TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI
Sống trong một xã hội tiến
bộ, ai cũng cảm thấy thoải mái. Nhưng cuộc sống đó không phải tự nhiên mà có. Trái lại, đó là một thành
quả phi thường của những trách nhiệm liên đới. Đúng hơn, phải nói qua bao
đời, xã hội được xây trên nền tảng trách nhiệm liên đới giữa những cá nhân khác
nhau. Bởi vậy,
muốn xây dựng lại cộng đoàn, trước tiên phải nghĩ ngay tới tinh thần trách
nhiệm liên đới. Nhìn vào đó, chúng ta có thể thấy ngay trình độ cộng đoàn. Cũng từ đó, ta tìm được
điểm khởi hành cho mọi hoạch định cho cộng đoàn trong tương lai.
TRÁCH
NHIỆM LIÊN ĐỚI LÀ GÌ ?
Để đạt một mục đích chung, người ta không thể sinh hoạt riêng rẽ. Nhưng để có thể sinh hoạt chung,
con người phải phấn đấu với chính mình.
Nghĩa là, từ trong ý thức, con người luôn phải nỗ lực nghĩ tới người
khác. Tha nhân trở
thành một yếu tố thiết yếu và xứng đáng góp phần hoàn thành trách nhiệm với
chúng ta. Nhưng
muốn được thế, chúng ta cần có một điểm chung để quy tụ muôn người. Bởi vậy, liên đới mô tả “một khẳng định chắc chắn và kiên trì
gắn liền với công ích; nghĩa là cho ích lợi của tất cả và từng người, vì tất cả
chúng ta đều thực sự chịu trách nhiệm đối với tất cả mọi người.” (Gioan Phaolô
II, Sollicitudo rei socialis, số 38)
Làm sao có thể đạt tới
tình trạng kiên định với công ích như thế ? Dĩ nhiên, mỗi người có quan
điểm khác nhau về công ích. Thế nhưng, thực tế vẫn là
thực tế. Cần
phải có sự đồng thuận về công ích.
Không thể đứng trước những đau khổ của dân nghèo đói và bị đàn áp mà nói
công ích chỉ nhắm tới quyền lực của một đảng phái hay quyền lợi của đế
quốc. Công ích phải là
một thực tại khách quan, phù hợp với mọi người trong mọi hoàn cảnh. Trong thông điệp Mater et
Magistra, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ngầm định nghĩa công ích là tổng hợp
tất cả các điều kiện sống về phương diện xã hội. Nhờ đó, con người có khả năng sẵn sàng và
hoàn toàn thể hiện sự toàn hảo của mình (x. số 65). Như vậy, công ích nhằm phục
vụ con người. “Con người vừa là
nền tảng, nguyên nhân và cứu cánh của mọi cơ chế xã hội.” (số
219) Bất cứ cộng đoàn hay cơ chế xã hội
nào khai thác con người như một phương tiện và chà đạp con người đều không nhằm
công ích. Trên trần
gian, mọi sự phải là phương tiện phục vụ con người.
Nếu không ý thức được
địa vị tối cao của mình trong vũ trụ, con người dễ đánh mất chính mình. Nhưng để có thể thực hiện được mục tiêu lớn lao đó, con người không thể không sống liên đới với
nhau. Thái độ bất cần
đến người khác sẽ làm cho xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Chính vì liên đới với nhau,
con người mới phát triển như ngày nay.
Hoàn cảnh xã hội ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Nhờ “những tiến bộ về khoa
học và kỹ thuật, hiệu năng sản xuất lớn hơn và tiêu chuẩn sống cao hơn,” (số
59) con người càng cần liên đới trách nhiệm mới có thể gìn giữ và phát huy
những giá trị cần thiết cho cuộc sống xã hội.
Muốn duy trì xã hội
trong trật tự và hòa bình, con người phải ý thức và thực hành liên đới trách
nhiệm mới “đạt tới thiện ích công bình xã hội.” ( số
20) Nhiều người tưởng
chỉ có mình mới có thể làm ích cho cộng đoàn. Nhất là khi ở vai trò lãnh
đạo, họ tự biến mình thành nhân vật bất khả thay thế. Họ dễ trở thành những anh hùng cô đơn. Nhiều thuộc cấp chẳng quan tâm tới ích chung vì tưởng trách nhiệm thuộc cấp trên. Họ quay cuồng với những bận
tâm riêng. Đó
là nguyên nhân làm tổn thương sức sống xã hội và giáo hội.
Con đường cứu thoát dân
tộc và xã hội Việt
Ngay trong công việc cá
nhân thường ngày cũng có thể tìm thấy chiều kích liên đới. Thật vậy, “nhờ công việc
làm ăn, con người tự cam kết làm việc không chỉ cho riêng mình, nhưng cho tha
nhân và với tha nhân nữa. Mỗi người cộng tác với người khác và mưu ích cho họ. Người ta làm việc để nuôi
sống gia đình, cung cấp phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu cộng đồng, quốc
gia, và cuối cùng cho toàn thể nhân loại. Hơn nữa, con người cộng tác
với đồng nghiệp cũng như với những nhà buôn và khách hàng để ngày càng phát
triển sợi giây liên đới.” (ĐGH Gioan Phaolô II :
Centesimus annus, số 43, xc Laborem exercens, số 8) Liên đới có mặt trong mọi
lãnh vực, nhất là trong cộng đoàn đức tin. Không liên đới, không thể thi hành mệnh lệnh
truyền giáo của Chúa và không thể chu toàn bổn phận
Kitô hữu giữa dòng đời hôm nay.
Giữa trần gian tăm tối,
làm sao có thể thấy rõ được sợi giây liên đới đó ? Có tự nhận mình tăm tối, chúng ta mới thấy
cần đến ánh sáng là Đức Kitô. Người chính là sợi giây nối kết chúng ta. Không có Người, chúng ta không thể đạt tới “công ích lớn lao
nhất là sự hiệp thông giữa con người.” (New Catholic Encyclopedia, 2nd Ed. tr.
302) Ngược lại, không
có sự hiệp thông đó, cộng đoàn sẽ phải hứng chịu sự thiệt hại khôn lường. Hậu quả khôn lường đã được
phơi bày qua thống kê về Giáo hội Việt
Khác với Giáo hội Đại
hàn, Giáo hội Việt
Đội ngũ truyền giáo
hùng hậu gồm linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên (75.353 người trong tổng
số 5.776.972 tín hữu) đã làm gì để lôi kéo mọi người theo Đức Kitô ? “Trung bình mỗi người ưu tuyển đó chưa cuốn
hút được 2 người theo đạo một năm.” (Lm Antôn Nguyễn
Ngọc Sơn : VietCatholic
Chỉ trong vòng nửa thế
kỷCàng phân tích càng thấy vấn đề liên đới trách nhiệm quá lớn. Một chiều sâu thăm thẳm tận trong nếp sống văn hóa,
giáo dục và xã hội, chứ không thuần túy chỉ là vấn đề đạo đức. Đạo đức không thể thay thế
tất cả. Cần thực tế hơn mới có
thể giải quyết
vấn đề.
TINH THẦN
CỘNG ĐOÀN VIỆT
Tinh thần Công giáo
Việt
Thế nhưng, càng nhìn
sâu vào những sinh hoạt truyền giáo, càng thấy chúng ta dừng chân tại chỗ, nếu
chưa nói tuột dốc ?
Từ trong nước đến hải ngoại, các cộng đoàn Công Giáo
Việt nam đều có nét tương tự. Những nỗ lực hầu hết còn đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ và
còn giới hạn trong câu kinh, nghi lễ.
Ngay trong bốn bức tường nhà thờ, chúng ta cũng chưa
ổn định. Cả
trong nghi lễ, chúng ta vẫn còn lơ mơ.
Giáo dân đổ lỗi cho linh mục. Linh mục quy trách cho giáo
dân. Thực tế,
không ai có thể đứng ngoài nhìn vào cộng đoàn để quy trách cho người khác.
Về phía giáo dân, trách
nhiệm đó không nhỏ. Những
người ý thức hơn đã gia nhập hội đoàn để góp phần xây dựng Giáo hội. Nhưng ngay trong nội bộ hội
đoàn cũng có những vấn đề. Chẳng
hạn, hội đoàn hiện diện và sinh hoạt theo thói quen,
thiếu sự phối trí chặt chẽ, liên đới và chia sẻ trách nhiệm để hoàn thành sứ
mệnh truyền giáo của Giáo hội giữa trần gian.
Nhiều hội đoàn hội họp chỉ để nghe báo cáo và kinh kệ
dài dòng. Thiếu sáng kiến. Kế hoạch hành động không theo
sát những trăn trở của Giáo hội. Đó là chưa kể đến những mâu thuẫn giữa các hội đoàn và những tiêu
cực nhiều mặt. Điều
này có thể kiểm chứng qua những kết quả truyền giáo. Từ trong nước đến các hải
ngoại, đa số tân tòng đều qua con đường hôn phối. Nếu các hội đoàn đoàn
kết và được huấn luyện chu đáo hơn, chắc chắn đã làm
chứng cho Chúa mãnh liệt hơn và sẽ thấy kết quả lời chứng đó qua con số tân
tòng. Dĩ nhiên, Phúc âm hóa không đo
bằng kết quả số người nhập đạo. Nhưng cũng không thể lấy ý tưởng mơ hồ biện minh cho sự yếu kém
trong nỗ lực truyền giáo hôm nay.
Để đẩy mạnh công cuộc
truyền giáo, không thể không đề cập việc đóng góp của giáo dân. Nhiều người dị ứng đối với
tiền bạc. Thực tế, kinh nghiệm
chua cay có lẽ làm cho họ tưởng “tiền” bao giờ cũng ghép chung với
“tệ” và “bạc.” Nhưng,
tiền bạc thực sự cũng là mồ hôi, nước mắt. Biết bao công trình tốt đẹp
đã được xây nên nhờ tiền bạc.
Công cuộc truyền giáo và bác ái của Giáo hội sẽ ra sao, nếu không có sự
đóng góp tiền bạc của giáo dân ? Thực tế, giáo dân
Việt
Không ai có thể đếm
được hết các nhà thờ đồ sộ ở Việt
Thế nhưng, việc đóng
góp bình thường trong các thánh lễ thì sao ? Từ Việt
Cùng một số lượng giáo
dân, giáo xứ Mỹ sẽ thu nhập hằng tuần khác hẳn. Nếu giáo xứ Mỹ có chừng năm ngàn giáo dân,
trung bình số thu nhập phải trên hai chục ngàn
(20.000) Mỹ kim. Cứ
nhìn vào giáo xứ Mỹ, chúng ta sẽ thấy họ có rất nhiều dịch vụ. Dịch vụ nào cũng phải trả
tiền. Mỗi giáo xứ phải có vài thư ký. Nếu không thu
nhập được số tiền lớn như thế, làm sao họ có thể trang trải được
? Trong khi đó, một giáo xứ Việt
Có người nói, mặc dầu
đóng góp hằng tuần không cao, nhưng mỗi lần kêu gọi xây nhà thờ hay giúp người
nghèo, giáo dân Việt
Chẳng cần phải giàu như người Mỹ, chúng
ta vẫn có thể phát triển gấp mười lần bây giờ, nếu chúng ta lắng nghe lời Chúa
và noi gương quảng đại của người Mỹ.
Trong Tin Mừng, Chúa không lưu ý tới số tiền dâng
cúng, nhưng chỉ để ý đến tấm lòng hi sinh cao độ của bà góa. Tuy thế, Chúa không hoàn
toàn bỏ qua tỷ lệ tiền dâng cúng so với tiền bạc hiện có. Quả vậy, Chúa nói về bà góa
: “… còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả
những gì bà có để sống.” (Lc 21:4) Nghĩa là, bà đã dâng cúng một trăm phần trăm gia tài của bà. Chúa không đòi chúng ta
phải hi sinh đến độ như thế. Giáo
hội Công giáo cũng không bao giờ bắt giáo dân phải mười phần trăm lợi tức hằng
năm. Nhưng chính lúc tự do như thế,
người giáo dân mới có thể thấy rõ sự thật về mình như thế nào trong việc xây
dựng Nước Chúa ở trần gian.
Hơn nữa, có người đưa
ra lý do : vì Việt
Một lý do khác cũng có
thể soi sáng vấn đề. Xuất
thân từ một xứ truyền giáo người Việt nam không có thói quen đóng góp cao, vì
Tòa Thánh đã trang trải những phí tổn cho tòa giám mục và chủng viện. Thực ra, ngay cả các linh
mục chưa chắc biết rõ như vậy. Hơn nữa, phần lớn những đóng góp của giáo dân dành cho việc xây
dựng và phát triển giáo xứ, nghĩa là cho chính giáo dân.
Đã đến lúc phải tìm
nguyên nhân sâu xa của việc đóng góp trong chiều kích tinh thần trách nhiệm
liên đới, mới có thể thấu hiểu vấn đề. Nhưng ngay cả khi đã tìm thấy được nguyên nhân rồi, chúng ta cũng
không hi vọng có thể giải quyết vấn đề một sớm một chiều. Vấn đề nằm sâu trong lãnh
vực đức tin và văn hóa. Cần phải
đợi một thời gian rất dài … phải mất nhiều thế hệ …
ĐỨC TIN VÀ THỰC TẾ
Đức tin có một chiều
kích rất thực tiễn. Càng tin bao nhiêu,
càng hi sinh bấy nhiêu. Chỉ có đức tin
mới là động lực mạnh nhất khiến chúng ta có thể “yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn, và hết trí khôn” (Mt
Chính đức tin khiến
chúng ta thấy ngay mối liên hệ giữa Thiên Chúa và người thân cận. Nhờ đó, chúng ta có thể dấn
thân phục vụ để thể hiện tình “yêu người thân cận như chính mình.” (Mt
22:39) Đức tin còn đi xa hơn nữa khi
thúc đẩy chúng ta “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con.” (Ga
15:12) Đó là một sự đóng góp lớn lao và sâu xa nhất Chúa dành cho chúng ta. Đến lượt mình, chúng ta có dám chết vì người
anh em không ? Chết là một hình thức phục vụ cao đẹp nhất. Ngược lại, phục vụ cũng là
một cách chết cho anh em.
Nhưng chúng ta đã phục
vụ tới mức nào và như thế nào ? Giáo hội Công giáo không bao giờ bắt buộc
giáo dân đóng góp mười phần trăm lợi tức hằng năm như một số giáo hội. Trong Sáu Điều Răn Hội
thánh xưa cũng không hề đề cập tới những vấn đề đóng góp. Ngay cả trong Sáu Điều Răn Hội thánh mới được
viết lại, cũng chỉ kêu gọi giáo dân “góp phần hỗ trợ các mục tử,” nhưng không
ấn định mức hỗ trợ bao nhiêu và như thế nào.
Tuy nhiên, khi không ấn
định như thế, Giáo hội tỏ ra tôn trọng tự do của giáo dân. Chính trong tự do, người ta mới có thể thấy
sự thành thực của lòng người và mức độ hi sinh tự đức tin. Tất cả giá trị lớn lao đều phát xuất từ đó. Đóng góp tài chánh là một
trong những hình thức hi sinh.
Tiền bạc là giá trị tạo lập từ mồ hôi, nước mắt, thời giờ,ø sức lực, khả năng … của con người. Đó là một giá trị nhân bản.
Thế nhưng, vấn đề đóng
góp tài chánh không phải là vấn đề riêng của Giáo hội Việt
Nếu đóng góp “tà tà”
theo kiểu Việt
Vấn đề trở nên khẩn
trương đối với Giáo hội Việt nam. Tại sao ? Vì Giáo hội
không đủ khả năng tài chánh để thực hiện những kế hoạch truyền giáo lớn lao cho đồng bào và cho những dân tộc láng giềng. Làm sao có thể thi hành mệnh lệnh rao giảng
Tin Mừng cho muôn dân, nếu dân Chúa không chia sẻ trách nhiệm liên đới trong nỗ
lực truyền giáo hôm nay ? Chính vì thiếu con mắt đức
tin, nhiều người không nhận ra trách nhiệm liên đới, một yếu tố cực kỳ quan
trọng và cần thiết cho sự sống còn và phát triển của Nước Chúa ở trần gian.
Vân Lực