thế nào !... Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương
khóc ; việc chôn cất… cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu
bên cạnh tiên đế ». (ĐVSKTT,Bản Kỷ, Quyển 3, Kỷ nhà
Lý,25b )
Đó là di chiếu của vua Lý nhân Tông (1066-1128), vị vua thứ tư của nhà Lý. Người ở ngôi vua lâu nhất trong lịch sử Việt
Nam (56 năm). Cũng là vị vua mở đầu cho nền giáo dục khoa cử và đại học của
nước ta : mở khoa thi Minh Kinh bác học, còn gọi là khoa thi Tam trường đầu
tiên trong sử Việt (năm 1075), lập Quốc tử Giám (1076) là trường đại học đầu
tiên của nước nhà. Nhưng đáng kể nhất là tấm lòng nhân hậu của nhà vua :
Xuống chiếu cho các công thần 80 tuổi đều được chống gậy, ngồi ghế khi vào chầu
(1074) ; Xuống chiếu cầu lời nói thẳng ; Cất nhắc những người hiền
lương có tài văn võ để quản quân, trị dân (1076). Khuyến khích dân đắp đê , khơi ngòi, chài lưới,
làm ruộng, cổ vũ các nghề thủ công, giảm tô thuế, ân xá tội nhân, nâng đỡ chăm
sóc những người nghèo, già lão, yếu đau, chuộc người tôi đòi, giúp đỡ người goá
bụa…Người là vị vua nhân ái, thương dân, có
thể dùng câu của sử thần Lê quý Đôn đời Hậu Lê để ca ngợi : Nhà vua
thật "Xứng
đáng là vị anh quân đời Lý".
Lời bàn :
Đời người
không được đánh giá bằng sự dài ngắn của thời gian, mà bằng tầm rộng lớn của sự
nghiệp, nhất là bằng chiều cao sâu của đức độ. Vua Lý Nhân Tông thật xứng với
chữ « nhân », người tuy đã tạo nhiều phúc trạch cho dân, lòng lại
khiêm tốn nghĩ mình tài hèn đức bạc, miễn cho dân những gánh nặng của hình thức
quá đáng, sợ quấy rầy đời sống vốn đã khổ cực của dân thì lòng thêm mang tội.
Theo học thuyết Đông Phương, dù là quan niệm « Tĩnh » của Đạo gia (Lão,Trang):
sống chết là sự biến hoá của tự nhiên, là « mệnh trời », chết là về với Tạo
Hoá, là « trở về nhà » , nên không cần quan tâm tới ; Hay là quan niệm
« Động » của Nho gia (Khổng,
Mạnh): chết là nghỉ, nên cứ tận tâm tận sức lo lắng cho đời, « chưa biết lẽ
sống, cần gì biết lẽ chết », có buồn chăng chỉ là vì chưa thực hiện được lẽ
đạo và
buồn cho đời, chứ mình thì đã « lạc sinh an tử » (sống vui vẻ, chết
bình an). Dù tĩnh hay động, tinh thần lạc quan trước cái chết của người Phương Đông
phải chăng đã thật gần với Đạo Trời, đạo thật ; Lòng đã hướng về Chân Lý Vĩnh
Cửu trên bước đường dương thế còn nhiều gian khổ, chông gai ?
Ân
Linh