Với danh nghĩa « phù Lê diệt Trịnh », Nguyễn Huệ cùng đoàn quân Tây
Sơn tiến quân ra Bắc (1786). Trong cuộc chiến, đoàn quân Tây Sơn đã làm hư hại
một số bia tiến sĩ trong Văn Miếu Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long. Năm
1789, Nguyễn Huệ đã lên ngôi, tức vua Quang Trung, đã ba năm rồi mà cảnh đổ nát
của khu văn hiến này vẫn chưa được sửa sang. Những người dân làng Văn Chương thật
đau lòng, đành nhờ Tam Nông Tiên Sinh Hà năng Ngôn, một nho sĩ ẩn dật, làm đơn
kiện. Ông đã nhận lời.
Đi kiện một đoàn quân thắng trận, lại kiện họ với vị chủ soái uy dũng,
thật dễ mang vạ vào thân. Nhưng với sự khôn khéo và can đảm, Tam Nông Tiên Sinh
đã viết 1 sớ tâu bằng chữ Nôm, loại chữ được vua Quang Trung yêu thích. Bài thơ
mở đầu bằng cảnh dân làng Văn Chương băn khoăn mở lòng, gợi lại lịch sử huy
hoàng của Văn Miếu cùng các bia đá trong quá khứ, mượn dư luận để đổ lỗi cho
Chúa Trịnh Khải hoặc lỗi của chính« lính nhà ngài », rồi khôn khéo xin xí
xoá khỏi truy tìm « thủ phạm » mà chỉ mong dựng lại văn bia, trùng tu
Văn Miếu :
Chỉ xin được ngài
trông vì nước
Dựng lại bia cùng
nhà bia cho được y nguyên
Trước là giáo dục
kẻ hèn
Sau là văn mạch rồi
truyền dài lâu…
Khi đọc tờ sớ
« kiện » này, vua Quang Trung thấy ngay thâm ý của nhà nho khi đề đạt nguyện
vọng chính đáng của dân làng.Vua thẳng thắn phê ngay vào sớ cũng bằng thơ Nôm :
Thôi, thôi, thôi,
việc đã rồi
Trăm nghìn hãy cứ
trách bồi vào ta
Nay mai dọn lại
nước nhà
Bia nghè dựng lại
trên toà muôn gian.
Người còn hóm hỉnh
phê thêm để « chỉnh » nhà nho lắt léo không chịu gọi mình là vua hay
hoàng thượng mà lập lờ dùng chữ « ngài « thay thế :
Ta không trách nông
phu
Ta chỉ gớm thầy
nho
Cả gan, to mật dám kêu vua bằng ngài
Thầy nho là ai ?
Sắc cho bộ hỏi, dân
khai !
Rồi vua cho dựng
lại những bia tiến sĩ bị hư hại, sửa sang Văn Miếu , còn
ra lệnh tìm Tam Nông Tiên Sinh để tưởng thưởng ông cùng với dân làng Văn Chương
đã nặng lòng với văn hoá nước nhà.
Lời bàn
Trong chiến tranh không tránh được những đổ nát, điêu
tàn. Nhưng vua Quang Trung đã không đổ lỗi cho hoàn cảnh, thời cuộc, hoặc sự vô
ý của người dưới quyền, cũng chẳng hù doạ trù dập người tìm lẽ công bằng, thao
thức vì văn hoá dân tộc mà đụng chạm tới mình. Nhà vua mong “trăm nghìn hãy cứ
trách bồi vào ta”, đây là trí và dũng của người lãnh đạo khoan dung, độ lượng. Những
bia đá được sửa sang còn đứng đó như làm chứng cho những tinh hoa dân tộc qua
các thời đại, làm chứng cho tấm lòng phục thiện của vị vua tài đức. Thật mừng hơn
nữa : những điều đó còn được tạc sâu nơi lòng người, chỗ bền vững hơn cả sử
sách và đá tảng vô tri .
Ân Linh