HÔN NHÂN KITÔ GIÁO VÀ ĐÒI HỎI CỦA LỜI
(Thời sự Thần học - Số 1, tháng 03/2009)
Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP (gpquinhon.org) Thứ tư - 12/11/2014 06:01
Có thể nói, vấn đề quan trọng mà gia đình Kitô giáo ngày hôm nay
phải đối diện là gia đình đang chuyển dần từ bình diện tôn giáo sang bình diện
con người. Điều đó có nghĩa là mối bận tâm chính của đôi hôn nhân không còn nằm
ở vấn đề có hay không cùng một niềm tin tôn giáo; thay vào đó, họ phải trả lời
cho vấn đề có hay không một nền tảng hôn nhân. Bởi lẽ sự khác biệt giới tính về
mặt sinh học đáng ra phải có tầm quan trọng về mặt tự nhiên, nhưng dường như
người ta dần cho rằng sự khác biệt ấy chỉ là sản phẩm của văn hoá mà mỗi người
có thể thay đổi tuỳ quan niệm của mình. Nói khác đi, đó là sự chối bỏ, thậm chí
phá huỷ chính định chế hôn nhân và gia đình, cách riêng đối với hôn nhân và gia
đình Kitô giáo.[1]
Quả thật đó là một thứ nghịch lý của thời đại hôm nay. Vì lẽ, đang
khi gia đình vẫn được xem là tế bào xã hội, cái nôi hình thành nhân cách con
người và là trường học đầu tiên của nhân loại thì tổ chức gia đình hay việc cấu
thành nên chính tế bào đầu tiên ấy lại đang có nguy cơ bị phá bỏ, nghĩa là gia
đình không nhất thiết phải gồm có cha mẹ và con cái. Hiểu như thế thì gia đình
không nhất thiết phải được xây dựng trên mối dây hôn phối. Vẫn có những đứa trẻ
ra đời mà mẹ chúng không cần phải có người cha cho chúng. Hoặc có những gia
đình mà nền tảng không đặt trên mối tương quan liên vị trong sự ràng buộc của
dây hôn phối nên họ dễ dàng ly dị mà không nghĩ đến chuyện cứu vãn trong mọi
khả năng.
Chúng ta bắt gặp ở đây hai trở ngại lớn. Thứ nhất, về mặt tiến
triển của lịch sự nhân loại, rõ ràng, vấn đề hôn nhân một vợ một chồng chỉ mới
được đặt thành vấn đề như một định chế mới đối với định chế cũ trong quá khứ.
Vậy điều này có cho phép kết luận rằng dây hôn phối chẳng qua cũng chỉ là một
thứ thủ tục không hơn không kém mà cùng với sự tiến bộ, con người thấy cần
thiết cho sự phát triển nhận thức của mình? Chính đây là cơ sở cho lập luận phá
bỏ nền tảng gia đình dựa trên tính thiết yếu của dây hôn phối. Vấn nạn của xã
hội hiện đại, nhất là quan niệm về hạnh phúc và tự do trong việc quyết định xây
dựng hay phá vỡ một “tế bào xã hội”, ở chỗ không ít người trẻ hôm nay cho rằng
nền tảng để giải quyết vần đề hôn nhân và gia đình không gì khác hơn là việc
tương đối hoá mọi ý nghĩa và định chế hầu giản lược tất cả thành một thứ tự do
tuyệt đối qua việc tìm kiếm hạnh phúc của cá nhân. Đáp trả cho vấn đề này,
chúng ta cùng tìm câu trả lời dưới góc độ Kinh thánh trong việc khám phá ý định
của Thiên Chúa khi chính Người là Đấng đã tác hợp cho gia đình đầu tiên của
nhân loại. Thứ hai, chúng ta sẽ trả lời cho vấn nạn về “sự bất khả phân ly”
trong hôn nhân qua giáo huấn của Đức Giêsu về việc có cho phép ly dị hay không.
Trên cơ sở đó, vượt xa hơn vấn đề tự nhiên để bước vào lãnh vực ân sủng, chúng
ta cùng xác định lại nền tảng gia đình qua bí tích hôn phối.
Cuối cùng, khi đặt gia đình trong viễn tượng của Nước Trời đang
đến, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn thánh, nơi gìn giữ và nuôi dưỡng những
nhân vị thánh tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa mà vì tình yêu Người
đã để cho tình yêu được tiếp nối trên quả đất này.
1. Thách đố của Hôn nhân Kitô giáo thời hiện đại
Thế kỷ 20 vừa qua đánh dấu một sự thay đổi về bản chất và nhiệm vụ
trong hôn nhân phương Tây. Hôn nhân không còn là nhiệm vụ xã hội, không phải
tuân theo ý muốn cha mẹ, cưới trước yêu sau. Thay vào đó, hôn nhân là quyền lợi
của cá nhân và khởi đi từ tình yêu của đôi hôn nhân. Kéo theo hôn nhân là sự
thay đổi về bản chất và nhiệm vụ của gia đình. Thế chỗ cho những gia đình nhiều
thế hệ là những gia đình hạt nhân. Gia đình thôi không còn là nền tảng của xã
hội nữa nhưng chỉ là một đơn vị giữa bao đơn vị khác. Ngay cả việc giáo dục
trong gia đình giờ đây cũng được chuyển sang cho xã hội.[2]
Một chuyển biến như thế không phải là không có trong bối cảnh hôn
nhân gia đình Việt
… Có những gia đình đang trở thành một thứ quán trọ thay vì là tổ
ấm yêu thương. Có nhiều người cao tuổi bị con cái bỏ rơi, không nơi nương tựa.
Nạn bạo hành gia đình còn khá phổ biến, đặc biệt nhiều phụ nữ chưa được tôn
trọng và yêu thương xứng đáng với phẩm giá con người. Tỷ lệ ly hôn ngày càng
gia tăng và hậu quả là những trẻ em thất học, trẻ em bỏ nhà đi bụi đời ngày
càng nhiều.[3]
Tông huấn Familiaris
Consortio trong khi thấy được những tích cực về ý thức tự do cá nhân cũng
như mối quan tâm nhiều hơn về tương quan liên vị trong hôn nhân thì đồng thời
cũng cho thấy sự thoái hoá đáng lo ngại về một số giá trị căn bản.
Một quan niệm sai lầm trên lý thuyết và thực hành về sự độc lập
giữa hai vợ chồng với nhau…những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá
trị như nhiều gia đình đã cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương
về sự phá thai, việc dùng các phương pháp làm tuyệt đường sinh sản ngày càng
nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai.[4]
Một mối lo ngại thực tế của các Kitô hữu trong bối cảnh xã hội ngày
hôm nay đó là việc thực hành đức tin của họ dường như cho thấy họ chỉ đang cố
giữ lấy một thứ giáo lý hà khắc. Đang khi đó, những đổ vỡ hôn nhân lại không là
vấn đề nằm ngoài đời sống của Kitô hữu. Sự phức tạp trong các cuộc hôn nhân mà
một bên phối ngẫu không là Kitô giáo càng cho phép người ta thấy thuyết phục
hơn khi muốn tách bạch rõ ràng giữa hôn phối theo đạo và đời. Hơn thế nữa, việc
tái hôn là một trong những vấn nạn đối với đôi hôn nhân Kitô giáo đã ly thân.
Thế nên, việc “rối đạo” là nỗi sợ hãi hơn là lời cảnh báo giúp người tín hữu
một lần hồi tâm cứu vãn tình trạng hôn nhân của mình. Não trạng này đang dần
lớn lên và cho thấy ảnh hưởng không nhỏ của nó đối với nhận thức về tình yêu,
hôn nhân và gia đình nơi thế hệ trẻ. Thông điệp, một lần nữa nêu lên
rằng:
Sự lan tràn của nạn ly dị và ngay cả các tín hữu cũng đòi được tái
hôn sau khi ly thân; về quan niệm chỉ chấp nhận cử hành hôn phối theo phần đời,
ngược hẳn ơn gọi của những người đã được rửa tội là “lấy nhau trong Chúa”; về
việc cử hành bí tích Hôn phối mà không có đức tin sống động, nhưng chỉ vì những
lý do khác; về sự phủ nhận những nguyên tắc luân lý đang soi sáng và nâng đỡ
việc thực hành tính dục trong hôn nhân một cách nhân bản và Kitô giáo.[5]
Trên bình diện thần học, những cuộc tranh luận lịch sử đã cho thấy
có thời người ta muốn tách rời giữa khế ước và bí tích vì cho rằng điều này
không thuộc về chân lý đức tin.[6] Lịch sử Hôn nhân Công giáo đã từng trải qua
những cuộc tranh luận về tính bí tích và khế ước của hôn nhân Công giáo. Trong
quyển Doors to the Sacred, Joseph Mortos đã nêu lên quan điểm của Luther về vấn
đề này. Theo ông, Luther cho rằng hôn nhân do Chúa thiết lập nhưng không phải
là bí tích, mà đúng hơn đó là một định chế tự nhiên và xã hội nên thuộc về luật
tự nhiên và dân sự chứ không thuộc luật Giáo Hội.[7]
Ngày nay, không thiếu những lập luận theo những nguyên tắc tương
đối hay theo một thứ luân lý hoàn cảnh nào đó để cho thấy rằng một đòi buộc về
hôn nhân như là giao ước tình yêu, đồng nhất và bất khả phân ly là điều quá
khắt khe và không có nền tảng thực tế. Rõ ràng, khi mà cuộc sống hiện đại càng
ngày càng cho thấy người ta khó có thể áp dụng một quy tắc tổng quát nào đó cho
tất cả mọi người trong những hoàn cảnh cá biệt cụ thể của họ thì việc xem hôn
nhân là bất khả phân ly dường như trói buộc tự do con người trong việc mưu cầu
hạnh phúc chính đáng. Hôn nhân giờ đây được coi chủ yếu là một cách diễn tả
tình yêu của hai người nam nữ. Tiến xa hơn nữa, vấn đề được đặt lại trong tính
cách nền tảng của hôn nhân khi mà lối nhìn về sự ràng buộc hôn nhân là một hữu
thể siêu hình đang bị thay thế dần bởi cái nhìn mang tính nhân vị hơn trong hôn
nhân. Hơn thế, phải chăng đang khi lập luận về tính bất khả phân ly của hôn
nhân dựa trên việc diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh thì cuộc hôn
nhân ấy bao giờ cũng mang tính bí tích và vĩnh viễn vì tình yêu trong cuộc hôn
nhân ấy phải là tình yêu thuỷ chung, tha thứ và tự hiến; nhưng một khi cuộc hôn
nhân không còn thể hiện và diễn tả được tình yêu như thế thì thực tế tính bí
tích không còn nữa nơi hôn nhân ấy và có thể được kết thúc bằng việc ly dị? Và
thật nan giải khi thực tế lại cho thấy rằng việc bất khả phân ly của hôn nhân
không làm cho người Kitô giáo e sợ vấn đề ly dị, thay vào đó dường như nó ngăn
cản không cho người ta hiệp thông với Hội thánh.[8] Phải nghĩ suy xem vấn đề sẽ
tiến xa thêm đến mức nào, cha Raniero Cantalamessa, OFM., vị giảng thuyết của
Phủ Giáo Hoàng, qua cuộc phỏng vấn của thông tấn xã Zenit, đã nói về việc cứu
thoát gia đình khỏi một tiến trình “tan rã” đi ngược lại bản chất Kitô giáo: đó
là việc thoát khỏi hoàn cảnh quá khích đưa đến kết quả “phi nhân” qua chính
việc muốn bải bỏ nền tảng giới tính của con người.[9]
Như vậy, vấn đề của hôn nhân Kitô giáo có thể nói không phải là tìm
ra một phán quyết mang tính luật lệ như lịch sử đã cho thấy, nhưng là làm sao
để chính mỗi đôi hôn nhân, khi tự do tiến đến với nhau qua lời cam kết, ý thức
đủ rằng họ đang bước vào một đời sống mới mà đức tin cho biết lời cam kết ấy là
hoàn toàn khả tín và không có gì có thể phá vỡ được. Chỉ trong ý nghĩa đó, cái
nhìn quân bình về nền tảng hôn nhân mới làm sáng lên những vấn đề về phẩm tính của
tình yêu, tình dục và sự sinh sản con cái … mà những não trạng quá đề cao tự do
cá nhân hay tuyệt đối hoá một thứ tình yêu ích kỷ đã làm chệch hướng chọn lựa
của con người.[10]
2. Nền tảng bất khả phân ly của Hôn nhân Kitô giáo
Chỉ có thể trả lời cho vấn đề này một khi chúng ta phải thành thật
thừa nhận rằng giá trị của lời cam kết mà đôi hôn nhân một khi hoàn toàn tự do
ưng thuận để công khai nói lên như một hành vi nhân linh thì hoàn toàn mang
tính khả tín trong chính bản chất của nó. Bởi lẽ, nếu chúng ta phủ nhận sự khả
tín mà chính chúng ta đã tự do nói lên ấy thì không thể là hành vi của chủ thể
tự do. Điều mâu thuẫn ấy tố cáo chính chúng ta. Tuy nhiên, một khi xác tín vào
sự khả tín, chúng ta được mời gọi khám phá nền tảng của chính sự khả tín ấy, một
nền tảng đảm bảo cho sự bền vững trước những thay đổi mà chúng ta không thể dự
liệu một khi dấn thân vào chính lời cam kết của chúng ta.[11]
a. Cựu Ước
Bản văn Sáng thế mà Đức Giêsu đã từng trưng dẫn làm chúng ta phải
suy nghĩ nhiều về nền tảng hôn nhân trong lịch sử Dothái mà Thánh Kinh Cựu Ước
ghi lại.
Sách Sáng thế đã viết về cuộc tạo dựng và hôn nhân của đôi vợ chồng
đầu tiên như thế này: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,24). Bản văn được ghi chép trong
chính bối cảnh của văn hoá Dothái, một nền văn hoá mang nặng tính phụ hệ trong
hôn nhân, nghĩa là người đàn ông sau khi lập gia đình vẫn tiếp tục sống gần nhà
cha mẹ mình. Chỉ có người vợ là phải rời bỏ nhà mình mà đến sống với chồng.
Nhưng ở đây, bản văn cho chúng ta biết, người đàn ông lại lìa cha mẹ mà gắn bó
với vợ mình. Việc lìa bỏ không được hiểu mang tính tuyệt đối như bỏ rơi hay
đoạn tuyệt. Trái lại, lối diễn tả ấy cho thấy từ đây trong cuộc đời người chồng
đã có một sự thay đổi trật tự các ưu tiên. Trước đây, ưu tiên hàng đầu đối với
anh là cha mẹ. Nay, thứ tự ấy được chuyển sang cho người vợ. Có lẽ, cuộc sống
hiện đại làm cho chúng ta khó hình dung ra sự thay đổi ấn tượng này, bởi lẽ
trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện đại thường bị lãng
quên. Trái lại, trong xã hội Dothái xưa, tôn kính cha mẹ là điều bắt buộc đối
với con cái và việc “thờ cha kính mẹ” chỉ xếp sau việc thờ phượng Thiên Chúa mà
thôi. Bởi thế, sự lìa bỏ này quả thật bất ngờ khiến chúng ta phải chú ý, nhất
là hành động ấy lại khởi đi từ một cuộc hôn nhân.[12]
Tiếp sau sự lìa bỏ này, sách Sáng thế thuật lại rằng người đàn ông
trở nên gắn bó với vợ mình. Điều này gợi lên tình yêu và sự bền vững như là hai
đặc tính của hôn nhân. Đó là sự quyến luyến và gắn bó của đôi vợ chồng như thể
con cái Israen gắn bó với gia nghiệp của mình (xc. Ds 36,7.9), như sự thúc bách
của lòng yêu mến mà Isaraen phải có với Đức Chúa của họ (Đnl 10,20; 11,22;
13,5…). Việc lìa bỏ cha mẹ và nên gắn bó với nhau của đôi vợ chồng dẫn chúng ta
đến cái nhìn về hôn nhân như một giao ước mà chính Israen đã có kinh nghiệm về
giao ước Thiên Chúa đã lập với họ.[13]
Tuy bản văn Sáng thế không cho chúng ta thấy chứng thực về chế độ
hôn nhân một vợ một chồng. Nhưng một kinh nghiệm xương máu mà các ngôn sứ thời
xưa đã rút ra đó là sự trừng phạt đến từ việc dân được tuyển chọn không sống
đúng với ơn gọi của họ. Lẽ ra, họ phải là dân sống thánh thiện với những chuẩn
mực cao về luân lý và đạo đức; họ phải nêu gương bác ái công bình với đồng loại
và không được chạy theo các thần ngoại bang. Chính thực tế không như mong muốn
ấy mà các ngôn sứ đã lấy tình yêu thuỷ chung giữa hai vợ chồng làm lý tưởng cho
nền luân lý hôn nhân, một trong những nét của nền luân lý mới mà họ rao giảng
nhằm đề cao tấm lòng son sắt mà Iarael phải có với Giavê là Chúa của họ, Đấng
hằng trung tín và không bỏ rơi dân bao giờ.[14]
Như vậy, dòng lịch sử của Cựu Ước mặc dù cho thấy sự “trơn trượt”
về một tình yêu hôn nhân bất khả phân ly, nhưng như Đức Giêsu đã nói, sự trơn trượt
ấy không nằm trong ý định của Thiên Chúa bởi từ ban đầu thì không có chuyện
phân ly trong hôn nhân. Chúng ta chỉ mới thoáng thấy được điều này qua lối diễn
tả của các ngôn sứ về một tình yêu chung thuỷ như ước mơ và cũng là khẳng định
mang tính đòi buộc Dân Thiên Chúa phải sống theo đường lối của Người.
b. Tân Ước
Viễn tượng của Hôn nhân Kitô giáo không đơn thuần chỉ là cuộc giao
duyên giữa người nam với người nữ, nhưng là một tình yêu được se kết bởi chính
lựa chọn nên một với nhau trong Đấng Tạo Thành của đôi hôn nhân. Mặc cho những
đỗ vỡ, như đã bao lần xảy ra khi Dân phản bội Thiên Chúa, thì tự bản chất Người
vẫn là Đấng tín trung, Người không bao giờ bội tín vì Người không thể phản bội
chính mình.[15]
Giáo huấn của Đức Giêsu về một lời cam kết bất khả phân ly đụng
chạm đến thực tế hầu như tan vỡ bởi nạn ly dị của ngày hôm nay như thế nào?
Phải chăng lời rao giảng của Đức Giêsu có phần không thực tế đang khi có biết
bao người phải gánh chịu đau khổ, dằn vặt trong gia đình mà chính họ là người
trải nghiệm mỗi ngày? Tân Ước cho thấy tranh luận thú vị giữa Đức Giêsu với
những người luật sĩ về vấn đề ly dị. Có thể xem đây là giáo huấn nền tảng của
Đức Giêsu cho những suy tư về sự bất khả phân ly của dây hôn phối.
Chúng ta gặp phải vấn đề là liệu rằng trước những thực trạng khủng
hoảng, bế tắc và tan vỡ của nhiều cuộc hôn nhân có làm chúng ta mất hy vọng về
đời sống gia đình, về nền tảng làm nên đời sống gia đình và ơn gọi trở thành
những bậc làm cha, mẹ trong những định chế gia đình đúng nghĩa? Đức Giêsu đã
nói đến lý tưởng ấy. Có hai thái độ trước giáo huấn của Đức Giêsu. Một đàng cho
là Đức Giêsu đã quá lý tưởng cuộc sống lứa đôi vốn “không ai có thể biết trước
được”. Vì thế, sự bất khả phân ly của Kitô giáo là một ràng buộc nghiệt ngã.
Đàng khác lại cho rằng “không vì con sâu làm rầu nồi canh”, nghĩa là dù trước
những thực trạng xem ra không mấy sáng sủa thì hôn nhân vẫn không bị đánh mất ý
nghĩa nền tảng vốn có. Bởi vì, lời mời gọi sinh sôi này nở và làm chủ vũ trụ
vốn nằm trong ơn gọi làm người mà tự do con người chỉ có thể lựa chọn chứ không
có quyền phá huỷ. Lời Đức Giêsu cho phép chúng ta tin tưởng vào giá trị của lời
cam kết, bởi đó là sự kết ước không phải chỉ bởi hai ngôi vị nhân loại với
nhau, nhưng giữa họ có Đấng làm chủ và gìn giữ đời sống ấy. Truyền thống Kinh
thánh gợi lại cho chúng ta lòng trung tín của Thiên Chúa như là nỗ lực gìn giữ
mối dây kết ước giữa Người với thụ tạo.
Rõ ràng, tuy có sự khác nhau giữa các bản văn của Mátthêu, Máccô và
Luca về cùng một vấn đề ly dị, nhưng điều sau cùng mà chúng ta nhận được từ
giáo huấn của Đức Giêsu đó là lý tưởng về một cuộc hôn nhân hoàn hảo như là
nguyên tắc của lời đáp trả cho bất ai muốn theo Người. Điều này cũng được đọc
thấy trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô chương 7.
Đặc biệt trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô đã thấy tương quan giữa
đôi vợ chồng trong hôn nhân giống như tương quan thiêng liêng giữa Đức Kitô và
Hội thánh. Tiêu chuẩn của thánh Phaolô về hôn nhân còn được thấy lại trong thư
thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ (1 Pr 3,1-7). Thật ra toàn bộ những tiêu chuẩn
hôn nhân này không thể là chuyện có một thiên luật về hôn nhân trói buộc và
tước mất tự do của những ai đã vì tình yêu và sự trung tín mà vẫn bị phản bội
và gặp thử thách mọi bề. Đúng hơn, đó là một lời mời gọi nên hoàn thiện mỗi
ngày trong giáo huấn của Đức Giêsu làm thức tỉnh đối với những ai đã đánh mất
sự khả tín vào những lời cam kết của mình. Lời cam kết không phải là sợi dây “thòng
lọng” khiến những ai đã vướng vào thì càng thêm dính chặt ở đấy. Trái lại, nếu
ngay cả sự khả tín vào chính những gì một người có thể đoan quyết cũng bị phủ
định thì người ta thật sự phủ định toàn bộ cuộc sống này.[16]
Thế nên, điều khả tín của kẻ có niềm tin là thấy được “thế giới này
đang qua đi” (1 Cr 7,31) mà những thực tại của trần gian này chỉ là dấu chỉ cho
thực tại vĩnh cửu mai sau. Bởi thế, đối với thánh Augustinô, hôn nhân là một
sacramentum theo hai lối. Trước hết, đó là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa Đức
Kitô và Hội thánh, sau là lời thề thánh thiêng giữa đôi vợ chồng, là sợi dây
chung thuỷ ràng buộc hai người cho đến chết. Sacramentum như dấu ấn ghi vào
linh hồn của hai vợ chồng và hằng luôn liên kết họ. Thế nên, chính nhờ sự hiệp
nhất vĩnh viễn này nơi họ mà hôn nhân trở thành biểu tượng phản ánh sự hiệp
nhất của Đức Kitô với Hội thánh. Bởi thế, hôn nhân Kitô giáo cũng như các bí
tích khác là một sacramentum tức là một dấu chỉ thánh thiêng và một sacramentum
et res tức là một thực tại bí tích và một ân sủng đích thực được ban qua nghi
thức ấy.[17]
Tóm lại, sứ điệp mà Tân Ước gửi đến chúng ta về vấn đề hôn nhân có
thể được hiểu qua hai điều sau đây. Trước hết, việc diễn tả mối tương quan và
kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh Người cho thấy chiều kích thần học sâu xa
của hôn nhân. Bởi thế, hôn nhân phải làm sao diễn tả như lòng mến giữa Đức Kitô
và Hội thánh không bao giờ phai nhạt. Điều này hàm chứa sự yêu thương, trung
tín, dấn thân cho nhau của đôi vợ chồng. Như vậy, không phải là hôn nhân trở
nên kiểu mẫu làm chuẩn mực cho Hội thánh, nhưng chính tình yêu giữa Đức Kitô và
Hội thánh, nhất là qua cái chết của Người trên thập giá, diễn tả và thực tại
hoá lý tưởng của hôn nhân. Hơn thế nữa, qua ấn tích vĩnh viễn của bí tích Thánh
Tẩy, đôi hôn nhân được thông phần ơn cứu độ mà Đức Kitô ban cho Hội thánh, làm
hoàn trọn bí tích Hôn phối mà họ lãnh nhận như việc thể hiện tình yêu nên một
trong nhau và trong chính Đấng đã chết và sống lại vì họ.
Một vấn đề khác của sứ điệp Tân Ước đó là sự bất khả phân ly của
dây hôn phối và qui định lề luật. Chúng ta thường đồng hoá lời cam kết hôn nhân
với lề luật cấm không được ly dị mà Tin mừng theo thánh Mátthêu chương 19,1-9
nói đến. Lệnh truyền của Đức Giêsu về sự bất khả phân ly trong hôn nhân thường
được xem là lời dạy mang tính “chung cuộc” của một giới luật hơn là đích điểm
hay lý tưởng phải đạt đến. Tuy nhiên, vượt qua những cấm đoán mang tính luật lệ
ấy, việc cấm ly dị của Đức Giêsu cho thấy một trật tự sáng tạo trong ý định của
Thiên Chúa. Không có giới luật nào phát xuất từ bí tích nhưng là chính lý tưởng
hôn nhân tự đặt cho mình sự bất khả phân ly theo đúng công trình tạo dựng ban
đầu của Đấng Tạo Hoá. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn cho thấy, vì lòng người ta ra
chai đá mà ý nghĩa nền tảng của hôn nhân bị lu mờ trước những thực trạng “trượt
dốc” của họ. Thật ra không thể có hôn nhân nếu không có tình yêu là nền tảng
liên kết người nam và người nữ. Trong tình yêu ấy, người ta không tìm thấy kẻ
trên người dưới, không có chuyện bên trọng bên khinh bởi lẽ đã có một mối tương
quan thật sự, nền tảng và vững bền giữa hai ngôi vị. Mối tương quan liên vị này
được nhìn nhận và bảo đảm giữa hai người phối ngẫu, trong ý định sáng tạo của
Thiên Chúa nên chẳng bao giờ là chuyện đòi hỏi của lề luật cả.
3. Tìm lại ý nghĩa của Hôn nhân Kitô giáo hiện nay
Thật ra, không phải chỉ Hôn nhân Kitô giáo mới cần tìm một hướng
giải quyết về mặt ý nghĩa, nhưng cần hiểu hôn nhân trên tầm mức rộng hơn. Việc
Đức Giêsu trích dẫn sách Sáng thế về cuộc sáng tạo và sự ra đời của gia đình
đầu tiên có thể được hiểu như là lý tưởng chung của hôn nhân đối với bất kỳ ai
lựa chọn cho mình “một lối sống mới” (họ không còn là hai nhưng là một xương
một thịt với nhau). Chúng ta có thể đọc thấy những chuyển biến tích cực mà Công
đồng Vaticanô II nhìn về hôn nhân như việc tìm lại ý nghĩa của đời sống vợ
chồng đối với những ai quý trọng và muốn bảo vệ giá trị bất khả phân ly này nơi
bí tích hôn nhân.
a. Công đồng Vaticanô II
Trong hiến chế Gaudium et Spes bên cạnh việc tái khẳng định bản
chất của bí tích hôn nhân và tình yêu vợ chồng là tự bản chất hướng đến việc
sinh sản và giáo dục con cái,[18] công đồng cũng nhấn mạnh rằng tình yêu vợ
chồng không những là đặc điểm riêng nơi con người mà còn đem lại sự thiện hảo
cho con người toàn diện. Tình yêu này được diễn tả và hoàn thiện qua việc vợ
chồng vì quan hệ giới tính biểu lộ và nâng cao sự tự hiến của hai người, nhờ
thế họ làm cho đời sống của nhau nên phong phú.[19] Bởi thế, bí tích hôn nhân
trong Kitô giáo củng cố và hiến thánh các đôi hôn phối trong nhiệm vụ và phẩm
giá của họ. Bí tích ấy là bí tích của sự nên một trong tình yêu, trong sự sinh
sản con cái hầu để tinh thần Chúa Kitô được thấm đượm và nối kết họ trong mối
dây liên kết vốn bất khả phân ly trong chính bí tích mà họ cử hành, bí tích
diễn tả mối tình thiêng liêng cao đẹp Đức Kitô dành cho Hội thánh Người. Thế nên,
vì sự hiệp nhất và trao hiến trọn vẹn cho nhau trong tình yêu và hạnh phúc của
con cái mà đôi vợ chồng phải vẹn nghĩa thuỷ chung với nhau, nghĩa là một sự
hiệp nhất bất khả phân ly.[20]
b. Những suy tư khác
Một điều đáng suy nghĩ đó là thực trạng đổ vỡ đời sống hôn nhân hôm
nay không loại trừ những người đã sống đời hôn nhân như một bí tích. Đáng nghĩ
hơn nữa khi chính những người Công giáo trong tình trạng ly thân này lại muốn
được tái hôn theo luật đời. Có lẽ một lối thực hành nặng tính lề luật khi chỉ xem
sự bất khả phân ly như một luật cấm khiến cho việc lãnh nhận và sống bí tích
hôn nhân không đạt đến được mức độ trưởng thành và cắm rễ sâu nơi chính nội tâm
của mỗi Kitô hữu. Bên cạnh đó, cùng với những trào lưu hiện sinh và tương đối,
người Kitô hữu dễ bị cuốn trôi khỏi nền tảng thiêng liêng mà đời sống họ đã
không có cơ hội được cảm nếm vì những rào cản mang tính luân lý và lề luật.
Việc giải quyết các nố hôn nhân bởi thế trước hết là sự cố gắng chữa lành những
thương tích mà đời sống bất toàn, không như ý muốn đã để lại trên ký ức và
chính cuộc sống hiện tại của các đôi vợ chồng. Người ta có thể nghĩ đến đặc ân
của thánh Phaolô như phương cách cuối cùng đối với những trường hợp bất khả
kháng.
Thế nên, trước hoàn cảnh sống mới, một đòi hỏi nền tảng hơn cho đời
sống Kitô hữu chính là việc thực hành đức tin của mình. Luật dân sự đã đạt được
điều mà những người không có đức tin đòi hỏi: đó là sự đề cao tự do cá nhân
bằng việc chấp thuận và nhìn nhận ly dị. Tuy nhiên, hơn lúc nào hết, một chứng
từ cần thiết và công khai của mọi tín hữu là việc tái khẳng định phẩm giá và
giá trị bất khả chuyển nhượng của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân
giữa một người nam và người nữ, cũng như sự khai mở sự sống và bảo vệ sự sống ở
môi trường gia đình trong mọi giai đoạn phát triển của chính sự sống ấy.[21]
Phải trả lời ra sao cho câu hỏi mà thời đại hôm nay đặt ra: đâu là sự thánh
thiêng mà đời sống hôn nhân là cửa ngõ dẫn vào đang khi có biết bao khủng hoảng
về chính điều mà ta gọi là sự thánh thiêng ấy?
Trải qua thời Trung cổ, đến thời cải cách của công đồng Trentô và
vẫn đang tiến triển cho đến nay, hôn nhân luôn là một bí tích theo nghĩa rộng.
Ta không thể nói việc cử hành nghi thức hôn phối chỉ như là một thủ tục kết hôn
không hơn không kém. Trái lại, xét cho đến tận căn, đó là cuộc cử hành các giá
trị thánh thiêng của hôn nhân, bất kể mọi cách hiểu trong những nền văn hoá đặc
thù. Bởi lẽ, đó là cuộc cử hành nghi lễ để gia nhập vào một đời sống mới. Đặc
biệt, chính trong môi trường Kitô giáo mà cuộc cử hành mang tính bí tích ấy đưa
người nam và người nữ bước vào một lối sống mới được đặt nền trên mối tương
quan khuôn mẫu là Đức Kitô và Hội thánh.[22] Thế nên, việc sống bí tích hôn
nhân của các đôi vợ chồng Kitô hữu không những là việc sống thực tại thánh thiêng
trong ý định Đấng Sáng Tạo, mà họ còn cùng nhau cảm nghiệm thế nào là tình yêu
mà Đức Kitô dành cho Hội thánh, một tình yêu không phủ lấp mọi thực tại lữ hành
khác của trần thế nhưng lại được thể hiện bằng chính sự đồng hành, liên luỵ,
nên một và mang lấy gánh nặng cho nhau trong mỗi biến cố cuộc đời.[23]
------------------
[1] Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các
gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 2: Gia đình, Nhà giáo dục sự thật về con
người: Hôn nhân và Gia đình, số 1 (
[2] Joseph Mortos,
Doors to the Sacred (USA: Liguori/Triumph, 1991), tr. 344-387.
[3] Hội đồng Giám
mục Việt Nam, Thư mục vụ 2008 về Môi trường Giáo dục Gia đình Công giáo, phần
II, số 10.
[4] Familiaris
Consortio (FC), số 6.
[5] FC, số 7.
[6] Xc. Thời sự
Thần học, số 9, tháng 09/1997, tr. 7-65. Cũng xem Phan Tấn Thành, Thần học về
Hôn nhân và Gia đình. Truy cập ngày 02/03/2009; http://www.daminhvn.com.
[7] Joseph Mortos,
op.cit., tr. 344-387.
[8] Ibid., tr.
344-387.
[9] Chúng ta đang ở
trong các hoàn cảnh quá khích. Đó như thể chúng ta muốn phát minh lại con
người, hôn nhân…với những kết quả “phi nhân” (in-humains). Chẳng hạn, kế hoạch
bãi bỏ giới tính, nơi mà hẳn sẽ không có căn tính giới tính xác định, nhưng là
nơi mỗi người có thể xây dụng cuộc sống của mình tùy theo ước muốn nam tính, nữ
tính riêng của mình hay cái gì đó khả biến hơn. Điều này là không thể chấp nhận
được, trái với bản tính của con người. Một tiến trình “tan rã” chẳng hạn có thể
là việc đề nghị bãi bỏ mẫu tính, đồng hóa nó với một hành vi nô lệ. Phụ nữ là
nô lệ của mẫu tính, và đó là lý do mà người ta đã tìm ra cách thế làm sinh ra
những đứa trẻ một cách khác, theo cách nhân tạo hơn. Đó là kiểu đề nghị thực sự
nguy hiểm, “phi nhân”. Tôi tin vào lương tri của con người và bản năng của họ :
vào ước muốn giới tính đối lập mà Thiên Chúa đã gieo vào trong con người, và
vào ước muốn làm mẹ và làm cha, là những giá trị mà Thiên Chúa đã đặt trong tâm
hồn con người. Nhưng tôi nghĩ rằng những đề nghị này có thể tạo nên nhiều thiệt
hại, như đó đã là trường hợp đối với chủ nghĩa mác-xít. Chủ nghĩa mác-xít đã
được thừa nhận như là môt sự dữ to lớn cho xã hội, đã tạo ra nhiều nạn nhân.
Cũng thế, cuộc tiến hóa này (sự tiến hóa của giống), ngay cả trước khi được
thừa nhận như là “phi nhân”, sẽ có thời gian gây ra những thiệt hại ghê gớm.
Truy cập 02/03/2009; http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/02/17/cuu-gia-dinh-thoat-khoi-tien-trinh-tan-ra/.
[10] Nhưng công
trình giáo dục này xem ra bị cản trở bởi một quan niệm giả trá về tự do, trong
đó sự bốc đồng và những xung năng chủ quan của cá nhân được người ta tôn vinh
đến mức nhốt kín con người trong ngục tù của bản ngã mình. Tự do đích thực của
con người xuất phát từ chỗ con người đã được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh
của Thiên Chúa, và do đó tự do ấy phải được thực thi với trách nhiệm, luôn chọn
điều thiện chân thực, để nó trở nên tình yêu, sự tự hiến. Với mục đích đó, điều
cần thiết không phải là lí thuyết nhưng là sự gần gũi và yêu thương, đặc trưng
của cộng đoàn gia đình. Chính trong tổ ấm gia đình mà người ta thật sự học
sống, học biết quí trọng sự sống và sức khỏe, tự do và hòa bình, công lí và sự
thật, lao động, sự hòa thuận và kính trọng nhau. (Thông điệp của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI tại
Mêhicô, số 3).
[11] Xc. Thời sự
Thần học, số 32, tháng 06/2003, tr. 7-90.
[12] Wenham, Gordon
J., Word Biblical Commentary, Volume 1: Genesis 1-15, (Dallas, Texas: Word
Books, Publisher, 1998). Cũng xem GLHTCG, số 1609-1611.
[13] Ibid.
[14] Các bản văn
của Ez 16, Hs 1-3, sách Diễm Ca, sách Tôbia 6-8 đều diễn tả quan hệ giữa Israel
và Giavê như một cuộc hôn nhân. Trong đó, Israel như người vợ trắc nết, bất
trung, hết lần này đến lần khác đã phản bội chồng mình mà chạy theo người tình
khác là các thần ngoại. Song song đó, việc đề cao và ca tụng những cuộc hôn
nhân hoàn hảo trong đó người đàn ông hoàn toàn gắn bó với vợ mình trong tình
yêu. Xem thêm Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387.
[15] Linh mục Jude
Siciliano, OP, trong bài suy niệm Lời Chúa vào Chúa Nhật 27 Thường niên B
(VietCatholic News 02/10/2003) đã diễn tả điều này như sau: “Trong bài Phúc âm
Chúa Giêsu nhắc lại truyền thống nhiệm màu của Kinh Thánh mà tuyên bố mối ràng
buộc hôn nhân là không tháo gỡ được. Nó là dấu chỉ hữu hình tình yêu vô hình và
hiệu quả của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài khẳng định tính bền vững của
hôn nhân. Nó có ý nghĩa vượt xa sự kết hiệp giới tính. Nó không phải chỉ liên
quan đến thân xác mà còn bao hàm toàn thể nhân sinh. Đôi vợ chồng là một về xác
thịt và cũng là một về hiện hữu (une seule chair, un seul être). Vì thế, người
đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Rõ ràng ông Adam không có cha mẹ để
lìa bỏ. Lời tuyên bố của Sách Thánh nhắm đến toàn thể nhân loại. Tác giả muốn
gọi sự kết hợp này là thuộc về “trái tim”, phát xuất từ trái tim, nơi thẳm sâu
nhất của tồn tại con người. Hôn nhân, do đó, là sự dấn thân của hai trái tim giống
như tình yêu trung tín (hesed) của Đức Chúa Trời. Lòng thương yêu này vượt trên
cả tội lỗi và nết xấu của mỗi người. Tức là trung tín trong bất cứ tình huống
nào. Vì Thiên Chúa không thể bất trung với chính Ngài. Lời thề trong lễ hôn
phối của đôi vợ chồng mới là: “giữ lòng chung thuỷ khi thịnh vượng cũng như lúc
gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ” vang vọng tình yêu hesed của
Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta phải đáp trả cho cân xứng. Nghĩa là trung tín với
Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, khoẻ mạnh
cũng như khi yếu đau. Đừng bao giờ lãng quên giao ước giữa ta với Đức Chúa
Trời. Xem thêm Dives in Misericordia (Encyclical on the Mercy of God His
Holiness Pope John Paul II, November 30, 1980). Truy cập ngày 02/03/2009;http://www.kimnam.btinternet.co.uk/giadinh/index.htm.
[16] Joseph Mortos,
op.cit., tr. 344-387. Cũng xem Freedman, David Noel, ed., The Anchor Bible
Dictionary (New York: Doubleday 1997, 1992), “Divorce”; GLHTCG, số
1612-1617.
[17] Joseph Mortos,
op.cit., tr. 368-369.
[18] Gaudium et
Spes (GS), số 8.
[19] GS, số
49.
[20] Lumen Gentium,
số 11. Xem thêm Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các
gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 4: Gia đình, người thông truyền các đức
tính và giá trị con người, số 1 (Mexico, D.F.,16-18/01/2009) : Gia đình, khai
sinh từ sự hiệp thông trong đời sống thân mật và tình yêu vợ chồng vốn được đặt
nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, là nơi khởi đầu cho
các quan hệ liên vị; gia đình là nền tảng của đời sống con người và là nguyên
mẫu của mọi tổ chức xã hội. Chiếc nôi sự sống và tình yêu này là nơi xứng hợp
cho con người sinh ra và lớn lên, đón nhận những khái niệm đầu tiên về sự thật
và sự thiện, nơi con người học yêu và được yêu, và học biết nhân vị nghĩa là
gì. Gia đình là cộng đồng tự nhiên trong đó người ta có được những kinh nghiệm
đầu tiên và thực hành đầu tiên về xã hội loài người, bởi lẽ đó không chỉ là nơi
con người khám phá tương quan liên vị giữa cái “tôi” và “bạn” mà còn mở đường
ra cho cái “chúng ta” nữa. Người nam và người nữ hiến thân cho nhau trong hôn
nhân tạo nên một môi sinh cho đứa bé có thể phát triển những tiềm năng của nó,
ý thức phẩm giá của nó, giúp nó chuẩn bị để sẵn sàng đối diện với định mệnh của
nó, một định mệnh độc nhất vô nhị. Trong môi sinh đầy ắp tình cảm tự nhiên đó
liên kết các thành viên gia đình lại với nhau, mỗi con người với sự độc đáo của
mình phải được nhìn nhận và nhận lấy trách nhiệm.
[21] Thông điệp của
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ
VI tại Mêhicô, số 4.
[22] Joseph Mortos,
op.cit., tr. 386-387.
[23] GLHTCG, số
1638-1654.
Tác giả bài viết: Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP
Nguồn tin: tsthdm.blogspot.com