TRỞ NÊN CHÍNH MÌNH[1]

“Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá,

vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43, 4)

 

 

Con người là tuyệt tác của Thiên Chúa, là tạo vật được Ngài ưu ái, chăm sóc, và yêu thương vô cùng. Dưới mắt Chúa, mỗi người chúng ta thật quí giá, thật độc đáo, là tác phẩm độc nhất, không ai có thể thay ai được. Ý thức như vậy, ta càng phải trở nên chính mình hơn để hoàn mỹ hóa công trình của Chúa.

Trở nên chính mình là khao khát của những ai muốn sống đích thực và trọn vẹn. Nó không đơn thuần là đời sống tiếp nhận từ Đấng Tạo Thành, nhưng còn hơn nữa là được triển nở và lớn lên trong Thần Khí. Trở nên chính mình bao hàm tính chất cụ thể, rất riêng tư : là nhân cách, là cái vốn sống độc đáo của từng người trong tiến trình thành nhân. Tuy nhiên, phát triển nhân cách hay làm triển nở cái vốn sống độc đáo của mình quả thật không đơn giản, vì đó là cả một nghệ thuật sống, kinh qua từ việc khám phá và chấp nhận chính mình đến việc đảm nhận và sáng tạo đời mình. Nhờ đó, ta mới có khả năng hưởng nếm niềm an lạc sâu xa, là trở nên chính mình trong chương trình tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

1. Chấp nhận chính mình

Ít nhiều ai cũng cảm nhận sự chênh lệch giữa “cái ta là”“cái ta muốn là”. Để có thể chấp nhận chính mình - con người thật của mình - thì trước tiên ta phải có thái độ bình tâm, và hướng tầm nhìn nhất quán vào nhân vị của chính mình là “thần trí, linh hồn và thân xác” (1 Tx 5, 23). Theo thánh Phaolô, con người trọn vẹn không chỉ là linh hồnthân xác, mà còn là thần trí, để hướng tới Thần trí của Thiên Chúa: “Thần trí Chúa thấm nhuần lòng ta và được biểu tỏ bằng tình yêu” (Rm 5, 5).

Đối với người Kitô hữu, mối nhất quán nhân vị đó được triển nở trong ân sủng để ta có thể hiện hữu trong Thiên Chúa. Chấp nhận chính mình là tiếp nhận mạc khải huyền diệu đó, hầu đem lại cho sự hiện hữu của nhân sinh một chiều kích huyền nhiệm: là tin rằng định mệnh của ta trong cuộc sống này không phải là hệ lụy của một sự ngẫu nhiên hay tình cờ, nhưng là sự tương ứng nội tại với một nhãn giới thần linh, dù rằng cách xa nhưng không cách biệt. Và việc hòa nhập với tâm tình của Thiên Chúa không còn là một cách trở, nhưng là một cách thái; cũng không phải là một định thức nhưng là một định tâm.

Dù tin hay không, thì cuộc sống mỗi người tự bản chất vẫn là một ơn gọi rất linh thiêng và cao cả, để thực hiện một dự phóng cao siêu cho cuộc đời mình. Lộ trình ơn gọi cho dự phóng này phải dựa trên những dấu chỉ mà ta phải tìm tòi phân định. Bởi lẽ dòng sông đời ta luôn chảy qua những mê lộ vừa phong phú vừa mơ hồ, có khi rõ ràng, có khi ẩn tàng, có lúc đơn giản, có lúc quả là phức tạp. Vì tự bản thân, mỗi người đã có những yếu tố di truyền khác biệt: mức độ sức khỏe thể chất và tinh thần, cấu trúc tâm sinh lý, khả năng nhận thức, đời sống tâm linh, mẫu tính tình... Mặt khác, cũng có thể là những yếu tố nào đó trong chính truyền thống văn hóa, môi trường giáo dục và bối cảnh xã hội đã tạo nên trong ta một ý thức hệ, hoặc một cái nhìn cứng đọng nào đó có thể đưa ta đến thái độ bất dung với chính mình.

Người ta kể chuyện nữ công tước Castiglione, gia sư của Napoléon đệ tam, luôn đội khăn khi đã cao niên để che giấu các vết nhăn trên khuôn mặt, bà không chịu nổi khi thấy nhan sắc bị phai tàn. Chấp nhận xuống cấp trong mọi tình trạng thể chất cũng như khả năng tinh thần quả là điều nghiệt ngã. Đặt mình trong tâm trạng đó,  cha Teilhard de Chardin đã thốt lên lời kinh tuyệt vời:

“Khi trên thân xác con - và nhất là trong linh hồn con - bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của tuổi già, khi sự dữ đè nặng trên con hay nảy sinh trong con, vào giờ phút con đớn đau, cảm nghiệm sự yếu đuối, nhất là khoảnh khắc cuối cùng, thấy mình chẳng còn thuộc về mình, mà tuyệt đối lệ thuộc vào bàn tay mạnh mẽ vô hình, vốn đã dựng nên con, thì lạy Chúa, vào những lúc tối tăm đó, xin cho con hiểu rằng, chính Chúa đã xót xa gỡ bỏ những vướng mắc khỏi hữu thể con, để Ngài đi vào tận não tủy của hồn con và đưa con về bên Chúa”.

Chấp nhận không có nghĩa là cam phận, mà là bình tâm đón nhận những gì mình đã được trao ban, đồng thời cảm nghiệm về một sự sống mới luôn phát sinh và triển nở trong ta, bởi lẽ Thiên Chúa không ngừng sáng tạo trên những gì Ngài đã tạo thành.

Vì thế, muốn hay không, con người vẫn nằm trong tiến trình mở rộng và vươn lên theo định hướng của Thiên Chúa. Tiến trình này đòi hỏi sự cởi bỏ những ngộ nhận về thành quả công việc, khi khả năng đến lúc suy yếu dần, để có thể chấp nhận hiện trạng bản thân mình. Điều này thường gây nhức nhối và cay đắng, thậm chí phản kháng dưới nhiều hình thức. Do đó, ta cần ý thức rằng, tiến trình vươn lên có những cột mốc phải vượt qua, và phải được nhìn bằng con mắt đức tin, để nhận ra ý nghĩa từng chặng đường đời mình. Cuộc vượt qua sẽ càng gay cấn khi đích điểm càng gần.

Trong ý nghĩa đó, chấp nhận chính mình không cho phép ta giới hạn khả năng, không khép kín bản thân hay định kiến về mình. Cần triệt tiêu những kiểu lý sự : Tôi là vậy, không thể khác hơn. Tất nhiên, mỗi người một tính khí, không thể thay đổi hoàn toàn, nhưng hoàn toàn có thể xóa mờ những vết đen, bào mòn những thô nhám, cắt tỉa những lởm chởm và gai góc nơi cá tính mình. Bản năng vẫn còn đó, cá tính không thể triệt tiêu, nhưng nếu biết thay đổi thái độ sống hay chỉ cần hoán chuyển mục đích, thì vấn đề cũng đã khác đi rồi.

Chúng ta có lý trí để tìm hiểu và ý chí để quyết định. Nhưng biết là một chuyện, thực hiện lại là một chuyện khác. Phân tâm học cung cấp những hiểu biết về thần kinh, những ám ảnh, những uẩn ức, những mặc cảm... nhưng không vì thế mà ta có ý chí thực hiện được. Biết bao người cứ ngồi gặm nhấm một quá khứ đã được phân tâm học hóa giải; biết bao người không ngừng than vãn, trách móc, nuối tiếc vì mình đã không sống như phải sống; biết bao người đã tự khinh miệt, tự phủ nhận, tự làm khổ mình, và gây nên oan trái cho đời mình... Tất cả chỉ vì không nhận ra được chiều kích sâu thẳm của đời mình, không nhận biết chính Đấng đang ngự trong mình. Quả thật: “Không ai tự khinh bỉ mình mà lại không khinh bỉ Thiên Chúa”. (Bernanos).

Chấp nhận chính mình giả thiết ta phải hòa giải với mình tận thâm tâm. Từ sự giải hòa bên trong, mà bí tích Hòa giải trở nên kiến hiệu, phát sinh ân sủng, bình an, sáng suốt, để làm nên một tâm thái mới. Trọng tâm cần tập trung xoáy vào vẫn là: quay về với bầu khí tĩnh lặng, trong suy tư, cầu nguyện. Chìm sâu trong cầu nguyện sẽ giúp ta trở nên thanh thoát, nhẹ nhàng và khiêm tốn chấp nhận chính mình.

Đôi khi phải mất nhiều năm để tâm hồn lắng đọng, để nhìn rõ các góc cạnh vấn đề, để chấp nhận bản thân mình quá ích kỷ, để có thể tha thứ. Cần có thời gian để tiêu hóa một thất bại, buồn tủi, để phấn khởi trong bộ mặt mới. Chấp nhận mình cũng cần thường xuyên khởi đầu lại, bắt đầu rồi lại bắt đầu, để tiến lên, để đồng hành với những thay đổi vốn luôn có nơi những người xung quanh.       

       Chấp nhận chính mình nghĩa là ta đang sống Đức Tin. Tôi chấp nhận tôi như tôi , vì tôi tin vào Thiên Chúa, Đấng tín nhiệm tôi. Tôi nhìn tôi qua lăng kính yêu thương Chúa dành cho tôi. Tin vào Chúa khiến tôi tin vào mình, vì Ngài ban cho tôi đức tin để sống cuộc đời mình. Chấp nhận chính mình như thế là đang tự mở cho mình con đường đi lên. Đường đi lên không phải là đường thẳng tắp, nhưng gập ghềnh, khúc khuỷu, nhiều cản trở và nguy hiểm, nên cần đến giai đoạn hai là đảm nhận chính mình.

2. Đảm nhận chính mình

Đã chấp nhận chính mình thì không nên so sánh với, hay đòi hỏi giống bất cứ ai. So sánh làm ta xa rời chính mình; đòi hỏi làm ta xa lạc bản thân. Mỗi người được dựng nên cho chính mình, nên không thể hòa lẫn hay nhập nhằng với tính cách của người khác, dù có những tương quan, tương ứng, tương đồng để tương trợ lẫn nhau, nhưng không vì thế mà cào bằng mọi khả năng và tình huống cuộc đời. Có những điều tương khắc nhưng lại tương sinh; tương phản nhưng lại tương tựu. Chính vì thế mà cuộc sống trở nên đa dạng, làm phong phú cho những ai biết khôn ngoan vận dụng mọi khả năng, biết tinh chế tình thế để luôn làm mới mẻ cho cuộc đời mình.

Cứ sự thường, khi dự định không diễn tiến như mình mong muốn, và mọi việc không may mắn như mình mong chờ, nhất là khi gặp thất bại, đổ vỡ, thì người ta hay đổ lỗi cho số phận, hoàn cảnh, tha nhân... hoặc cho mình kém may mắn. Nhưng thực tế nhiều tình huống gây hại cho bản thân lại do chính mình gây ra, hay ít nữa mình cũng dự phần vào đó, do phản ứng tiêu cực, do tính cách thụ động hay thái độ buông xuôi của mình. Như vậy, phải đổ lỗi cho ai? Trách nhiệm thuộc về ai? “Không phải tại anh cũng không phải tại em, tại Trời xui khiến...”

Người trưởng thành là người biết đảm nhận chính mình, là người có trách nhiệm về toàn thể cuộc đời mình, về tất cả những gì xảy đến cho mình, mà không gán ghép, không chụp mũ lên người khác hay ngoại vật. Cần nhìn lại quá khứ, đọc lại đời mình, kết nối các sự kiện, để nhận ra sợi chỉ xuyên suốt như những mắt xích tạo nên hệ lụy trước mắt, để rút kinh nghiệm và bài học cho bản thân, để tự tin đảm nhận chính mình. Đảm nhận là biết gánh vác đời mình, tiến bước và mở rộng dây liên kết với mọi người, chứ không như một người hùng đơn độc.

Trong tiếng Anh, Đảm nhận = Assume, gần giống Assumption = lên trời, (Đức Mẹ lên trời), như mời gọi vươn lên khỏi đất. Đảm nhận mình là một bước tiến xa hơn chấp nhận mình, đưa ta đến tầm mức:

       - Biết tận dụng mọi cái tốt, xấu của mình cách sáng tạo.

       -           Biết vận dụng mọi khả năng, hoàn cảnh và biến cố như một ân ban để sống vững vàng

       - Biết thoát ra khỏi những trói buộc đang đè nặng trên phần đất tự do của mình, để thích ứng với thực tại cách sinh động.

Chỉ khi biết đảm nhận đời mình cách đúng đắn, người ta mới thực sự bước vào giai đoạn trưởng thành, để làm nên một nhân vị và nhân cách đúng nghĩa. Chúa đã trao phó chính ta cho ta, khi tạo dựng nên ta, và trao phó chính Ngài cho ta khi cứu chuộc ta. Đó là điều mà ít khi ta chiêm nghiệm để biết đảm nhận đời mình với tất cả tình yêu và sức mạnh đã được trao ban. Vì thế, không thể coi mình là dụng cụ bung xung giữa dòng đời nghiêng ngửa.

Xác tín như thế, nhưng ta cũng thấy thánh Têrêsa Hài Đồng thích tự ví mình như một trái banh trong bàn tay Thiên Chúa, mặc tình cho Ngài sử dụng. Ngày nay, hình ảnh này dễ hướng ta đến chỗ giản lược con người thành một thứ phương tiện, để chỉ còn lại ân sủng của Thiên Chúa, đánh mất tính tự do sáng tạo mà Ngài đã phú ban cho con người (x. St 1, 28). Hình ảnh về một Thiên Chúa như vậy cũng dễ làm người ta vấp phạm, mà thực tế, chủ thuyết Nhân bản đã từng đả phá.

Thật ra, thánh Têrêsa chỉ muốn nhấn mạnh tinh thần phó thác cho Thiên Chúa và sống tinh thần trẻ thơ trong vòng tay yêu thương của Ngài. Đừng quên rằng Thiên Chúa luôn là Đấng kêu gọi và tạo điều kiện hết mức trong chương trình quan phòng của Ngài, để ta biết chủ động đảm nhiệm lấy chính mình (x. Ga 15,1-2).

Ân sủng không phá hủy tự nhiên. Con người phải cộng tác với ơn Chúa để làm nên điều tốt đẹp. Không thể nghĩ rằng, chỉ có Chúa mới làm nên, còn ta thì vô tích sự, có làm cũng chẳng tới đâu. Nói thế là không chân thực. Tại sao lại phải khiêm tốn cách không chân thực? Khi ta làm được điều gì tốt, thì đó là công của Chúa; còn khi làm điều xấu, đó là lỗi của ta. Phải chăng ta chỉ là con rối làm điều lành, và chỉ là kẻ tội đồ làm điều ác? Quan niệm như vậy có đúng với ý Chúa không? Thế thì trách nhiệm cá nhân và quyền làm chủ mà Chúa ban cho ta chỉ là trò đùa? Chỉ khi thực sự đảm nhiệm chính mình, ta mới hiểu được chương trình quan phòng kỳ diệu của Chúa trong đời mình.

       Đảm nhận chính mình là ta đang sống Đức Cậy. Tôi có thể đảm nhận chính mình vì tôi trông cậy vào Thiên Chúa, Đấng luôn trông chờ tôi hoàn thành tốt cuộc đời mình. Nhờ vậy tôi vượt qua những rào cản để trực diện với một tương lai khả hữu[2]. Đó là sự sống vĩnh cửu mà Chúa hứa cho những ai đang hết lòng trông cậy. Không phải một đức cậy dễ dãi, mà là một đức cậy dám đảm nhận mọi thử thách, “vì biết rằng thử thách đem lại lòng kiên nhẫn và kiên nhẫn đưa tới trông cậy” (Rm 5, 4). Sự cậy trông đó không làm ta thất vọng, bởi vì Thiên Chúa là nền tảng của hy vọng, chứ không phải bất cứ thần linh nào. Đó là Đấng có diện mạo con người và là Đấng yêu thương chúng ta đến cùng. Chính tình yêu Ngài ban cho chúng ta khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt tình của niềm hy vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất. Đồng thời tình yêu của Ngài bảo đảm cho sự hiện hữu của sự sống “đích thực” mà ta vẫn trông đợi,[3] để từ đó ta mới phấn khởi và say mê sáng tạo đời mình.

3. Sáng tạo đời mình

Sáng tạo đời mình không có nghĩa là tạo một hoàn cảnh sống hoàn toàn khác biệt với hiện tại đã được hình thành theo ơn gọi và trách nhiệm của mình; cũng không nhất thiết phải dẹp bỏ tất cả để làm nên toàn bộ cái mới. Những gì chỉ là bên ngoài không làm thay đổi tình trạng bên trong, điều chủ yếu là làm nên một tâm thái mới. Sáng tạo đời mình là sắp đặt căn phòng nội tâm cho thích hợp với mình hơn, nhằm tìm được một sự quân bình mới, một sự tự do đích thực giúp ta sống thích đáng hơn với chính mình, với Chúa và tha nhân. Điều này không có nghĩa là không có những đứt đoạn nào đó trên phạm vi tâm lý cũng như những sinh hoạt thể lý.

Thay đổi chương trình, giờ giấc, cách thức, hướng sống, mục tiêu, cũng là những đứt đoạn, để khám phá và sáng tạo lối sống mới phù hợp với phẩm tính, tư chất và ơn gọi hiện diện của mình. Cũng có những đứt đoạn sâu xa và đau đớn mang tính chủ quan hay khách quan như: chia tay, tang thương, ly biệt, vỡ mộng, hoặc phải xa rời một lối sống, một kiểu cách, một tâm trạng gây cản trở đời mình. Tất cả những xáo trộn đó phải được xem là cơ may giúp thay đổi tầm nhìn và cách nhìn, hầu khám phá một chân trời mới: chân trời của thanh tịnh và hồn nhiên.

Trong tâm thế đó, ta biết tương đối hóa mọi sự, giảm thiểu những toan tính đè nặng tâm tư, tự thoát khỏi một số bất tất[4], và thanh thoát mở rộng ngưỡng cửa tâm hồn. Đó là nét đẹp của con người biết sáng tạo đời mình.

Một cách tiệm tiến và thâm sâu trong việc sáng tạo đời mình chính là “hoán cải”. Hoán cải để quay về với những giá trị của Tin Mừng (x. Mc 1, 15). Đó không chỉ là sự mời gọi thân tình, nhưng còn là một lệnh truyền nghiêm trọng: “Nếu các ngươi không hoán cải... các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt như thế” (Lc 13, 3).

Hoán cải là con đường hẹp, vì “đường thênh thang thì đưa đến diệt vong” (Mt 7, 13). Sáng tạo đời mình nhất thiết phải diễn tiến trên con đường hẹp, hoán cải trong hy sinh và từ bỏ để hướng tới sự sống đích thực. Đó là đường hướng của Thiên Chúa và cũng là lộ trình của Đức Kitô. Không ai có thể sáng tạo đời mình theo kiểu cách khác hoặc đường hướng ngược lại mà có thể đạt tới cùng đích.

Có những trường hợp đặc biệt, nhờ ân sủng đã chốc lát làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của một số người. Còn bình thường, hoán cải là một vận hành lâu dài qua từng ngày. Hoán cải là một nỗ lực quay về với Chúa, nhưng cũng chính là hành động của Thánh Linh trong ta. Chính Ngài sẽ hoán cải ta thành con người mới trong Đức Kitô, Đấng mà chúng ta khao khát và yêu mến, như Ngài đã từng khao khát và yêu mến chúng ta (Ga 19, 28); Đấng mà chúng ta phải bước đi theo Ngài cho tới khi tính cách và Lời Ngài thấm nhập vào lối sống của ta (x. Gl 2, 20).

Trong tiến trình này, phải kiên nhẫn ngày từng ngày với chính mình; biết tin tưởng nơi mình như mình đã tin tưởng nơi Chúa; biết chờ đợi Chúa như Chúa đã chờ đợi mình. Cứ để cho mình uốn theo chiều gió của Thánh Linh dưới sự thôi thúc và tác động của Ngài. Cứ phải buông mình theo ân sủng để Ngài ban cho ta một quả tim mới. Trong ước vọng và ý hướng đó, sáng tạo đời mình là chấp nhận đồng hành với Đấng sẽ mở ra cho ta con đường chân phúc, như trên đường Emmau ngày xưa.

Càng biết lên đường ta càng rời xa lối sống nhạt nhẽo, tầm thường, lối sống hình thức, nặng tính chất qui ước của xã hội và của giáo điều. Từ đó ta mới có thể tự do đón lấy niềm vui và hạnh phúc của người đã được gặp Chúa. Gặp Chúa, trở nên giống Chúa hơn, mới thực là đích điểm trong từng chặng của việc sáng tạo đời mình. Để trong suốt hành trình, ta biết dẹp bỏ những ảo ảnh về một thứ hạnh phúc sở hữu hay chiếm hữu. 

Sáng tạo đời mình là tiến bước trong cảm thức về nét đặc thù của mình, không bị lôi kéo theo những ham muốn tầm thường của xung năng (compulsion). Để từ đó, ta biết tự khai mở bản thân mình bằng việc tận dụng mọi năng lực mà Thiên Chúa trao phó; tận dụng những điều tha nhân đem đến - dù tích cực hay tiêu cực, thuận lợi hay bất lợi. Trong ánh sáng của Lời Chúa, tất cả đều có thể được tinh luyện để sinh hoa kết quả theo ý Chúa (x. Ga 15, 8).

Sáng tạo đời mình là phải dám phiêu lưu vào những nguy cơ của cuộc sống: nguy cơ tự mất mình để tìm lại chính mình một cách trọn vẹn và tròn đầy, vì: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 25).

Thiếu sáng tạo, thiếu phiêu lưu mạo hiểm để mở rộng tình yêu Chúa trong ta, khiến ta dễ trở nên con cờ của bàn cờ thế cuộc, của cơ chế, của phẩm trật, của ngay cả một số hình thức đạo đức chỉ ru ngủ mình trong sự an phận, mà không còn tác dụng gây cảm ứng và biến đổi. Thiếu sáng tạo dễ làm ta bị vong thân, đánh mất chính mình ở một tư thế nhân vị không được mất. Cái tự mất mình vì Chúa theo tinh thần của Phúc Âm mới là điều chính đáng để ta tìm thấy sự sống mới.

       Sáng tạo đời mình là ta đang sống đức mến. Tình yêu chắp cánh để tôi sáng tạo điều Thiên Chúa đã sáng tạo nơi tôi. Tình yêu là động lực để tôi say mê sáng tạo tất cả những gì Chúa muốn làm nên cho tôi, cho anh em tôi. Trong sự sáng tạo, bao giờ cũng có những khám phá bất ngờ và đầy thú vị. Tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa luôn luôn mới trong mọi nơi, mọi lúc, mọi người, mọi sự, và trong chính bản thân tôi. Cuối cùng, sáng tạo đời tôi để đi tới chỗ tự yêu mến chính tôi. Đó là vấn nạn mà triết gia  Finkelkrant đặt ra:

      “Nếu tôi không yêu mến chính tôi thì ai làm việc đó?

       Nhưng nếu tôi chỉ yêu tôi thì tôi là người thế nào?”

Đề cập đến “yêu mến chính mình” phải chăng là điều nghịch lý, khó chấp nhận đối với những người có một bề dầy nội tâm, như muốn đối chọi với mọi hình thức qui về chính mình, nhất là ở thời đại mà người ta quá nghiêng chiều về việc tuyên dương cá nhân chủ nghĩa. Nó như đối lập với những thành kiến cố hữu về “Cái tôi thật đáng ghét” (Le moi est haissable – Pascal). “Cái tôi” bị ghét bỏ đến nỗi nhiều người chọn cách sống co cụm, bị thất đoạt, che giấu tình trạng không thể yêu mình, bằng sự nhiệt tình đối với người khác. Yêu mình bị coi là xấu xa, đó là thái độ bi quan và phản lại chính mình gắn liền với phái Jansénisme. Tư tưởng này đã chi phối không ít trong lối sống đạo cho tới ngày nay. 

Yêu mình không phải là qui mọi sự về mình, mà là bắt đầu từ chính mình. Yêu mến chính mình là điều mà Chúa Giêsu đã ban ra như một lệnh truyền: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn... và yêu mến anh em như chính mình." (Lc 10,27). Yêu mến chính mình như là khởi điểm của tình yêu để ta biết cách yêu thương tha nhân.

Từ chỗ đó, mặc khải của Chúa Giêsu hướng đến một tính cách siêu thoát, mà tâm điểm là chính Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13, 34). Yêu mến anh em như chính mình với mẫu mực như Thầy. Cần phải đặt việc yêu mình làm cơ bản để biết cách yêu người, và rồi vươn tới chỗ đặt Đức Kitô làm mẫu mực cho tình yêu của mình. Trong mẫu mực đó, yêu mến chính mình chỉ được triển nở trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và tận hiến cho tha nhân. Như Đức Kitô đã chịu chết và sống lại để trao ban sự sống của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi đi vào chu trình đó. Yêu mình đòi phải chết cho chính mình, để làm nên một sự sống mới trong Đức Kitô.

Như vậy yêu mến chính mình dứt khoát không phải là tự coi mình như cái rốn của vũ trụ, theo như chủ thuyết cá nhân chủ nghĩa, để rồi tự giam hãm mình trong vỏ kén của cái tôi ích kỷ. Lại càng không thể là thứ yêu mình của thuyết khoái lạc, chìm đắm trong hưởng thụ, là lối sống hủy hoại nhân cách và phẩm giá của con người. Con người thật cao quí là vì được dựng nên cho chính mình theo hình ảnh của Thiên Chúa, và chỉ thuộc về Ngài mà thôi (x. Rm 14, 7-8).

Yêu mình là chuyện không dễ, vì luôn có những cám dỗ làm ta chán ngán, thậm chí còn bất mãn với chính mình. Thậm chí lúc nào đó, ta không còn chịu nổi những giới hạn của thể xác: bệnh tật, tuổi già, sức yếu, sự suy dần các khả năng khiến cho “lực bất tòng tâm”, và như tự thấy xa lạ với chính mình. Do đó, phải luôn xác tín rằng: mình vẫn mãi mãi là hình ảnh của Thiên Chúa, mãi mãi được Thiên Chúa yêu thương, và tình yêu đó sẽ nâng ta lên làm một với Ngài trong sự sống muôn đời. Đó là điều làm ta trở nên mạnh mẽ và phấn khởi để trở nên chính mình bằng cách sống ba nhân đức siêu nhiên:

       - Tin : để chấp nhận mình.

       - Cậy    : để đảm nhận cuộc sống mình.

       - Mến   : để sáng tạo đời mình.

 

Lời nguyện

Lạy Chúa, kỳ diệu thay bàn tay Chúa trên cuộc đời con!

Huyền diệu thay tình yêu Chúa trong mọi ngõ ngách đời con!

Tuyệt diệu thay quyền năng Chúa trong mọi diễn biến đời con!

Dù con là một thụ tạo thấp hèn, nhưng Chúa lại coi là quí giá.

Dù con bao cái đáng khinh, nhưng Chúa vẫn quí trọng.

Dù con bao điều đáng ghét, nhưng Chúa vẫn quí yêu.

Từ trong hư vô Chúa đã kêu gọi con hiện hữu và hiện diện một một cách rất riêng biệt,

để cùng với mọi anh em làm nên cuộc sống mình, bằng khuôn mặt và tấm lòng của Chúa.

Xin cho con biết chấp nhận chính mình như một ân ban độc đáo;

biết đảm nhận cuộc sống mình như một quà tặng Chúa hiến trao;

biết sáng tạo đời mình như một kỳ công Chúa muốn làm.  Amen.

 

Lm. Thái Nguyên

 



[1] Trình bày và suy tư theo tư tưởng của Pierre Talec trong cuốn Accueillir, Centurion, Paris, 1990.

[2] Khả hữu: có thể có được.

[3] Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi – Niềm hy vọng Kitô Giáo - ý tưởng của số 31.

[4] Bất tất: không tất nhiên phải có, không nhất thiết cần.


Tu Đức