Tuệ Trung Thượng
Sĩ tên thật là Trần Tung (Trần quốc Tung) (1230-1291) có tước hiệu Hưng Ninh
Vương, là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, cũng là anh ruột của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm (là vợ vua Trần Thánh
Tông). Trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần 2 và lần 3, ông đều trực tiếp
tham gia. Sau khi kháng Nguyên thành công, đã được phong chức Tiết độ sứ cai quản
phủ Thái Bình. Ít lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (Hải Phòng), lập Dưỡng
Chân Trang để theo đuổi nghiệp Thiền. Thượng Sĩ vừa thực hành giải thoát tâm
trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các việc xã hội mà
triều đình giao phó. Được vua Trần Thánh Tông kính nể do kiến thức uyên bác,
tôn làm sư huynh. Ông vui hoà cùng thế tục, sống lạc đạo an bần ; Đói thì ăn,
khát thì uống, sống tự tại tiêu diêu.
Điểm độc đáo nơi
tư tưởng Thiền của ông là « phá chấp » : phá bỏ ý tưởng cho rằng
giáo lí kinh điển nhà Phật là hoàn toàn đúng đắn, là chấp vào giới ( giáo lý), lệ thuộc vào kinh chữ. Giới luật chỉ là phương
tiện, khi giác ngộ rồi thì phải vượt
trên giới, hiểu và hành động vượt lên trên khuôn khổ, đổi mới nhận thức, tiếp
thu tinh hoa trên tinh thần phê phán, không rập khuôn máy móc. Tư tưởng này có
từ thời Đức Phật, nhưng không được phát triển nhiều nơi Phật giáo Trung Hoa và Ấn
Độ, tới Tuệ Trung Thượng Sĩ mới được phát huy quang đại ở nước ta. Khi giải
thích về quan niệm « bẩn sạch », ông nói về « Pháp thân thanh tịnh » bằng 4 câu thơ :“Xưa nay
không bẩn, sạch / Pháp thân không vướng mắc / Nào “trọc” với nào “thanh! / Bẩn,
sạch đều hư danh.
Có người hỏi : « Thế
nào là đạo » - Ông
đáp : « Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo ».
Khi giải thích về Phật Pháp như không giải thích gì để phá sự chấp nê, có người
khác hỏi :« Thế ấy thì người học nhân đâu
vào được chỗ đầu ? ». Ông trả lời : « Gãi ngứa không phải
người khác ngứa/ Đói ăn chính thật là ông ăn ». Ý nói : thấy được chỗ
vào đó là nhờ mình thấy và mình sống chớ không ai khác. Quan niệm giác ngộ của ông
không chấp vào khuôn khổ, giới luật, không thoát li hiện thực đất nước. Tuệ
Trung cho rằng : người tu hành một khi đã giác ngộ thì phải « nhập thế »
chứ không « xuất thế », phải hòa mình vào thế tục, Ông nói : « Đi
đến xứ cởi trần / vui vẻ mà bỏ áo / Không phải là quên lễ / Tuỳ thói tục mà
thôi ».
Khi vua Trần
Nhân Tông( được sử sách gọi là Phật Hoàng), là cháu và
cũng là học trò của ông, người sau này sẽ sáng lập Thiền
Phái Trúc Lâm nổi tiếng của nước ta, hỏi về tôn chỉ Thiền. Ông đáp : « Hãy
quay về tự thân mà tìm lấy tôn chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác. »
Một hôm, Hoàng
Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn
mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn.
Hoàng thái hậu hỏi : “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?”
Ông cười đáp : “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật
cũng không cần thành anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn
Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”
Lời bàn
Biết giới luật
nhưng không sống khư khư, cố chấp theo luật, quan điểm của Tuệ Trung mong thức
tỉnh người học đạo chứ không đả phá giới luật ; Xuất phát từ tư tưởng : Phật không ở ngoài
ta, Phật ở trong ta, tâm là Phật , « Phật pháp ở tại thế gian, lìa thế
gian mà cầu đạo, thì chẳng khác nào tìm sừng thỏ lông rùa - cái không bao giờ
có »(Huệ Năng). Chính vì vậy phải nhập thế, hoà đồng để sống và giúp người
khác sống đạo. Với Quan niệm giác ngộ không chỉ cho mình mà cho mọi người , ông đã góp phần làm cho Phật giáo Việt Nam có sắc thái riêng
so với Phật giáo Trung Quốc, . Ông là một nhà thiền học đạo đức, chân tình, đã đem tư tưởng của mình góp phần tạo nên tư
tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, nâng cao văn hoá và lòng tự hào của dân tộc Việt.
Quan niệm sống của ông là :
Đạo là nếp sống tùy
duyên
Đói ăn mệt nghỉ an nhiên tâm hồn
Ân Linh