ĐẠO LUÂN LÝ
Mục Lục
I. Các
thánh trong Giáo Hội
1.1 Nguyên lý nào ?
1.2 Mầu nhiệm tuyển lựa
II. Những
nẻo đường luân lý
2.1 Tập luyện nhân đức ?
2.2 Con đường nhân bản ?
2.3 Kết quả ?
2.4 Giới hạn của những nẻo đường
tu sửa
2.5 Đạo luân lý
III. Ơn cứu độ nhìn từ
cơ cấu nhân học Kitô giáo
3.1 Mạc khải về con người
3.2 Con người nên đẹp nhờ tấm lòng
IV. Cứu độ bằng tình
thương
4.1 Khởi từ việc chấp nhận chính
mình
4.2 Trở nên bé mọn để hòa giải
mình với mình
4.3 Nhờ Đức Giêsu để hòa giải với
chính mình
4.4 Những mảnh đời tuyệt diệu
4.5 Thiên Chúa chấp nhận ta
"vô điều kiện"
V. Kết
"Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Đến sáng, Người kêu gọi các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là tông
đồ".
Cứ
như thói quen trong Giáo Hội, vào ngày lễ một vị thánh nào đó, ta phải cố tìm
cho ra những đức tính đặc biệt của ngài, để ca tụng và để làm gương cho người
tín hữu. Quan niệm chung chung vẫn cho rằng các thánh không thể là những con
người tầm thường như chúng ta, các thánh phải có điều gì hơn người, phải khác
với những người chúng ta nhìn thấy, gặp gỡ hiện nay trong cuộc sống... Nhưng
quả thật là khó để tìm ra một đức tính nào trổi vượt nơi hai ông tông đồ Simon
và Giuđa . Lịch sử không để lại vết tích nào đặc biệt; hai vị được thánh ký kể
đến sau rốt, trên mỗi Giuđa phản bội mà thôi; những thứ hạng "rốt
bét".
Điều
đó làm cho ta bỗng sực tỉnh để nhận ra rằng : không phải chỉ có hai vị này mà
hình như cả nhóm 12 tông đồ đều là những người không phải ngon lành gì; nói
đúng ra, các vị cũng là những con người khá cù lần.
Phêrô, tông đồ trưởng, thì bốc đồng; Giacôbê và Gioan thì nóng
nẩy [con của sấm sét] và ham mê quyền lực
[Mc 10, 35-45]; Gioan lại còn nhỏ mọn [không
cho những người nhân Danh Chúa mà trừ quỉ Lc 9,49-50]; các ông khác thì nhát đảm và ngu dốt.... Điều đó không khỏi làm chúng
ta liên tưởng tới Giáo Hội hiện nay, trong đó cũng có không ít các vị giám mục
"cù lần", những linh mục, tu sĩ đầy những tính xấu...
Và
cứ tiếp tục theo lý luận như trên, chắc chúng ta cũng phải tự hỏi : không biết
trong khi thức suốt đêm để cầu nguyện, Chúa Giêsu có ngủ
gật hay không mà lại chọn "được" 12 vị thế ấy ? Thánh Thần có
đi vắng không để Giáo Hội chọn lựa những thừa tác viên như vậy ?
Trong
tâm thức người Kitô hữu hiện nay, hễ nói đến "thánh" là người ta nghĩ
ngay đến ông thánh này bà thánh kia; hễ nói đến các thánh là người ta luôn phải
ca tụng nhân đức, sự anh hùng, sự giỏi dang, đạo đức... như thể chính nhờ các
đức tính ấy mà các vị ấy đã làm thánh. Người Kitô hữu rất ít để ý, không biết,
hoặc biết nhưng chưa thấm sâu vào tâm thức rằng : tính chất "thánh"
là của Chúa, và các "vị thánh" chỉ là được thông
chia sự thánh thiện của Chúa. Lời kinh Vinh Danh trong thánh lễ tuyên
xưng rằng "chỉ có một mình Chúa là Đấng Thánh". Những điều đó
phải chăng phản ảnh một tâm thức chung trong Giáo Hội, một tâm thức nặng về luân lý và ít cảm nhận được tính cứu độ ? Đời
sống đạo như thế giống như một cuộc leo núi luân lý và ai khỏe mạnh, khéo léo
mới có thể lên tới những đỉnh cao. Bao giờ người Kitô hữu còn nhìn các
thánh như những mẫu gương "đạo đức" chứ không phải như
chứng tá cho sức mạnh của niềm Tin và ơn cứu độ, thì nguyên lý tác động
trong sức sống của Giáo Hội vẫn còn là luân
lý chứ không phải Đức Tin.
1.2 MẦU NHIỆM TUYỂN LỰA
Nhóm
12 được Chúa Giêsu tuyển chọn, không phải qua
một cuộc thi cử, phỏng vấn... để xét duyệt năng lực nhưng chỉ do ý muốn
của Ngài; và kết quả của cuộc tuyển chọn ấy có vẻ không thành công. Cũng vậy,
người ta vẫn có thể thấy Thiên Chúa tuyển chọn nhiều giám mục "cù lần", nhiều linh mục quan
liêu, hống hách, nhiều tu sĩ quá lo bảo vệ nếp sống của mình... Sự thật
đó thường khiến nhiều người khó chịu bực dọc; và chắc hẳn cũng có người thầm
nghĩ Thiên Chúa đã chọn lầm!!!
Nhiều
lần chúng ta có thể thấy, cứ bình thường, đáng lẽ ra Chúa phải chọn người này
chứ không phải người kia... Sự tuyển chọn của Thiên Chúa thật khó hiểu. Có một mầu nhiệm
nào trong những việc tuyển lựa ấy ? Thiên Chúa tuyển chọn theo Thánh Ý của
Ngài, chúng ta cần nhìn ra mầu nhiệm tuyển chọn của Chúa, để nhận ra mầu nhiệm
cứu độ và tôn trọng mầu nhiệm tuyển chọn ấy.
Tu
nghĩa là sửa[1].
Những người tu ngày xưa, quyết tâm hình thành nên con người trọn hảo của mình
bằng một nỗ lực tu sửa, thay đổi tính tình, dẹp
bỏ nết xấu, luyện tập nhân đức… Đó là một nỗ lực chính yếu của đời tu.
Con
đường ấy thật đáng kính trọng, nhưng không phải là không có những chỗ "lủng". Người ta thấy, không phải là hiếm, những
người đạo đức "có củ" nhưng lại ứng xử thiếu nhân bản; không phải là
hiếm những trường hợp mà các bậc đáng kính,
trong lời ăn tiếng nói, trong lập trường này khác, lại bộc lộ một cái gì sâu xa
khá ích kỷ hoặc kỳ dị
mà người ta khó có thể chấp nhận được. Nói chung, ta thấy con đường tu của thế
hệ xưa đầy tính cách luân lý và có tính duy ý chí.
Mặt
khác, cách thức tập luyện nhân đức như thế thường dựa trên một nền tảng chung
là "nhân đức chịu vậy"; nghĩa là
không tìm thấy giá trị nội tại, giá trị "hữu thể" của hành vi luân lý
mà chỉ là nỗ lực ý chí, là thái độ ráng gồng lên để chu toàn một giới luật hay một giá
trị được bao bọc bên ngoài mà thôi.
Những
người tu trẻ ngày nay thì hình như không còn bận tâm bao nhiêu đến nỗ lực tu
sửa về phương diện luân lý. Người tu sĩ ngày nay có những cố gắng thăng tiến bản thân bằng học
hành, bằng tài năng, bằng những cố gắng chu toàn trách nhiệm của mình. Đối với vấn đề đạo
đức, người tu sĩ ngày nay, nói chung, hình như để thả trôi theo nhịp sống và
thường lý sự để bao che, bào chữa cho thái độ bản thân, cho tính xấu hoặc những
sai sót của mình hơn là sửa chữa.
Con
đường của thế hệ ngày nay tỏ ra đầy tính cách duy lý.
Người ta tìm cho mình một lập trường và có thể tự cho rằng đã đủ. Người ta mạnh dạn phê bình người khác, phê phán xã hội… dựa
theo lập trường, theo mớ kiến thức của mình mà ít khi
nhận ra sai sót
của mình. Nếu quả là tư cách người tu sĩ ngày nay có bớt phần nào những thái độ
ứng xử thiếu nhân bản, kỳ dị; thì người tu sĩ ngày nay hình như lại quá dễ dàng
tranh cãi để bảo vệ lập trường của mình, dễ dàng đề cao những lựa chọn thái độ
riêng của mình.
Trong
những lập trường đầy tính thần học hoặc triết-lý- sống nặng tính cá biệt như
thế, người ta lại rất dễ bắt gặp một sự phê phán bất công với người khác; nhiều
phong cách chọn lựa thái độ chẳng qua chỉ để khẳng
định cái tôi của mình nhiều hơn là do một tinh thần sứ vụ hoặc xuất phát
từ một giá trị nhân bản sâu xa chân chính.
Mặt
khác, ta thấy tư cách thường ngày của những con người "có lập trường"
như thế lại không bộc lộ được chính quan điểm, lập trường của mình gì cả… Nếu
"vết rạn nứt" trong đường lối cũ là sự xung khắc giữa bản tính sâu xa
và nỗ lực luân lý, thì vết rạn nứt của con đường nhân bản lại là sự tách biệt
giữa lý trí và tấm lòng, giữa "lập trường" và một trạng thái tinh
thần sâu xa.
Hai
con đường ấy đối lập nhau và một bên thì thái quá một bên lại bấp cập. Tình
trạng ấy khiến cho những người "trẻ" chẳng phục người
"già", mà người "già" lại càng không thể chấp nhận được
"đám trẻ". Phản ứng lại thái độ "đạo đức", người ta thường
quảng diễn tư tưởng của Marcel Légaut [1900-?], "làm người trước khi làm
thánh", như một đường lối thuần túy "nhân bản". Không can đảm
thể hiện những nỗ lực của ý chí trong việc luyện tập nhân đức như người xưa,
người ta lại tự lấy làm đủ với những suy nghĩ, những lập trường đã học được;
không tin vào những bài học luân lý cổ xưa, người ta lại quá tin vào một vài tư
tưởng, vài nguyên lý thời thượng của xã hội… Có lẽ chính vì thế mà cả những giá
trị nhân bản đích thực cũng như những giá trị siêu nhiên chân chính đều không
đủ sức mạnh chứng tá để tạo nên một tâm thức chung, giá trị chung trong Giáo
Hội hiện nay.
Cả
hai con đường ấy, thật ra, đều là những nỗ lực mang tính cách con người và đều
tỏ ra không thành công bao nhiêu. "Tảng đá vấp phạm" thường xuyên của
cả hai đường lối này là những hoàn cảnh làm "lòi ra" cái
ngu-đột-xuất, cái "bậy bạ" xuất hiện lúc không ngờ, cái sai trái mà
ta không thể kiểm soát được… Những điều đó cho thấy, bình thường, nỗ lực tu sửa chỉ là một lớp hành vi hoặc ý thức bao bọc và xi mạ cho con người thật, vốn còn
đầy những khiếm khuyết, han rỉ ở bên trong.
Đồng
thời, cái han rỉ ấy luôn gây nên những trở ngại, những
xung đột trong cuộc sống cộng đồng. Phân tích một cuộc thảo luận, ta sẽ
thấy có rất nhiều điều người ta gân cổ lên để cãi, lại chẳng phải là một điều
gì quan trọng lắm, chẳng phải là một điều có một tầm ảnh hưởng gì trong cuộc
sống thực; hoặc chỉ là điều tôi tranh cãi lúc này, trong hoàn cảnh này, trước
người khác, còn ngoài ra tôi cũng chẳng thật sự quan tâm đến vấn đề ấy là bao…
Người ta bận tâm bảo vệ cái tôi của mình nhiều
hơn là bảo vệ chân lý hay bảo vệ lợi ích chung.
Cả
hai lối tu ấy đều giống như một người đứng dưới nước sâu; chân không đụng đến
mặt đất được mà đầu muốn vươn lên khỏi mặt nước, nên cứ phải đạp nước. Con
người tu sửa là con đường muốn vươn cao lên, nhưng không hoà giải được với
chính mình và luôn sẵn sàng chống đỡ, phê phán, "đạp"
người khác để "bảo vệ" cho đầu mình được vươn lên cao trước
mặt người khác.
Con
người, từ khoảng 4-5 tuổi, đã hình thành 50% nhân cách
của mình… thời gian còn lại dành cho con người lựa chọn, với tất cả một tâm hồn
sáng suốt, thời gian ấy chẳng được bao nhiêu. Rồi những gì còn dành lại cho tự
do của con người trước hoàn cảnh cũng chẳng dễ dàng gì…
Do
vậy, trong quá trình sống, mỗi một con người
đều mang theo mình cả một lịch sử : từ khi
trong bào thai, hoàn cảnh gia đình, ảnh hưởng của môi trường, của trường lớp,
của bạn bè…. Những điều ấy, khi con người bắt đầu biết ý thức và có thiện chí
muốn tu sửa, thì đã trở thành những vết hằn sâu trong
nhân cách, trong tâm hồn của con người rồi. Con người là mình, trước
tiên, trong chính lịch sử của đời mình. Lịch sử ấy là những gì đã hiện thực, đã
xẩy ra, đã tác động, đã được gieo vào đời; và người ta hầu như không bao giờ có
thể gạt bỏ chúng đi được nữa. Con người không thể chối bỏ lịch sử của chính
mình được.
Một
số tư tưởng triết học cũng cho chúng ta thấy rằng, khi người ta đã gieo một
điều gì vào trong thế giới, điều đó trở thành vĩnh cửu, và con người sẽ phải
chịu trách nhiệm về nó trong vĩnh cửu. Điều đó không chỉ có nghĩa là một sự xét
xử, ban thưởng hay hình phạt của một Thượng Đế tối cao, nhưng còn có nghĩa như
một qui luật của cuộc sống, một qui luật có sức mạnh của nó để phục hồi sự cân
bằng của vũ trụ…
Anaximandre
nói tới sự "bất chính đối với nhau" và "đòi "bồi thường và
thoả mãn lẫn nhau". Empédocle nói tới hai nguyên lý chính yếu trong vũ
trụ, "hận thù" là nguyên lý ly tán và "tình yêu" là nguyên
lý kết hợp; đó là những nguyên lý mang tầm mức vũ trụ; Nietzsche thì vẽ nên một
hình ảnh vũ trụ diễn tiến theo qui luật "qui hồi vĩnh cửu"…
Những
cái nhìn như thế có thể cho chúng ta thấy phần nào một sự thực : những điều ta
đã gieo vào trong cuộc đời thì không rơi vào quên lãng; và chúng ta cũng không
thể đơn giản xoá bỏ, sửa đổi chúng cách dễ dàng, bằng một thái độ luân lý cá
nhân hay sám hối "nội tâm"; nhưng còn phải chấp nhận qui luật nhân
quả trong diễn biến của nó. "Gieo gió gặt bão" hay "gậy ông lại
đập lưng ông"…
Quả
thật, đối diện với những tầng sâu trong bản chất
con người, đối diện với những qui luật mang tầm mức vũ
trụ như thế, những nỗ lực có tính cách duy ý chí hoặc duy lý đều tỏ ra quá nhỏ bé và hời hợt.
Những dữ kiện nói trên cho thấy tầm vóc của con đường tu sửa quả thật là chưa động được đến tầng sâu của nhân cách con người
cũng như chưa hoá giải được những xung đột thâm
sâu trong thế giới con người.
Trong
cuộc sống bình thường, chúng ta cũng có thể nghiệm thấy rằng con người không dễ gì có thể đổi sửa đổi tính tình, không dễ gì có thể gạt bỏ một cơn giận hay một sự thù
hằn chỉ bằng quyết tâm của ý chí hay chỉ bằng một suy tư hay ho nào. Mặt khác
một sự nỗ lực sửa đổi như thế luôn bao hàm tâm trạng
không chấp nhận chính mình. Chính điều này lại là nguồn gốc của biết bao
nhiêu lệch lạc, xung đột trong cuộc sống con người.
Như
thế, nếu con đường tu đức cũ chưa giải quyết được vấn đề con người, thì ta cũng
đường tưởng có thể thay thế bằng con đường nhân bản hoàn toàn. Có lẽ con
đường đích thực phải là : nhờ sự thánh thiện của Chúa [siêu nhiên] để có thể
nên người hơn [nhân bản]; theo đường hướng của thánh Thomas : "Siêu
nhiên không phá đổ nhưng kiện toàn tự nhiên". Lập trường đó cho
thấy : để con người có thể sống nhân bản, cần tới sự trợ lực của đời sống
siêu nhiên; và một đời sống siêu nhiên đích thực chắc
chắn sẽ làm tăng triển đời sống nhân bản của con người.
Nói
chung, với những nỗ lực luân lý, Tin Mừng của Đức Giêsu thường trở thành những
bài học; lý tưởng nên hoàn thiện như Cha trên trời thường được quan niệm như
một khuôn khổ vô ngã, thật tròn trịa, thật chuẩn mực, thật hoàn hảo; hoàn hảo
đến mức trở thành một khuôn khổ “siêu hình”. Công việc chính của đời sống đạo
là so chiếu cách sống mình với khuôn khổ chuẩn mực ấy để xác định đâu là tội và
đâu là nhân đức.
Cách
thức theo đuổi một đời sống đạo như thế trở thành như một cuộc thi tuyển, trong đó, việc công bố Tin Mừng Cứu Độ chỉ còn là “đề
bài”, Tin Mừng trở thành “tài liệu học tập”, nỗ lực
sống đạo giống như việc làm bài thi và hy
vọng một số điểm vượt qua mức trung bình….
Chúng
ta có thể thấy lối sống đạo của đa số người tín hữu chỉ là một nỗ lực tuân giữ 10 điều răn, nỗ lực từ
bỏ tội lỗi và lập công phúc cho cuộc sống mai sau. Lối sống đạo ấy, một
cách nào đó, biến Kitô giáo thành một trong các thứ đạo dạy người ta "ăn ngay ở lành"; trong khi nét đặc
trưng của Tin Mừng cứu độ là một thứ đạo, có thể tạm nói là : cùng với Chúa
Giêsu để đi con đường "ăn ngay ở lành.
3.1 MẠC KHẢI VỀ CON NGƯỜI
Mười
một đoạn đầu sách Sáng Thế có thể hiểu được là chính khoa "siêu hình
học" của Thánh Kinh, trong đó, những vấn đề cơ bản của con người mọi nơi
mọi thời được diễn tả bằng những câu chuyện thật ý nghĩa. Ta có thể tìm thấy
một vài ý nghĩa cơ bản như sau :
- Con
người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Do ảnh hưởng của
triết học Hy Lạp, có giáo phụ đã giải thích con người giống hình ảnh Thiên Chúa
ở chỗ con người có lý trí khôn ngoan. Quả thật, nhờ lý trí con người có khả
năng tham dự vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa [Adong đặt tên cho muôn
vật, St 2,19b]. Tuy nhiên, điều đó không phải là điều chính; bởi vì, trước hết,
việc đề cao lý trí khôn ngoan không hợp với não trạng của người sémitique vốn
đề cao tương quan hơn. Ta còn thấy trong truyền thống Do Thái có một sự úy kỵ
sâu xa với kiểu khôn ngoan của các nền văn minh xung quanh [con rắn là loài xảo
quyệt, cây cho biết điều thiện điều ác, Cain là kẻ định cư khôn ngoan… Xc. 1Cr
117-31]. Cuối cùng, ta thấy khi ông Adong đã phát huy hết khả năng lý trí của
mình để thống trị muôn loài, thì ông thấy cô đơn vì "không tìm được cho
mình một trợ tá tương xứng" [St 2, 20b]. Chỉ khi gặp Evà, Adong mới
phát lên tiếng reo vui biểu hiện sự thành đạt của phận người: "Phen
này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi" [St 2,23]. Như
thế, ta có thể hiểu rằng, lý trí khôn ngoan chỉ
là một điều kiện cần thiết để con người được tự do đi
vào tình yêu thương.
- Ma quỉ là kẻ chống lại Thiên
Chúa, thì cũng chống lại tình thương. Chính ma quỉ đã
gieo vào thế gian một yếu tố hủy hoại, yếu tố chống lại Chúa yêu thương.
Ta tạm gọi yếu tố ấy là sự ích kỷ. Một cách
tổng quát và căn bản, ta có thể nói được rằng : tất cả mọi tội lỗi đều là ích
kỷ; và tất cả mọi nhân đức đều là yêu thương,
"Yêu thương là chu toàn lề luật vậy" [Rm 13,10b]], "Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng" [1 Ga 2,10]; "tất
cả luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy"
[Xc Mt 22,40]….
Tựu
trung, con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là con
người thiết yếu được mời gọi sống với Thiên Chúa; nghĩa là con người có vận mạng "siêu nhiên" và chỉ có thể hoàn
thành cuộc đời mình khi trở về với Thiên Chúa, khi thực hiện bản chất yêu thương đã được Thiên
Chúa ghi khắc trong hữu thể của mình. Trong hiện trạng cuộc sống, tất cả
vấn đề của con người có thể gồm tóm trong một cuộc đấu tranh giữa tình yêu và
ích kỷ[2].
Như thế, ta cũng hiểu ra rằng sức mạnh để con người sống cuộc sống này, sống
bản chất và hoàn thành vận mạng của mình, không là gì khác hơn tình yêu thương.
3.2 CON NGƯỜI NÊN ĐẸP NHỜ TẤM LÒNG
Nếu người ta không thể từ chối
được cái gì đã hoàn thành, thì người ta lại có thể "hoá giải" tính
chất tệ hại của thực tại ấy bằng cách thêm vào đó những yếu tố mới. Thật ra,
hoàn cảnh nào, tâm tính nào cũng có thể trở nên đẹp,
khi ta biết đưa vào đó một tình yêu hoặc "một chút tấm lòng".
"Tấm
lòng", đó là khả năng đón nhận người khác;
hội nhập những vấn đề của người khác trong sự an hoà, bao dung, quảng đại, từ
bi… Người có tấm lòng là người có khả năng "chạnh lòng thương" trước
vấn đề của người khác. Hơn nữa, người có tấm lòng là người có thể "ở
trong" tha nhân [triết học là tham-thông hoặc cùng-nắm-bắt / com-prendre]
hoặc cùng-sinh-ra trong một vấn đề với tha nhân [connaitre, c' est co-naitre].
Người có tấm lòng là người có thể cảm nhận một vấn đề trong bối cảnh của cuộc
sống, trong lịch sử của một con người, trong niềm liên
đới và cảm thương đối với con người.
Với
tấm lòng, những tâm tính đã ăn sâu vào con người được định hướng, được thu gom
trong tình yêu để hướng tới sự cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Với tấm lòng, con
người vẫn luôn là mình trong chính lịch sử của mình. Với tấm lòng người ta có
khả năng chấp nhận bản thân, chấp nhận cuộc đời, chấp
nhận tha nhân. Tầm lòng có thể làm cho những điều giới hạn, sai sót,
những tâm tính không sửa được lại có một nét độc đáo và dễ thương riêng. Nó làm
cho con người tôi là tôi, và con người của tôi được hoàn trọn trong tình yêu.
Với tấm lòng, người ta có còn thể chấp nhận tha nhân
dễ dàng hơn; chấp nhận được cả khuyết điểm
của tha nhân, chấp nhận và hướng tới một tình yêu thương vô điều kiện. Thái độ
đó biểu lộ một cái nhìn minh triết : không chỉ nhìn cuộc đời là những mảnh vụn
mà ta nỗ lực uốn nắn hoặc phê phán, nhưng cảm được sự
"liên lụy" và "hiệp thông" sâu xa.
Ở
đây, điều quan trọng nhất không còn là nỗ lực sửa chữa theo kiểu uốn nắn, cắt
tỉa, rèn luyện… nhưng là đón nhận, là chân nhận tất cả và qui hướng chung vào
nguồn mạch chung, "nhuộm" chúng trong
một mầu sắc chung của tình yêu thương.
Chính
vì thế, Thiên Chúa đã muốn cứu độ con người bằng cách ban cho con người một
Tình thương lớn lao hết hết mọi tình thương, tình thương trong Đức Kitô, tình
thương của Đấng dám hy sinh cho bạn hữu của mình
"Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của
người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu"[Ga 15,13]
Tình
thương lớn lao ấy có năng lựa giải thoát, có khả năng cứu độ con người :
"Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ,
nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách" [1 Pr 2,18].
4.1 KHỞI TỪ VIỆC CHẤP NHẬN CHÍNH MÌNH
Cái
"vết nứt" căn bản bên trong của những
con đường tu đức chính là tâm trạng không chấp nhận
chính bản thân mình; và đồng thời cũng không
chấp nhận tha nhân trong những giới hạn và sai sót của tha nhân.
Chính
vì không chấp nhận cuộc đời mình, nên mỗi người thường phải sáng tạo nên biết
bao nhiêu chiếc mặt nạ cho mình, những chiếc
mặt nạ để dùng cho những hoàn cảnh khác nhau : người ta phải tỏ ra đau để trình bầy nỗi đau của mình về bệnh tật,
và người ta lại càng đau thật, đau hơn với chiếc “mặt nạ đau” ấy; người ta phải
tỏ ra trí thức với người trí thức và rồi cố để
đừng lòi ra cái dốt của mình; người ta phải tỏ ra
nghiêm túc trong công việc trước mặt người khác do vị thế “cao cả” của
mình v.v... Thế là người ta phải gồng lên để che mặt nạ, để giữ mặt nạ khỏi rớt
xuống để tô vẽ thêm cho mặt nạ của mình. Những
chiếc mặt nạ ấy sẽ dần dần trở nên những gánh nặng nề
khủng khiếp đối với tâm hồn.
Chính
việc hoà giải được mình với mình, nghĩa là chấp nhận thực tại của cuộc sống,
chấp nhận giới hạn và khiếm khuyết của bản thân mình, có thể thực sự mang lại
sự giải thoát khỏi những gánh nặng lớn lao của cuộc đời. Khi mối bận tâm lớn
của ta không còn là đeo mặt nạ, khi ta bình thản
được trước những khiếm khuyết của bản thân, khi
ta không bị áp lực nhiều của những lời người khác khen chê, khi ấy, ta có thể
bình an và vững vàng đảm nhận chính cuộc đời mình.
Như
thế, thay vì tu sửa để được chấp nhận và bắt người khác phải sửa đổi để được ta
chấp nhận, có lẽ ta nên chọn con đường khởi đầu từ sự chấp nhận chính bản thân
mình, chấp nhận lịch sử, chấp nhận tính tình, chấp nhận chính nết xấu của mình
trước đã.
Không
phải ngẫu nhiên mà Thalès đã nói điều khó nhất là
"biết mình" [và điều dễ nhất là "cho người khác một lời
khuyên"]; không phải vô lý mà Socrate chọn cho mình câu châm ngôn
"hãy biết chính mình". Cái khó nhất ấy và cái cần thiết ấy, khi chưa
làm được, người ta dễ vạy vò trong tâm hồn và gây nên bao nhiêu điều trục trặc
trong cuộc sống.
4.2 TRỞ NÊN BÉ MỌN ĐỂ HÒA GIẢI MÌNH VỚI MÌNH
Con
đường tu sửa chân chính phải khởi đầu bằng việc nhận thức rõ những khuyết điểm
của mình. Rồi nhờ xác tín Chúa chấp nhận mình, ngay khi mình còn là tội
nhân, để có thể hoà giải mình với mình. Nói khác đi, nếu biết nhìn nhận
cách chân thực bản thân của mình, mỗi người đều có thể nhận ra cái nghèo của mình. Như thế, tất cả mọi người đều
được mời gọi phó dâng gánh nặng đời mình cho Chúa để tìm thấy được “tâm hồn anh
em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
“Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh
em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và
gánh tôi nhẹ nhàng” [Mt 11, 25-30]
Từ
đó, người ta mới có thể hoà giải với tha nhân và tìm được một mặt bằng vững
chắc để, nhờ Chúa và nhờ anh em, mà vươn lên trong tình yêu, trong tu đức,
trong nhân đức…. Con đường này cần được khởi đầu vững chắc bằng thái độ dám chơi đùa với chính khuyết điểm của mình. Cần chân
nhận bản thân mình trong giới hạn thật của mình để thoát được thái độ né tránh
hoặc "ngụy tín" [J.P. Sartre]; cần thâm cảm khuyết điểm của mình để
không trút sự bực dọc lên tha nhân; và hơn hết, cần "mỉa mai" với chính bản thân mình [Kierkegaard]
để không dồn hết năng lực cho những lời bào chữa,
những phản ứng phòng vệ vớ vẩn. Phải chăng đó
cũng chính là con đường của Thánh nữ Catarina khi Ngài chủ trướng rằng điểm
khởi đầu của đời sống tâm linh là biết mình trong ánh sáng đức Tin ?
4.3 NHỜ CHÚA GIÊSU ĐỂ HÒA GIẢI VỚI CHÍNH MÌNH
Bình
thường, phương cách để hoà giải mình với mình chính là tìm được một tâm hồn trong sáng, bản lãnh, trưởng thành. Tuy
nhiên, điều ấy không phải là dễ ! Chỉ có những con người cao cả, những bậc đức
độ anh hùng mới có thể thực hiện được.
Mặt
khác, hầu hết những gánh nặng cuộc đời không phải là do những thách thức “bên
ngoài”, mà là gánh nặng phải mang vác chính cuộc đời mình. Những thứ gánh nặng
của cuộc đời luôn bao hàm hay dính liền với gánh nặng phải mang vác chính bản
thân mình, vì phải chịu trách nhiệm, vì cô đơn trong trách nhiệm, hoặc vì phản
kháng lại cuộc đời… Con người ta thường trốn tránh nỗi "xao xuyến" về
bản thân mình, để qui tất cả những khó khăn trong đời mình thành những nỗi sợ
hãi" về những trục trặc bên ngoài mình; và chính cái gánh nặng của bản thân
như thế lại là yếu tố làm gia tăng gấp nhiều lần những gánh nặng bên ngoài của
cuộc đời.
Nhưng
nếu người ta không thể dễ dàng chấp nhận được cuộc đời mình, thì người tín hữu lại được kêu gọi để cho Thiên Chúa chấp nhận
chính mình. Khi Chúa Giêsu kêu gọi những người bé mọn, “những người
vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng tôi”, Chúa Giêsu kêu mời mọi người
sống huyền nhiệm “người nghèo của Giavê”. Đó không phải là một sự hoà
giải với chính mình bằng thái độ anh hùng và sáng suốt của bản thân, nhưng là sự
hoà giải nhờ nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho mình, nhận ra
thánh ý nhiệm mầu “Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết
những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”, để cũng tìm
thấy được niềm hân hoan lạ lùng như Đức Giêsu “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất,
con xin ngợi khen Cha”. Đây là con đường hoà giải với chính mình nhờ tương
quan yêu thương, nhờ được chấp nhận.
4.4 NHỮNG MẢNH
ĐỜI TRUYỆT DIỆU
Có
khi, đúng hơn là thường khi, một con người, chẳng mấy tốt lành hơn ai, những
lại luôn buồn bực vì những thái độ của người khác. Trong khi chính mình bị phê
bình, người ta vẫn không ngừng phê bình người khác; trong khi, thật ra, mình
cũng chẳng hay ho gì hơn ai, người ta lại cứ luôn luôn có thể chê bai hay ít là
khó chịu về những điều không hay của người khác. Ngẫm nghĩ ra ta thấy cuộc đời
thật cũng lạ ! Mỗi người chúng ta đều có lúc thật "hồn nhiên" kêu ca người khác [người dưới với người trên]; chửi rủa người khác
[những người ngang hàng với nhau], quở mắng
người khác [người trên với người dưới]; có biết bao người vẫn luôn cằn nhằn,
trách móc, than phiền, bực tức... về người khác, mà lại là bực tức về những
chuyện mà chính mình đang vướng mắc và cũng đang làm bao người khác phải khổ
tâm.
Hình
như bài học "khó nhất" của cuộc đời là bài học chấp nhận người khác
như là họ, một sự chấp nhận "vô điều kiện". Hình như thái độ của
con người với nhau, bình thường, là thái độ đòi hỏi người khác. Mỗi người chúng
ta vẫn thường làm một cuộc thi tuyển để "tuyển
chọn" ra "người thân cận"
của mình ["Nhưng ai là người thân cận của tôi ?"/ Lc 10,29b].
Cuộc thi tuyển ấy quả thật gắt gao hơn bất cứ một cuộc thi tuyển nào khác.
Không dễ ai có thể vượt qua; càng không dễ có ai có thể giữ vững trình độ, giữ
vững phong độ để ở lại mãi trong "trường người thân cận" của tôi. Và
có thể lắm, chính sự tuyển lựa gắt gao quá sức của "trường đại học người
thân cận" này là nguyên nhân chính khiến cho người ta luôn thiếu
"nhân sự", khiến cho đời người luôn cô đơn, khiến cho cuộc sống luôn khó chịu, khiến cho tâm hồn con người
bị dằn vặt vì những nỗi khổ từ đủ phía, do mọi
người ! Bởi vì "bệnh tật" là chuyện
của con người; "cù lần" là thực chất
của mọi người; mỗi người đều có cái lẩm cẩm của
mình.
Nói
thế, không có nghĩa là cuộc đời này không có "người thân cận" đích
thực. Chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những mối tình vượt qua "sự đòi
hỏi" của lẽ thường tình để biết chấp nhận nhau, nhất là chúng ta nhận ra
có một mảnh đời thật là tuyệt diệu về vấn đề này : nơi gia đình, người ta có
thể học được bài học mà không dễ ở nơi đâu có được, bài học chấp nhận
nhau vô điều kiện. Trong gia đình, người ta được kêu mời chấp nhận nhau vì
chính con người của nhau; chấp nhận nhau vì là chồng là vợ của mình, vì là anh
em một nhà. Nhất là trong trường hợp cha mẹ với con cái : cha mẹ chấp nhận đứa
con của mình bất cứ giá nào. Cha mẹ luôn là người có thể chấp nhận đứa con của
mình. Cha mẹ muốn con giỏi, muốn con ngoan, muốn con khỏe mạnh... Nhưng nếu con
yếu đau, dốt nát và khó dạy, thì chúng vẫn là con, và cha mẹ vẫn thương con của
mình như một con người không thể thay thế.
Tình
yêu thương vô điều kiện không phải là lòng thương hại; vì thương hại là tình
thương chỉ dành cho những người đau khổ, những người nghèo hèn. Người ta thường
không dễ chia vui với người khác, nhưng lại dễ chia buồn với người khác, đó là
lòng thương hại. Tình yêu vô điều kiện là yêu thương người khác như là họ; họ
tốt, họ gặp may lành thì ta mừng; nhưng nếu họ có cù lần, họ bê bối thì ta cũng
vẫn chấp nhận họ như là người thân của mình. Nhiều người cha, người mẹ quở mắng
con cái và kêu lên rằng : mong cho chúng mày đi đâu khuất mắt... nhưng khi con
bị tai nạn, ngã bệnh, hoặc bị giam trong tù, thì chính cha mẹ, bình thường, là
những người đau đớn hơn ai hết, tìm đến chăm sóc, xách giỏ thăm nuôi. Đây là
tình yêu vô điều kiện.
Cái
mảnh đời tuyệt diệu ấy khiến cho đời người bôn ba trăm nẻo vẫn còn có chốn để
trở về, có nơi để tâm hồn được nương tựa; khiến cho tình mẫu tử trở nên
tình cảm sâu sắc nhất của con người; khiến cho ca dao về mẹ luôn là những áng
văn chương phong phú và tuyệt diệu nhất...
Chính
kinh nghiệm được chấp nhận trong đời sống gia đình giúp con người có thể sống thật với mình, bớt thái
độ phòng thủ, bớt mặc cảm, bớt “đeo mặt
nạ”.... Chính kinh nghiệm được chấp nhận “vô điều kiện” như thế giúp con
người thoát khỏi nỗi sợ sâu xa, nỗi sợ về bản thân mình, nỗi sợ về những mối
tương quan xung quanh mình. Những nỗi sợ như thế mang dáng dấp nỗi sợ của ông
Adong và bà Evà trong vườn địa đàng, và nó là căn nguyên của biết bao trục trặc
trong đời sống con người.
Hình
như "bí quyết" để có thể chấp nhận người khác vô điều kiện, đó là coi
người khác như là "của mình" ! Cha mẹ không phải là những người
luôn có thể chấp nhận người hàng xóm vô điều kiện, vì người ấy chưa phải là
"của mình". Chính vì thế, ta chưa thể nói người nào đã làm cha làm mẹ
thì đều có thể chấp nhận mọi người cách vô điều kiện; ta chỉ nói tới những
"mảnh đời" tuyệt diệu.
4.5 THIÊN CHÚA CHẤP NHẬN TA “VÔ ĐIỀU KIỆN”
Nhưng
mảnh đời tuyệt diệu ấy, theo thánh Phaolô, lại mới chỉ là phản ảnh, là hoa trái
của tình yêu của Thiên Chúa : “Vì lý do đó, tôi quì gối trước mặt Chúa Cha, là
nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” [Ep 3,14]; và nếu thực sự con
người cần tới tình yêu thương vô điều kiện như thế; nếu thực sự tình yêu như
thế là điều quí trọng nhất trong tâm khảm con người, trong cuộc đời con người,
thì chúng ta cũng có thể nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận ta
cách cao thượng, quảng đại, "vô điều kiện" hơn rất nhiều.
Chương
trình giải phóng và cứu độ của Thiên Chúa,
trước hết, lại chính là sự chấp nhận vô điều kiện
của Thiên Chúa đối với con người, để nhờ sự chấp nhận của Thiên Chúa mà con người có thể hoà giải mình với mình; và nhờ đó mà
hoà giải được với anh chị em của mình. Con đường đó chỉ có thể là con đường của
tình yêu thương "vô điều kiện", qua đó Thiên Chúa chấp nhận ta, ngay
trong tình trạng tội lỗi của ta.
“Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì, vì còn là
hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như
không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám hết vì một người lương
thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là
những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Phương chi bây giờ, chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn
chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ngay
khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người
phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ, chúng ta
đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy.
Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” [Rm 5,
6-11; xc. Rm 8,31-39; 1Ga 4, 9-10; hoặc Ga 15, 1-15].
Thiên
Chúa yêu thương và chấp nhận ta vô điều kiện, đó là chân lý có thể mang lại sức
mạnh giải thoát cho con người. Tình yêu thương như thế không có nghĩa là mù
quáng, không phải là nguyên nhân của thói ỷ lại, nhưng là tình yêu thương có thể thực sự giúp con người vươn lên.
Trước
hết, tình yêu thương đó làm cho con người tìm thấy bình
an. Khi tôi được quí mến và được khen ngợi vì tài năng hay đức tính của
mình, tôi biết rằng thế nào cũng có lúc tôi bị chê bai; vì tôi không thể nào
giữ mãi được "phong độ" của mình, như một cầu thủ, như một đội bóng
không thể nào mãi mãi ở đỉnh cao của tài năng. Nhưng nếu tôi được chấp nhận
ngay khi tôi cù lần, ngay khi tôi ở trong vũng lầy, tôi biết rằng tôi được chấp
nhận "vô điều kiện". Khi đó, không phải đức tính của tôi được chấp
nhận, nhưng là chính con người của tôi.
Sự
chấp nhận của Thiên Chúa như thế còn mang lại sự giải thoát cho con người khỏi nỗi cô đơn, thứ cô đơn đã tạo nên biết bao hậu quả
tai hại trong cuộc sống con người, thứ cô đơn làm cho con người đeo mặt nạ, luôn phải gồng
mình "tỏ ra" mình thế này thế
kia; luôn phải cố gắng "chọn một lập trường"
khác với người khác, thứ cô đơn làm cho con người phải lo lắng để có thể được
người khác chấp nhận.
Hơn
nữa, sự chấp nhận của Thiên Chúa có thể giúp người ta vượt qua được một thứ cô
đơn mang tầm mức "siêu hình", vốn là
"gia sản" của thân phận của con người bị cắt đứt khỏi tình yêu, bị
thống trị trong tình trạng tội lỗi. Đây không phải chỉ là một sự cô đơn tâm lý,
do thiếu sự hiện diện của người khác, nhưng là thứ "cô đơn" vì phải
một mình chịu trách nhiệm về vận mạng đời mình.
Con
người phải làm chủ chính mình và phải đảm nhận cuộc đời mình, phải chịu trách
nhiệm về cuộc sống của mình, phải bước đi bằng đôi chân của mình... Không ai có thể sống dùm chịu trách nhiệm dùm cho "cái
tôi" này cả. Điều đó là thật! quá thật ! Hết sức đúng với thân phận
con người ! Nhưng đó cũng là giới hạn căn bản của con người, giới hạn
"siêu hình" của con người, giới hạn làm nên nguồn gốc mọi trục trặc
trong đời sống của con người; trong khi mà con người, tự bản chất, là tình yêu,
là tương quan; trong khi con người lại luôn "nghe" trong căn cốt của
mình lời kêu gọi thống thiết : sống tương quan với người khác, trở nên một với
chính Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa Ba ngôi đã được ghi khắc trong tâm hồn
của mình.
Trong
tình trạng đó, nếu con người có cố gắng hết sức, thì cũng chỉ có thể vươn lên
cao nhất trong hình ảnh một người anh hùng cô đơn theo kiểu "chủ nghĩa anh
hùng"; đó là thái độ chấp nhận căn bản chính "thân phận dở dang"
của kiếp người ! Điều đó phải chăng là nét cao cả nhất của "chủ nghĩa nhân
bản"? Nhưng, nét cao cả đó, đồng thời, cũng là nét bi tráng nhất của thân
phận con người.
Những
lời của Thánh Phaolô cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa đâu phải chỉ là sự trợ
giúp bên ngoài, đâu phải chỉ là xuê xoa tình trạng khốn khổ của con người,
những còn là một sự liên đới trách nhiệm nay trong ngôi vị của con người; đó là
hồng ân mà chúng ta đã được lãnh nhận trong bí tích Thánh Tẩy: "Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.[...]. Thật
vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để
cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, [...].
Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa”.
Khi
Thiên Chúa chấp nhận con người cách “vô điều kiện”, không có nghĩa là Ngài bằng
lòng với tình trạng tội lỗi của con người. Ngược lại, chính kinh nghiệm được
chấp nhận lại là một sức mạnh căn bản để con người sống theo đường lối và giới
răn của Chúa, và chắc chắn cũng là nền tảng "nhân học" để thực
hiện vận mệnh đời người, trong niềm xác tín "bản
chất con người là tương quan". Tôi biết chắc rằng, nếu tôi có
trở thành một tên tội phạm đang ghét nhất thế gian, bị mọi người loại bỏ, thì
tôi vẫn được mẹ tôi chấp nhận và yêu thương. Nhưng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ
rằng mình cứ việc bê bối, bậy bạ vì mình đã được mẹ chấp nhận vô điều kiện như
thế. Thói ỉ lại xuất hiện do một thứ "tự do" phóng túng của con
người.
V. KẾT
1. Như thế, có lẽ chính vì phải
"chọn lựa" những con người cù lần cho nên Chúa phải thức suốt đêm;
nếu chỉ cần chọn lựa những người ngon lành, thì có lẽ Chúa chỉ cần một giờ là
đủ. Nhưng trong mầu nhiệm tuyển chọn này, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm khi
thi hành việc tuyển chọn này, vì tuyển chọn tức là
chấp nhận, là chấp nhận vô điều kiện,
tức là yêu thương cả những gì cù lần nơi các ông ấy; và đó mới là mầu nhiệm
tuyển chọn trong tình yêu thương đích thực.
Như
thế, những vấp ngã, tội lỗi, đam mê... không thể
làm cho người ta bị Thiên Chúa ghét, nhưng lại càng trở nên đối tượng được Thiên Chúa quan tâm hơn. Người chăn chiên dám bỏ
99 con khác để đi tìm con chiên lạc cơ mà. Chỉ có những đứa con “hoang dàng”
không muốn trở về nhà là không đón nhận được ân huệ, sự chữa trị, là trốn chạy
việc tìm kiếm của Thiên Chúa.
Như
thế, xác tín mầu nhiệm tuyển lựa của Thiên Chúa, chúng ta cũng nhận được sức
mạnh để biết chấp nhận tha nhân nhiều hơn. Sống mầu nhiệm tuyển chọn của
Thiên Chúa trong cuộc đời nghĩa là cảm thông cuộc đời, cả trong tính cách cù
lần cù lèo của nó; cảm thương cho cuộc đời con
người, cũng như cảm thương cho chính cuộc đời mình.
2. Nhận ra sự bất lực của con
người không có nghĩa là rơi vào tuyệt vọng. Việc nhận ra sự bất lực ấy, đối với
người Kitô hữu, là cánh cửa mở ra với ơn cứu độ Thiên Chúa, là bước đường để
đón nhận với hết lòng trân trọng sự chấp nhận vô điều kiện của Thiên Chúa một
cách sung mãn. Có thể nói được rằng, nét đặc trưng của kinh nghiệm cứu độ Kitô
giáo là : "Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" [2 Cr 12,10b].
Chúng
ta có thể thấy trong kinh nghiệm của Têrêsa Hài Đồng Giêsu, qua sự trình bầy của
cha Bernard Bro, một lời chứng hùng hồn về “huyền nhiệm” chấp nhận mình nhờ
được Thiên Chúa chấp nhận :
“Sự say mê
khao khát Đấng-Là-Tất-Cả, giữ mình không vương tội nhơ, hy sinh tuổi thanh xuân
trong dòng tu chiêm niệm, trải qua một cuộc đời
khắc khổ để rồi chìm vào đêm tối của hư vô ! Thử hỏi ai có thể kham nổi
một lộ trình như thế ?
Đối với Têrêsa, giờ của sự thật đã điểm để chị đảo ngược tất cả:
“Chúa chỉ cho tôi được nhìn thấy chân lý“ [C.J., 4.8.3].
“Than ôi, tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ như trước kia, không tiến lên được chút
nào. Tuy nhiên, tự nhủ như vậy mà lòng tôi vẫn hòa dịu, không phiền muộn. Nhận
thấy mình yếu đuối hèn mọn là điều êm ái biết bao” [C.J., 5.7.1].
Tê-rê-xa đã
khám phá ra khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa trong
con người Đức Giêsu Kitô, Người đến với ta trong dáng vẻ yếu đuối, và
như một kẻ hành khất, chờ mong được chúng ta tin cậy. Chị biết đã đến lúc phải
cậy trông một cách toàn diện. Không phải để làm điều gì tốt, mà là để chấp nhận
mình bị vượt qua mãi mãi bởi tình yêu vô biên đang ở trước mặt chị.
Đối với chị
cũng như đối với người trộm lành, đối với thánh Phêrô, người phụ nữ Sa-ma-ri,
cũng như đối với lớp người nghèo hèn và những kẻ tội lỗi, bước tiến vạn nan đã
trở thành bước tiến dễ dàng [le pas de l' impossible est possible]. Chính niềm
tin đã kéo những cái tưởng là quá xa vời vào trong tầm tay của chúng ta.
Thái độ
chấp nhận đau khổ mà lòng không chua xót, chấp nhận bị đè bẹp bởi mệt mỏi, bất
tài, bất lực, và có lẽ bởi tội lỗi nữa, thái độ ấy là con đường dẫn đến tinh
thần khó nghèo được Thiên Chúa ban cho mọi sự.
Trong một
lúc Tê-rê-xa phá vỡ khá nhiều uy hiếp từ bao thế kỷ đã bóp nghẹt Kitô giáo trên
đường phát triển, chúng từng đè nặng trên chúng ta từ thời Giáo Hội nguyên
thủy.
Nhiều thế
hệ đã ngộ nhân rằng : hễ là tín đồ Đức Kitô thì
bắt buộc phải oai hùng, phải thiện hảo, phải luyện cho mình lòng sắt đá giống
bậc thần linh, noi gương trường phái khắc kỷ Hy Lạp hay Rô-ma... phải thiện hảo mới đến gần được Thiên Chúa. Mẫu
người đó tất nhiên là cao quý, nhưng không đúng với tôn chỉ Tin Mừng.
Tê-rê-xa lớn tiếng cải chính ngộ nhận đó. Con đường
nhỏ hẹp của thánh nữ mở ra, đón mời tất cả mọi người,
từ người khao khát hy vọng cho đến kẻ tuyệt vọng. Thử thách của số mệnh có thể
trở nên con đường băng qua đêm dài đen tối tiến ra ánh sáng, con đường của niềm
tin, con đường tìm thấy Thiên Chúa.
Những đặc ân xưa kia xem như dành riêng cho tầng lớp
được ưu đãi, cho những nhà thần bí được người đời trọng vọng, nay chị Têrêsa
cho chúng ta thấy những diễm phúc đó được Thiên Chúa
đề nghị ban phát cho khắp cả mọi người. Chính thế, lo âu, sợ hãi, cám dỗ,
mệt mỏi của anh chị em, tất cả gánh nặng đó có thể trở nên con đường của Thiên
Chúa.
Ở đây,
Têrêsa gặp những kẻ nghèo khó nhất, tay trắng nhất, sa đọa nhất trong chúng ta,
những kẻ mất hết điểm tựa. Đồng thời chị cũng gặp những người làm cách mạng lớn
nhất, nhưng kẻ nổi loạn lớn nhất, những người chỉ muốn trông cậy vào sức riêng
họ mà thôi”
Bernard Bro O.P. Niềm Cậy Trông
Bất Khuất;
bản dịch của An-tôn Lê Văn Lộc
trang 170-172
"Thật
vậy, sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha - Thiên Chúa duy nhất và chân thật -
và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô [Ga 17,3]. Do đó, trọn
cuộc đời Kitô hữu như là một cuộc hành hương vĩ đại đi về Nhà Cha, trong đó mỗi
ngày ta lại tìm thấy tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa đối với tất cả mọi
người, nhất là đối với đứa con hoàng đàng [Xc. Lc 15, 11-32]"
Đức
Gioan Phaolô II, Tông Thư "Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba", ngày
10-11-1994, số 49]
[1] Đối với người Việt Nam, tu sĩ hay chủng sinh, linh mục triều đều là người đi tu. Cách hiểu ấy không phải không "hợp tình", vì tất cả đều đi vào con đường từ bỏ và tu sửa.
[2] Xc. Rm 7,21-23; 8,13;5,17 tt