Vấn đề cúng bái tổ
tiên (ở Việt
(dongten.net)
(Đỗ
Quang Chính, S.J.)
Trong Chương này,
chúng ta nhìn lại việc cúng bái tổ tiên đã được Giáo hội VN “hoà mình” đến đâu
từ thế kỷ XVII; nhưng sang đầu thế kỷ XVIII, Toà thánh dứt khoát nghiêm cấm
cách thế tôn kính tổ tiên của người tín hữu ở Trung Quốc cũng như ở VN và những
nơi quen thi hành kiểu cách đó, nói chung là cấm việc cúng đồ ăn, dâng hương
nhang, bái lạy người quá cố, đốt vàng mã, cùng tất cả những cách thế mà theo
cái nhìn của Công giáo Tây phương, cho là nhuốm màu sắc mê tín dị đoan. Toà
thánh cũng cấm người tín hữu lập bàn thờ tổ, đặt bài vị trong nhà, cách riêng
không được kính thờ đức Khổng Tử.
Dưới đây, xin nói sơ qua:
- Cúng bái, giỗ chạp ở
Việt
- Một số nhà truyền
giáo ở VN tán thành cúng bái tổ tiên;
- Toà thánh can thiệp.
I. Cúng bái, giỗ
chạp ở Việt Nam
Tại Việt nam cũng như Trung Quốc và mấy nước
lân cận ít nhiều chịu ảnh hưởng của Khổng giáo từ lâu đời, đặc biệt đề cao lòng
hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên hơn nhiều dân tộc khác, ít là qua các hình
thức bên ngoài. Lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ chẳng những phải thể hiện
rõ nét khi cha mẹ còn sống, mà cả khi các ngài đã qua đời. Chính cách thể hiên
hiếu thảo ở xứ ta đối với người đã khuất mới là vấn đề trong muc này.
Từ giờ phút cha mẹ hấp hối cho đến khi an táng
xong, biết bao việc phải làm theo phong tục luật lệ đất nước, trong đó có có
những lề thói dân sự và cả những nghi lễ ít nhiều mang tính chất tín ngưỡng,
như cúng bái, cầu siêu… Những lề thói dân sự ấy nhiều khi còn là những điều
luật quá nghiêm khắc, làm khổ trăm dân bao đời, dù có tính cách quôc gia, nghĩa
là do nhà vua ban hành cho toàn dân phải tuân giữ. Chỉ riêng về tang chế cũng
đã rất phức tạp. Ví dụ: theo luật Hồng Đức, tức là thời vua Lê Thánh tông từ
1470-1497, quy định từ điều 18-33 về việc để tang như thế nào: anh chị em cùng
cha khác mẹ, các con, cha mẹ vợ, dưỡng mẫu, đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu, xuất mẫu,
thứ mẫu, kế phụ, bà ngoại, mẹ nuôi (vú nuôi), mẹ tái giá, đoản tang, đại tang,
rút tang phục…[1].
Việc để tang là bó buộc, không thi hành đúng
luật, bị phạt. Theo Hồng-Đức thiện chính thư, điều 128 hình phạt như sau:
“Ai được tin ông, bà, cha mẹ và chồng chết, mà
giấu giếm đi không phát khóc, đàn ông thì sẽ bị tội đồ làm khao đinh [tù cắt
cỏ]; đàn bà bị đồ làm phu nhà hái dâu (nuôi tằm). Nếu đương có tang mà bỏ áo
tang mặc áo đẹp, quên sự thương sót [xót] mà nghe âm nhạc, cùng là dự tiệc vui,
đàn ông sẽ bị tội trượng tám chục, thích vào chán [trán] bốn chữ, đồ làm lính
cày ruộng, đeo một giây sích, bắt đi công tác ở châu xa; nếu là tang người thân
một năm (mà phạm lỗi kể trên), thì đàn ông bị tội trượng tám chục, thích vào
chán [trán] hai chữ, đồ làm lính tượng-phường [lính quét dọn chuồng voi]; đàn
bà bị đánh năm mươi roi, thích vào chán [trán] hai chữ, đồ làm đứa ở nhà nấu
cơm; nếu là tang đại-công (chín tháng), thì đàn ông bị trượng tám chục, đồ làm
khao đinh; đàn bà bị đánh năm mươi roi, đồ làm phu nhà hái dâu; nếu là tang
tiểu-công (năm tháng) đàn ông bị tội trượng tám chục, là quan chức thì bị đồ
làm lính ở nha môn Tỉnh hay Viện xứ mình; nếu là quân nhân, thì đồ làm lính trong
quân đội của mình, mà nếu là dân, thì đồ làm lính trong xã mình; đàn bà thì bị
đánh năm chục roi; nếu ỉà dân thì bị đồ ở bản xứ, nếu là mạng phụ, thì bị đồ
làm đàn bà làm vườn; nếu là tang phục ty- ma (ba tháng), đàn ông thì bị tội
trượng tám chục, đàn bà bị đánh năm mươi roi”[2].
Thời gian để tang từ 3 tháng đến 3 năm đối với
những người họ hàng với nhau trong 56 bậc, từ cố ông cố bà, cụ ông cụ bà, ông
bà, cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị em, đến cháu chắt trai gái v.v…[3]. Thời kỳ tang tóc, tức là thời kỳ tang
chế, không săn sóc tới mái tóc của mình như trước: đàn ông thì để tóc dài trước
trán tới mắt, trái lại đàn bà cắt đi một phần tóc không cho dài ra[4].
Việc để tang chỉ có tính cách dân sự, không
mang tính tín ngưỡng, tỏ ra buồn bã, thương tiếc người quá cố trong suốt thời
tang chế, có khi kéo dài tới 3 năm, làm bật nổi lòng hiếu thảo đối với ông bà,
cha mẹ. Tuy nhiên, tang chế quá chi li, tỉ mỉ, làm cho con người phải sống gò
bó trong pháp luật và phong tục, có tính trói buộc hơn là cởi trói cho người
ta. Đây chỉ là một trong nhiều thứ ràng buộc người dân Việt xưa. Ngày nay, vẫn
còn để tang, nhưng nhẹ nhàng hơn nhiều sánh với luật Hồng Đức.
Để tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ đã
nhắm mắt lìa đời, kẻ còn sống phải cúng bái, dâng hương, đốt vàng mã, và tỏ
nhiều cử chỉ khác, nhất là trong những dịp an táng, giỗ chạp. Tuỳ theo người
giàu sang, quyền thế, mà những lễ trên đây được tổ chức linh đình, trang trọng,
hay đơn giản chỉ với mâm cỗ, mấy nén nhang, vài thứ
vàng mã. Ví dụ: khi Trịnh Vương phi, tên là Phùng Ngọc Đài (Vương phi của chúa
Thanh Đô Vương Trịnh Tráng) qua đời ngày 14 tháng giêng âm lịch, tức 15-2-1669,
thì con của bà là Tây Vương Trịnh Tạc (đã nối nghiệp cha là Trịnh Tráng qua đời
26-5-1657[5]), đích thân đổ nước tắm cho mẹ và mặc
cho mẹ 60 áo lụa quí[6].
Theo tường thuật [7] của cha Marini (sống ở Đàng Ngoài từ 1647
đến 17-7-1658), thì tháng 12-1657, chúa Trịnh Tạc tổ chức lễ giỗ cha mình là
Trịnh Tráng, hết sức long trọng, trên cồn cát giữa khúc sông Nhị Hà ở kinh
thành Thăng Long. Rất nhiều thợ lành nghề được huy động về đây, dựng lên rất
nhiều dinh thự như một thành mới, nhưng toàn bằng vải, giấy, gỗ, gồm mọi sự
giống như Phủ liêu, đến ngày 28-12-1657 thì hoàn thành. Trước ngày giỗ, dân
chúng được tự do vào xem công trình vừa thực hiện. Chúng tôi xin tóm lược như
sau:
Bốn phía Đông Tây Nam Bắc có bốn cửa thành. Tại
cửa
Những nhà trên đây không sánh được với một ngôi
nhà đặc biệt, đó là Nhà cả, tức ngôi nhà không khác dinh chúa Trịnh Tráng ở khi
còn sống; giữa nhà là một bàn giống như bàn thờ sơn son thếp vàng, hương nhang
thơm phức, trên đó đặt một ngai bằng vàng và ngà.
Nghi lễ giỗ bắt đầu từ đêm 29-12-1657, mở đầu
là 30.000 người mặc tang phục đi hàng 5, mang gươm giáo nghiêm chỉnh từ Phủ
liêu đến địa điểm hành lễ, phân chia từng tốp giữ trật tự cho dân chúng. Vừa
tảng sáng, chúa Trịnh Tạc cùng các Vương thích và các quan mang tang phục như
ngày lễ an táng, do 4.000 “vệ binh” hộ tống tiến tới cửa Bắc thành, nơi có một
cây tháp rất lớn. Tới nơi, chúa Trịnh Tạc và mọi người đều hoàn toàn im lặng.
Bỗng một người trong đoàn cất tiếng nói như một bài ca, giọng buồn thảm, xin
với “ông chủ” toàn bộ thành trì mới được dựng lên (tưởng tượng như ông chủ đang
hiện diện trong cây tháp), xin ông ta bán lại cho nhà vương mới từ trần, nay
không còn quân quốc, voi, ngựa, nhà cửa và các vật dụng như trước.
Đáp lại, có tiếng từ trong tháp trả lời sẵn
sàng bán, nhưng còn phải có ý kiến của ba người khác (tưởng tượng). Vì thế,
Trịnh Tạc cùng với Vương thích lần lượt đến các cửa Đông, Nam, Tây, cũng nhắc
lại những lời xin mua như khi tới cửa Bắc. Sau đó, nhà Vương cùng cácVương
thích và các quan, tiến vào Nhà cả (vừa dựng lên), là chính nơi tế. Trong khi
đọc bài tế, chúa Trịnh và đoàn người đều quỳ gối trước ngai vàng tưởng tượng
như Thanh Đô vương Trịnh Tráng đang ngự trên đó. Tới phần lễ nghi phục bái, thì
thứ tự như sau: trước hết chúa Trịnh Tạc, vị quan đại thần đại diện vua Lê Thần
tông [8], rồi cùng phục bái một trật là các quan
trong vương tộc gồm tới 4.000, sau đó khoảng 600 quan khác; tiếp theo là cha Bề
ưên Dòng Tên ở Đàng Ngoài [9], các quan văn võ
khác; tất cả đều sấp mình sụp lạy sát đất.
Cha Bề trên tôn trọng phong tục địa phương, giữ
đúng nghi lễ VN, đi chân không, mặc áo thụng đen, đầu đội mũ lục lăng cùng màu
đen như áo thụng [10], phục bái sát đất
theo kiểu VN, làm chúa Trịnh rất hài lòng, liền truyền cho nổi nhạc lên, như
khi chúa Trịnh vừa bái lạy xong. Mọi người đều bỡ ngỡ, cho rằng nhà vương đã
ban cho cha một chức tước nào trổi vượt [11].
Đến đây, chúa Trịnh đã mỏi mệt vì phải đứng, có
khi quỳ, nghi lễ giỗ cũng đã hoàn tất, nên khoảng một giờ trưa Ngài cùng đoàn
hộ tống về Phủ liêu theo thứ tự như lúc ra đi, để còn phải tiếp các Sứ bộ đến
phân ưu mang nhiều đồ phúng điếu, như Sứ bộ nước Bao, Ciucanghe, Ava là những
nước hàng năm phải triều cống cho VN.
Đúng 20 giờ, vào giờ chúa Trịnh Tráng tốt (chết
ngày 26 tháng 5-1657), sau khi đoàn lính giữ trật tự được lệnh canh gác cẩn
thận hơn, hầu tránh sự chen lấn và không cho ai đến gần lấy những thứ chưa kịp
cháy, người ta nổi lửa đốt cả ngôi thành sau lễ giỗ, để gửi sang thế giới bên
kia cho chúa Trịnh Tráng. Bắt đầu là đốt 4 cây tháp lớn ở 4 hướng, tất cả đều
sụp đổ nhịp nhàng như chẳng có bàn tay con người can thiệp. Những thứ bằng vàng
bạc không bị cháy và vải vóc quý, được chúa Trịnh Tạc phân chia một phần cho
các quan, phần kia cho binh lính đã nhọc công canh gác.
Tường thuật này, theo cha Marini, do chính cha
Bề trên Dòng Tên ở Đàng Ngoài, người đã chứng kiến, quan sát kỹ lưỡng, kể lại.
Người ta cho rằng phí tổn lễ giỗ này lên tới hơn một triệu đồng vàng [12] (On croit que les frais de cette pompe
íunèbre montent à plus d’un million d’or).
Nhắc lại lễ giỗ trên đây, giúp chúng ta hiểu rõ
hơn, ngày xưa người Việt tổ chức lễ giỗ long trọng tới mức nào, không ngại
phiền phức, tốn kém, cốt để tỏ lòng hiếu thảo với người đã khuất. Xem ra Marini
trình bày có phần khách quan, không bình luận, càng không chỉ trích như một số
người nào đó có thể cho đây là hình thức mê tín dị đoan. Có lẽ vì Marini chỉ
muốn cho độc giả Tây phương nhận thấy cách thể hiện chữ hiếu của người VN khác
với châu Âu, nên đã không phê bình, chỉ trích điều gì, kể cả việc đốt vàng mã, bái
lạy Thần chủ trước ngai Trịnh Tráng.
II. Ý kiến môt số
nhà truvền giáo về việc tôn kính tố tiên ở Viêt Nam
Dưới đây, chúng tôi không nhắc đến nhiều nhà
truyền giáo ở VN từ cuối thế kỷ XVII tới đầu thế kỷ XX, cực lực phán đốì hình
thức tôn kính tổ tiên trong văn hoá VN, nhất là việc cúng đồ ăn, bái lạy người
quá cố, nhang hương, đốt vàng mã… Các vị cũng chẳng chấp nhận được từ ngữ thờ
kính, vì suy diễn theo từ adorare của Tây phương, thì chỉ tôn thờ một Thiên
Chúa duy nhất, còn các thánh dù đã được Giáo hội tôn vinh là thánh, cũng chỉ
bày tỏ lòng tôn kính thôi. Nhưng trong tiếng Việt, từ thờ được dùng cho nhiều
trường hợp, không cần phân biệt rạch ròi như kiểu Tây phương, ví dụ: thờ cha
kính mẹ, thờ chồng nuôi con, thờ Trời, thờ đức thánh Trần… Nhưng các vị cho
rằng, dùng cụm từ thờ kính tổ tiên, làm cho người ta hiểu tổ tiên là Trời, là
Thiên Chúa.
Trong mục này, chúng tôi chỉ nhắc đến một ít
nhà truyền giáo đã chấp nhận nghi thức tôn kính tổ tiên của người Việt, với
điều kiện chỉ coi đó là nghi lễ có tính cách dân sự, không mang tính tín
ngưỡng, nhất là tôn giáo (theo lối hiểu của phương Tây) và cũng phải loại bỏ
việc tin rằng người chết về ăn của cúng, hoặc đốt vàng mã gửi sang thế giới bên
kia…
1. Ý kiến của cha Đắc Lô. S.J.
Trong sách Histoire du royaume de Tunquin [13] cha Đắc Lộ dành hẳn chương 23, 24, 25,
tổng cộng 12 trang nói về vấn đề cúng bái người quá cố. Tác giả kể ra những
cách thức người Việt đối với người quá cố, và cho rằng dân tộc VN tôn kính hồn
xác người quá cố hơn hết mọi dân tộc. Mở đầu chương 23, Đắc Lộ viết:”Trên trái
đất này, có lẽ không một dân tộc nào chu toàn bổn phận hơn và tôn kính hồn xác
người quá cố hơn người dân Vương quốc An Nam. Những điều kể ra sau đây đủ để
làm tin”. Tiếp đến Đắc Lộ nói đến ba điều sau khi người quá cố trút linh hồn,
đó là: – sắm một bộ áo quan sơn son thếp vàng hết sức sang trọng bao nhiêu có
thể; – ngoài bà con thân thích, họ còn mời nhiều người đi lễ an táng, mà mở đầu
đoàn người, là một cờ bằng tơ lụa do bốn người lực lưỡng cầm, trên đó ghi tên
người quá cố, cùng đề cao những đức tính của họ, tức là cờ minh tinh. Vợ con
người quá cố, mặc áo tang, đi trước quan tài, than khóc, kể lể, thỉnh thoảng
xoay mình lại, nằm lăn trên đường như để cho người khênh quan tài đạp lên mình
(thực ra mang ý nghĩa ngăn cản không cho mang đi chôn, mà muốn người quá cố như
vẫn sống cùng gia đình); – nhờ thầy địa lý tìm nơi an táng, tức thày khán phong
thuỷ âm dương. Đắc Lộ dành hẳn chương 24 cho việc cúng giỗ, trong đó tác giả
cho là có ba sai lầm lớn, đó là: – hồn người quá cố có thể tự do trở về nhà con
cháu; – người quá cố có thể về ăn thịt dự tiệc với những người còn sống; – sai
lầm thứ ba lớn hơn, là họ tin rằng, sự sống, sức khoẻ, gia đình bình an thịnh
vượng nhiều ít, đều do ông bà cha mẹ đã quá cố phù hộ cho. Vì vậy họ phải cúng
giỗ cho long trọng, dọn nhiều thịt thà, món ăn mời kẻ quá cố trở về dùng, để
ông bà thấy lòng hiếu thảo của con cháu mà phù trợ cho kẻ dâng cúng; chính nhà
Vương đương thời, tức chúa Trịnh Tráng hàng năm cũng làm lễ giỗ cha mình lớn
lao, vô số quan quyền dân chúng đến dự, cho dọn rất nhiều mâm cúng sơn son thếp
vàng bày đủ thứ thịt khác nhau, lại đốt vàng mã gửi sang thế giới bên kia cho
cha mình, mà theo Đắc Lộ, là một thứ tin tưởng kỳ cục.
Nhìn chung, nhà truyền giáo Đắc Lộ không chỉ
trích mọi hình thức tôn kính tổ tiên ở VN; nhưng ông chê trách một số hình
thức, tin tưởng có tính cách mê tín dị đoan, như mời người quá ăn đồ cúng, đốt
vàng mã. Vì thế Đắc Lộ nhận định rằng, sau khi loại bỏ những gì tỏ ra mê tín,
thì người Kitô hữu tiếp tục thực hiện các nghi thức tôn kính tổ tiên. Trong
Divers voyages et missions [14] Đắc Lộ viết: “Trong các thứ người ta
tố cáo giáo hữu Đàng Trong, thì cái tội lớn nhất là người giáo hữu đã không săn
sóc, tôn kính hồn người quá cố, nên người ta cho rằng Đạo chúng ta là Đạo mọi
rợ, vì đã xoá khỏi lòng người tâm tình hiếu thảo cha mẹ, là tâm tình theo tự
nhiên đã được khắc vào mọi tâm hồn. Sở dĩ người ta nói sai lạc như thế, là do
một vài kẻ vì nhiệt tình thiếu cẩn ưọng, đã muốn bãi bỏ mọi nghi thức đối với
người đã khuất trong xứ này: tôi đã thuật lại những nghi thức trên khá dài
trong cuôn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (Histoire du royaume de Tunquin); thực
ra có vài nghi thức, nếu người Kitô hữu thực hiện, thì không thể không mắc tội,
còn phần nhiều đều vô tội, và chúng tôi xét đinh rằng, người ta có thể giữ lai
các nghi thức ấv mà không can hê gì đến Đao thánh”.
2. Ý kiến của cha
Juan de La Paz. O.P.[15] và của Đc Marin
Labbé. M.E.P.
Theo lời yêu cầu của Đc Lambert năm 1671, lúc
đó là Giám mục Đại diện tông toà Đàng Trong, đồng thời kiêm Giám quản Tông toà
Đàng Ngoài (tạm thay thế Đc Pallu chưa tới nhiệm sở Đàng Ngoài được), hai cha
Dòng Đa Minh là Juan Ramos và Juan de Santa Cruz từ Manila tới Phố Hiến ngày
7-7- 1676, cùng chia sẻ trách nhiệm truyền giáo ở Đàng Ngoài với hai cha thừa
sai Paris đã làm việc ở đây là Fr. Deydier từ 1666 và Jacques de Bourges từ
1670; tháng 8-1677 (có nơi ghi là 1678) thêm cha Dòng Đa Minh nữa là Dionisio
Moralez cũng từ Manila tới Phố Hiến. Các Đa Minh được hai cha thừa sai Paris
nhường cho phía Sơn Nam Hạ (vùng Trung Linh, Bùi Chu, Phú Nhai…) là nơi có
nhiều giáo hữu nhất ở Đàng Ngoài.
Mấy cha Đa Minh vừa tới Đàng Ngoài, nhận thấy
tại đây, rất nhiều phong tục, nhất là vấn đề tôn kính tổ tiên, làm các vị này
phân vân, có phải là mê tín dị đoan không? Các cha đặt ra 274 câu hỏi gửi về
Manila, xin cha La Paz là một giáo sư thông thái, có cái nhìn sâu rộng, giải
thích giùm. Vì là vấn đề quan trọng, nên những câu trả lời của La Paz được in
thành sách ngay năm 1680 tại Manila, đó là tập sách Opusculum in quo ducenta et
septuaginta quatuor quaesita a RR.PP. Missinariis Regni Tunkini proposita
totidemque Responsiones ad ipsa continentur, expeditae per Adm. R.p. Fr.
Joannem de Paz In-4°, Manila, 1680, 218 tr. [16] (Tập sách gồm 274 câu hỏi của các Thừa
sai Vương quốc Đàng Ngoài và cũng bằng ấy câu trả lời do cha rất đáng kính
Gioan Paz giải đáp những câu hỏi trên). Đại ý những câu trả lời của La Paz về
các phong tục, nghi lễ ghi trong 274 câu hỏi không có tính cách tôn giáo, chỉ
có tính cách dân sự và chính trị.
Nói về La Paz và tập sách trên liên quan tới
vấn đề tôn kính tổ tiên ở Đàng Ngoài, Đc Marin Labbé, MEP, (Gm phó cho Đc
Francisco Perez tại Đàng Trong từ 1704 đến khi qua đời 24-3-1723, thọ 75 tuổi)
viết như sau trong thư gửi Ban Giám đốc Hội thừa sai Paris ngày 16-10-1718 [17] (chúng tôi xin tóm lược lại):
“Tại vương quốc Đàng Trong không có sách nào kể
cả sách nghi lễ, viết về các thứ nghi lễ hay thứ tự các nghi lễ phải cử hành
đối với người chết và Đức Khổng. Chỉ có những thực hành theo thói quen đã in
sâu vào tâm khảm người ĐT, làm cho người ta phải đau khổ hơn lúc nào hết khi
không thể thực hiện được những thứ dị đoan trên vì nghèo túng. Nhưng tranh luận
trước mặt Toà thánh về những phong tục đó sao được, nếu không dựa vào sách vở,
bằng chứng? Ở Trung Hoa khi tranh luận về vấn đề này, người ta căn cứ vào sách
vở và rất nhiều bằng chứng của biết bao Dòng tu; còn ở ĐT, chúng ta chẳng có
bất cứ thứ gì như vậy.
“Duy một điều có thể giúp chúng ta tại Roma, đó
là cuốn sách của cha Juan de La Paz, một vị Tiến sĩ Dòng Đa Minh, đã ghi lại
khá chính xác tất cả những nghi lễ người Đàng Ngoài thực hiện, trong các lễ an
táng cũng như cúng giỗ cha mẹ họ. Những nghi lễ ấy đã được ba cha Đa Minh đầu
tiên từ Manila đến ĐN [ghi lại]. Dù ba cha này là những người thành thạo Thần
học và các tác phẩm của thánh Tôma, các ngài cũng chẳng dám đưa ra những nhận
định về vô vàn vô số những nghi lễ ở ĐN, nên các ngài đã ghi chép lại cẩn thận
gửi cho cha Juan de La Paz ở Manila, khẩn khoản xin ngài cho biết ý kiến, điều
gì có thể mần ngơ được, điều gì tuyệt đối bị cấm đoán vì là mê tín. Juan de La
Paz, một người được quý trọng cách riêng trong các xứ này, vì lòng đạo đức cũng
như sự thông thái của cha, đã trả lời theo thứ tự tất cả các câu hỏi đặt ra,
rồi được in trong một cuốn sách khá đồ sộ tại Manila năm 1680.
“Tôi nghĩ rằng, Đc Labbé viết tiếp, cuốn sách
trên có giá trị và uy tín tại Roma, và có thể coi đó ỉà chứng cớ trong việc
tranh tụng lễ nghi đối với người chết ở Đàng Ngoài, và cũng thế ở Đàng Trong,
vì hai vương quốc này chỉ là một dân tộc theo cùng luật lệ, cùng phong tục.
“Ngoài ra, cũng phải nói vài điều là, chúng ta
tuyệt đối không thể theo như mọi câu trả lời của cha Juan de La Paz mà người ta
đặt cho cha về các nghi lễ thực hiện ở Đàng Ngoài đối với người quá cố, trước
khi an táng, trong khi an táng, hoặc trong các lễ giỗ hàng năm; vì những câu
trả lời ấy lại dựa trên những thành kiến người đặt câu hỏi, theo đó họ cho
rằng: những người [ĐN, ĐT] minh mẫn chẳng tin chút nào việc hồn người chết trở
về sau khi qua đời và hồn người chết cũng chẳng cần đến thịt thà dâng cúng, mà
chỉ có kẻ quê mùa mới sa vào sai lầm này; do đó, cha La Paz kết luận là những
nghi lễ ấy chỉ có tính dân sự và chính trị. Nhưng, chúng tôi là người đã thấy
tất cả những gì xảy ra ở đây, chúng tôi dám chắc rằng, người ngoại đạo tin là
hồn cha mẹ hiện diện trong khi cử hành các nghi lễ đó, nhận của dâng cúng và
nhận lời phù hộ săn sóc con cháu họ tuỳ theo mức độ đại lượng trong việc dâng
cúng.
“Thực ra, đôi khi người giáo hữu hay một vị
thừa sai tranh luận các nghi lễ đó với những người ngoại đạo thông thạo chữ
nghĩa, thì những người ngoại đạo này nhận ra mình đuối lý, không thể trả lời được
những chất vấn người ta đặt ra, nên để khỏi hổ ngươi, họ cũng theo ý kiến của
những người chất vấn và chế diễu những người thi hành các nghi lễ này; kỳ thực
họ tin từ đáy lòng tất cả những nghi lễ trên mỗi khi họ phải cử hành trong gia
đình”.
3. Ý kiến của cha
Sanna, S.J. và cha Heutte. M.E.P.
Xem ra cha Sanna [18] có cái nhìn rộng rãi về vấn đề tôn
kính tổ tiên và nhiều phong tục lễ nghi khác ở Đàng Trong. Sau khi Hiến chế Ex
illa die do ĐTC Clementê công bố ngày 19-3- 1715 cấm các hình thức tôn kính tổ
tiên và Đức Khổng (chúng tôi sẽ nói dài ở phần cuối), thì ngày 21-2-1717, cha
Sanna công bố tại nhà thờ Dòng Tên ở Huế (có lẽ là Đốc Sơ) cho phép giáo hữu ở
đây được giữ một số nghi lễ ĐT như sau [19] (tất cả có 8 điều, nhưng chúng tôi chỉ
xin ghi ra đây điều 4,5,6):
“Tôi là Gioan Baotixita Sanna, thầy cả Dòng Đức
Chúa Giêsu, truyền dạy những điều sau đây cho anh chị em giáo hữu thuộc các họ
đạo Mân Côi, Giáng Sinh, Thánh Giá và Đức Mẹ Mông Triệu, được biết:
“Tất cả các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu đã ở xứ
truyền giáo này từ đầu đến nay, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, vẫn cho phép giáo
hữu được mang gia triau [cờ gia triệu] trong các lễ an táng, chỉ cần viết câu
‘xin Đức Chúa Trời cứu giúp linh hồn này là… và dẫn đưa vào thiên đàng’
(Rogamus Dominum caeli ut adjuvet hanc animam N., et deducat in paradisum).
Việc mang gia triau đã được các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu cho phép từ gần một
thế kỷ nay; vậy không thể chấp nhận được nhận định của những người cho rằng
trong gia tríau có tính tà thần và dị đoan;
“Tất cả các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu chấp
nhận cho mọi giáo hữu được lạy cha mẹ sát đất khi các ngài còn sống hay đã qua
đời, được gia [giỗ], tức là được dâng cúng, bái lạy cùng các nghi lễ khác quen
thi hành trong nước này, vào ngày đầu năm hay những ngày khác; và điều này cũng
theo lời truyền dạy của Hội thánh Ighêrêgia. Ai không tuân giữ các nghi lễ trên
đây, tức là lỗi điều răn thứ bốn: ‘Hãy thảo kính cha mẹ’. Tuy nhiên, có một ít
giáo hữu đã lỗi phạm giới răn này, lại còn đi đến nhà anh em giáo hữu khác nói
rằng, thi hành các nghi lễ như thế không thể thoát tội được. Nhưng việc dâng
cúng như vậy chẳng có tội gì. Ai nói là có tội thì gây xáo trộn cho giáo hữu,
vì khi tôn kính cha mẹ còn sống mà không mắc tội, thì khi các ngài chết, mà làm
như thế cũng chẳng có tội gì. Lúc cha mẹ còn tại thế, con cái có thể sấp mình
sát đất lạy cha mẹ, thì khi các ngài đã khuất cũng có thể tỏ lòng tôn kính như
vậy;
“Tất cả các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu chấp
thuận cho giáo hữu được thề, khi vua quan truyền lệnh, miễn là phải đúng sự
thật. Giáo hữu có thể lấy danh Đức Chúa Trời mà thề, hoặc khi nào có lệnh
truyền phải nhân danh quỉ thần (nomina daemoniorum), ví dụ: ‘nếu tôi không giữ
như thế, tôi sẽ bị quỷ thần vật chết’! Vậy ai nói cách thề như thế là phạm tội
thờ tà thần, đó là sai lầm; họ đã không theo thói quen của các giáo hữu, cũng
chẳng vâng lệnh truyền của Hội thánh”.
Về vấn đề cha Sanna cho phép mang cờ gia triệu
[và cờ minh tinh] trong lễ an táng, cha Heutte, MEP[20] viết thư tại Huế ngày 7-12-1717 như
sau gửi cho Ban Giám đốc Hội Thừa sai
“Điều thứ tư trong công bố của cha Sanna cho
phép giáo hữu mang gia triau, cần phải được nói rõ gia triau là gì? Đó là một
khung hình lớn sơn son thếp vàng, vẽ hình rắn và lá cây, mà người ngoại đạo
mang trên đường đi an táng. Trong khung hình này có một hay hai miếng vải lụa
đỏ, trên đó ghi bằng chữ Hán, nội dung như sau:’xin thần dẫn đưa hồn Mỗ… về nơi
an nghỉ’ (Rogamus idolum N. ut deducat animan N. in locum quietis). Khung hình
này đôi khi do hai người khênh đi trước quan tài, có khi đặt trên gần đầu quan
tài, nơi bày một mâm toàn thịt thà. Người ngoại đạo tin là hồn người mới qua
đời cũng như tất cả hồn những người đã chết có họ hàng với người này, đều cùng
có mặt. Các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu đã cho phép giữ những nghi lễ ấy. Đôi
lúc người ta chỉ mang gia triau, có khi chỉ có mâm thịt cúng mà không có cờ gia
triau. Để tránh khỏi tội thờ tà thần, người ta thay đổi lời cầu xin, bằng câu:
‘Xin Đức Chúa Trời dẫn đưa linh hồn Mỗ… vào thiên đàng’. Ngoại trừ chút thay
đổi này, chúng tôi chẳng hồ nghi là, dị đoan vẫn còn đó. Bởi vì: thứ nhất, cứ
20.000 người Đàng Trong mới có 100 người biết chữ Hán; thứ hai, trong số 100
đó, chưa chắc đã được một người để ý đọc hàng chữ kia; thứ ba, nếu họ cố gắng
đọc đi nữa, thì họ lại tin rằng những người giáo hữu cũng tin tưởng như họ, là
các hồn người chết đều có mặt ở khung hình hay mâm cúng để ăn; thứ bốn, Đức
Thánh cha đã cấm bằng những lời chung chung trong sắc lệnh công bố năm 1715″.
Theo bức thư [21] của cha Heutte, MEP, viết tại Đàng
Trong ngày 18-7-1717, báo cáo với Đc Labbé, Gm phó ĐT, thì cha Sanna đã cho
phép giáo hữu:
1. Đúc chuông chùa;
2. Mang cờ dựng hai bên
lối vào chùa;
3. May áo cho các nhà
sư, ni cô;
4. Làm hình đàn ông,
thê thiếp, voi v.v… để người ta đốt trong tháng bảy;
5. Bắn súng đại
bác [theo lệnh cấp trên] lên hiệu tập họp công chúng dự các nghi lễ ma quỷ
(diable);
6. Xây mieu và chua
[miếu và chùa];
7. Được thề nhân danh
bua ba [vua vạ, tức là vua ra vạ phạt ai], quỷ thần;
8. Giữ bài vị trong
nhà;
9. Xem tuồng kịch;
10. Bưng mâm cúng đặt
trên quan tài và ưên phần mộ.
Sở dĩ cha Sanna nhận định rộng rãi như thế, vì
trong những trường hợp trên, giáo hữu đúc chuông chùa, may áo cho các nhà sư,
v.v…, chỉ như là người thợ đúc, thợ may, sống bằng những nghề ấy; hoặc bắn súng
đại bác tập họp dân chúng trong các ngày lễ là phải tuân hành lệnh cấp trên. Rõ
ràng là Sanna coi việc đặt bài vị trong nhà, thề nhân danh bua ba, tức là nếu
không đúng như lời thề thốt, sẽ bị nhà vua phạt vạ, đều là những thứ mang ý
nghĩa dân sự, chính trị, trong khi một số người khác lại cứ gán ghép cho là thờ
tà thần ma quỷ. Vậy khi những người Công giáo phải mời những người không đồng
đạo với mình, xây nhà thờ, đúc chuông, làm kiệu, kể cả làm tượng ảnh, may áo
cho tu sĩ, linh mục thì đâu có phải những người thợ trên đây bỏ đạo mình để tin
theo đạo Công giáo. Đàng khác hiếm có người nào cùng tôn giáo, tín ngưỡng với
họ, lại cho rằng những người thợ ấy làm như vậy là đi ngược với tôn giáo mình.
4. Ý kiến của Đức
cha Bá Đa Lôc và mẩv vi thừa sai Paris cuối tk. XVIII
Đức cha Bá Đa Lộc cùng những vị thừa sai Paris
mà chúng tôi nói đây, đều sống ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII, cái thế kỷ
mà Toà thánh đã lên án việc tôn kính tổ tiên, kính lạy Đức Khổng và nhiều phong
tục khác (phần sau, chúng tôi sẽ trình bày dài hơn vấn đề này). Xem ra những vị
thừa sai này nhờ nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, nên đã mạnh dạn trình bày ý kiến
mình, dù điều 25-26 của Hiến chê Ex quo singulari công bố ngày 11-7-1742, đã
cấm không ai được bàn tán gì về vấn đề nữa, lại còn nghiêm cấm mọi người không
ai được giải thích, thực hành khác với Hiến chế này. Ai không tuân lệnh, sẽ bị
huyền chức tức khắc và bị phạt vạ tuyệt thông tức khắc dành cho Toà thánh, dù
là Tổng Giám mục, Giám mục, hay các linh mục triều hoặc Dòng.
Cha Louvet, tức cố Ngôn [22] làm việc trong giáo phận Sài Gòn vào
cuối tk XIX, mở đầu vấn đề tôn kính tổ tiên ở Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII,
nhận định rằng, việc bái lạy trước thi hài và bài vị, đã bị các Hiến chế của
Toà thánh tuyệt đối ngăn cấm; nhưng chính nhà vương, tức chúa Nguyễn Ánh trong
nhiều lần gặp gỡ Đc Bá Đa Lộc bàn đến chuyện này, vì Ngài rất lưu tâm đến nó.
Louvet cho rằng, một nhà Thần học nổi tiếng có thể đứa ra nhiều lý lẽ để chứng
minh việc tôn kính tổ tiên chỉ đơn thuần là cử chỉ lịch sự, tuyệt đối chẳng có
tính cách tà thần. Rồi Louvet viết tiếp:”Về vấn đề này, Đức Gm [Bá Đa Lộc] và
các thừa sai luôn luôn chỉ có một câu trả lời:Sau khi xem xét lâu dài với nhiều
cuộc tranh luận đến mâu thuẫn nhau, Roma đã tuyên bố, không được phép bái lạy
như vậy; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ biết vâng phục’[23].
Trong sách của Adrien Launay, khi bàn vấn đề
hóc búa này thời Đc Bá Đa Lộc, đã dành 16 trang dày đặc, toàn là những tư liệu
viết tay của Đức cha và mấy thừa sai ở Đàng Trong [24]. Xin tóm lược lại những trang sử trên:
Trong bức thư cha Boisserand, MEP [25] viết ngày 17-8- 1789, gửi cha Boiret,
MEP, cho biết cần phải xét lại vấn đề tôn kính tổ tiên[26]:
“Sau đây là cách luận xét của tôi, tôi sẵn sàng
đặt cách suy nghĩ của tôi dưới quyền phán định của các bề trên mình: khi một
hành động tự nó là dị đoan, thì chẳng bao giờ được làm; nên, trong bất cứ
trường hợp nào, cũng không được phép dâng của cúng cho các tà thần. Nhưng khi
một hành động tự nó đáng ca ngợi, và nó chỉ trở nên xấu do những hoàn cảnh xấu,
thì hành động ấy vẫn tốt, một khi thay đổi hoàn cảnh. Vậy, tôn kính cha mẹ sau
khi các ngài qua đời, với ý nghĩa yêu mến và chứng tỏ lòng yêu mến đó qua các
hành động, cử chỉ, thì tự thân nó là đáng ca ngợi. Thật ra, nơi người ngoại đạo
việc tôn kính này lại dựa trên những ý nghĩ sai lạc và dị đoan, cho nên đến bây
giờ vẫn còn bị cấm. Tuy nhiên, mọi người đều biết, nhà vương [Nguyễn Ánh] khi
có những hành động đó và các quan đi theo cùng tham dự, lại không có những ý
nghĩ sai lầm và dị đoan. Nếu không phải là những hành động mang tính tôn giáo,
mà đơn thuần chỉ là hành vi dân sự và chính trị, thì xem ra thói này đáng nực
cười, nhưng chẳng dị đoan chút nào.
“Tại nước Pháp khi nhà vua qua đời, người ta
đặt ngài nằm trên linh sàng, rồi người ta đều đặn soạn các bữa ăn cho ngài
trong nhiều ngày; thật nực cười về thói quen này; vậy mà người ta vẫn không lên
án nó, vì chẳng ai tin là hồn người chết dùng những món ăn ấy, nhưng đó là biểu
hiệu danh giá cho vua kể cả sau khi qua đời. vẫn còn thấy người Pháp hạ mũ khỏi
đầu mỗi khi đi qua tượng vua Henri IV tại Pont-Neuf ở
Boisserand cho rằng, việc làm cho người Đàng
Trong theo đạo, liên hệ nhất ở việc cho phép tôn kính tổ tiên, sau khi bỏ bớt
những gì có thể bị coi là mê tín dị đoan. Nếu từ chối không cho phép, thì sẽ
tăng thêm hận thù. Cha khẩn khoản yêu cầu cha Boiret can thiệp với Đại học
Sau khi cha Boisserand được tháp tùng Đc Bá Đa
Lộc trong một cuộc hội kiến với chúa Nguyễn Ánh, đặc biệt bàn về vấn đề tôn
kính tổ tiên, cha đã thuật lại cuộc hội kiến ấy cho cha Letondal, MEP, và cũng
bày tỏ cho cha Boiret ý kiến riêng như trên.
Theo Boisserand, Đc trình bày cho chúa Nguyễn
hay biết về giới luật trong đạo truyền phải thảo kính cha mẹ, vì ngày hôm
trước, hoàng tử Cảnh từ chối bái lạy trước bàn thờ tổ, làm Nguyễn Ánh rất bực
bội, cho là đạo này cấm việc tôn kính tổ tiên. Đc thành thực nói rằng, chính
ngài cũng bỡ ngỡ không ít.
Rồi ngài nói tiếp, chẳng những đạo này không
chấp nhận việc làm như thế, mà còn coi việc bất hiếu với cha mẹ là tội nặng bậc
nhất; nhưng, đạo dạy việc tôn kính tổ tiên phải được đặt trên nền tảng chân lý.
Do đó đạo đã cấm giáo hữu tại tất cả các nước ở vùng Đông Ân tỏ lòng tôn kính
cha mẹ như vậy, chỉ vì người ngoại giáo tin chắc rằng hồn người chết nhận sự
bái lạy của họ, và ăn những gì “tinh tuý” nhất (la plus spiritueuse) trong các
món thịt dâng cúng, rồi hồn người chết sẽ phù hộ cho họ sống lâu, giàu có… Tin
tưởng như thế, rõ ràng là trái với chân lý, nên giáo hữu không được phép làm.
Nguyễn Ánh bỡ ngỡ, bởi lẽ Nguyễn Ánh cũng theo
nguyên tắc trên, rồi cho Đc hay: chính mình cũng nhận rằng một khi cha mẹ đã
khuất, thì hồn các ngài chẳng trở về được, con cái chẳng còn nhờ các ngài giúp
được gì, và coi nghi lễ tôn kính tổ tiên chỉ là chứng cớ tỏ lòng nhớ đến cha
mẹ. Nguyễn Ánh còn thêm: “Khi Ta cử hành những nghi lễ đó, Ta tự bảo: nếu tổ
tiên còn sống thì Ta muốn làm tất cả những gì ích lợi cho các ngài; để tỏ lòng
thành của Ta, lúc này Ta làm như thể tổ tiên Ta còn sống; dù biết rõ các ngài
chẳng còn sống, và những gì Ta làm đây chẳng còn mang lợi ích gì cho các ngài
cũng như cho Ta, nhưng vì muốn chứng tỏ cho mọi người thấy, Ta đã không thể
quên tổ tiên được và Ta muốn nêu gương cho toàn dân Ta về lòng hiếu thảo” [27].
Liền đó, Đc thưa lại: trong số các thần dân của
nhà vương, mấy ai quan niệm giống nhà vương; xin nhà vương cứ hỏi bất cứ người
dân nào đầu tiên nhà vương gặp về lòng tin của họ vào ngày cuối năm họ cúng bái
tổ tiên, dâng của cúng từ tám đến mười ngày liền, sắm sửa quần áo bằng giấy để
cúng rồi đốt đi, hay họ tin là hồn tổ tiên hiện diện tại bài vị nơi đó khói
nhang nghi ngút, thì biết họ đều tin nhảm nhí. Nếu người Đàng Trong hiểu biết
như nhà vương và coi việc thi hành các nghi lễ trên có tính cách dân sự, thì
mọi giáo hữu ở đây sẵn sàng làm theo mà chẳng mắc tội gì. Nhưng, rõ ràng các
nghi lễ trên được người Đàng Trong coi là có tính cách tôn giáo, nên ngưòi giáo
hữu không thể làm được, vì đi ngược với giáo lý trong đạo.
Nguyên Ánh tiếp: ước mong rằng nghi lễ tôn kính
tổ tiên có thể hoà hợp được với Kitô giáo và theo cách nhìn của Ta, thì chẳng
có gì ngăn trở mọi người trong vương quốc Ta theo đạo. Nếu Ta công bố cho dân
biết việc cử hành các nghi lễ ấy chỉ có ý nghĩa dân sự và chính trị, còn những
tin tưởng có tính cách bình dân, mê tín, đều sai lầm, thì
người giáo hữu có được phép giữ các nghi lễ đó không? Thời buổi này đang rối
loạn, nếu Ta bãi bỏ nghi lễ này, thì dân chúng sinh ra nghi ngờ, cho rằng Ta
muốn thay đổi đạo, làm cho dân chúng chẳng còn theo Ta. Chính Ta đã cấm bói
toán, phù thuỷ, chiêm tinh, và coi việc thờ quấy là sai lầm, nhưng Ta quyết
phải giữ việc tôn kính tổ tiên theo cách Ta đã giãi bày, vì Ta coi đó là một
trong các nền tảng giáo huấn dân Ta. Các khanh hãy lưu ý và hãy cho phép giáo
hữu theo phong tục trong nước [28].
Ngày 5-6-1796, Đc Bá Đa Lộc viết thư cho Gm phó
ĐT của mình là Labartette [29] ở Quảng Trị (trong vùng cai trị của
Tây Sơn), về vấn đề Toà thánh cấm nghi lễ tôn kính tổ tiên, đại ý như sau [30]:
“Nếu Roma có hỏi ý kiến Đc, thì Đc hãy trình
bày, sau khi đã suy nghĩ cẩn thận. Theo tôi nghĩ, đức vâng phục của chúng ta
đối với Toà thánh, không ngăn cấm chúng ta giãi bày những nghi vấn của mình,
chỉ cần chúng ta luôn luôn sẵn sàng vâng phục, một khi Toà thánh tuyên bố ý
nghĩ của chúng ta khồng có căn cứ.
“Từ khi Hội thừa sai
“Tôi là người thứ nhất đã mang sắc lệnh trên
vào xứ truyền giáo này; tôi nhận thấy mấy thừa sai và nhiều giáo hữu chống đối.
Vị tiền nhiệm của tôi [Gm Guillaume Piguel, MEP, 1764-1771], là người rất đạo
đức, có lương tâm kính sợ, đã phục tùng với lòng e ngại. Ngài không ngừng kêu
trách về sắc lệnh này. Cha đại diện của ngài cũng như tôi chẳng bao giờ muốn
phục tùng sắc lệnh. Ít ngày trước khi qua đời, ngài còn viết thư cho tôi, nói
rằng, không thể lên án việc bái lạy như thế dưới bất cứ khía cạnh nào… Ngài
khẩn khoản tôi trình bày lại với Roma, đừng ép buộc giáo hữu giữ thái độ như
thế lâu hơn nữa đối với cha mẹ qua đời, đó là điều người Đàng Trong cho là vô
lễ, bất hiếu.
“Trong những năm đầu tiên sống ở xứ truyền giáo
này, khốn nỗi tôi là người, vì chẳng hiểu biết nguồn ngọn vấn đề, nên đã trở
thành một trong những người nhiệt thành nhất bênh vực sắc lệnh [có lẽ muốn chỉ
Hiến chế công bố năm 1742], Tôi đã gán ghép cho các thừa sai kỳ cựu là những
người xin hoãn lại việc thi hành sắc lệnh một thời gian, là cứng cổ, kiêu ngạo,
v.v…, có lẽ tôi cũng là nguyên nhân làm cho chẳng ai trong số họ dám gửi các
khiếu nại về Roma. Quả là lúc ấy tôi chẳng thấy được vào một ngày nào đó, chính
tôi sẽ là người đầu tiên phải làm tròn bổn phận mình. Đúng là điều trên đây chỉ
xảy ra sau 20 năm trời truyền giáo với nhiều cuộc tranh cãi, tôi mới nhận ra sự
ngán ngẩm của các thừa sai kỳ cựu là có nền tảng hơn những gì tôi đã tưởng
tượng. Tôi tin rằng, bổn phận của tôi là phải xét lại cho chín chắn hơn, nên
tôi đã nghiên cứu sách vở, bàn hỏi với các nho sĩ ngoại đạo và có đạo thông
hiểu vấn đề, thì tôi thấy các nho sĩ trên chẳng tán thành chút nào sắc lệnh
trên.
“Tôi xác tín rằng sắc lệnh được viết ra dựa
trên những bản tường trình sai lạc, nên khi trở lại Pháp, tôi nhận thấy mình bó
buộc vì bổn phận, phải giãi bày với nhà vua và các quan là những người tấn công
tôi về vấn đề này, nhưng tôi đã làm tròn nhiệm vụ. Sau nhiều năm suy tư về vấn
đề này, tôi không thể chần chừ mà chẳng trình bày lại với Thánh Bộ [Truyền
giáo]. Xin cha hiểu cho rằng, việc bái lạy như thế chẳng có gì trái ngược với đức
tin, tôi luôn luôn tiếp tục bảo vệ quan điểm này, cho tới khi nào Giáo triều
Roma có quyết định khác ngược lại”.
Trong một bức thư viết ngày 30-5-1798 gửi cha
Boiret, MEP, Đc Bá Đa Lộc còn viết:
“Tôi đã nhận được thư trả lời [viết 29-12-1797]
của thư ký Thánh Bộ về vấn đề bái lạy người chết. Như tôi đã bắt đầu nói trên
đây về những suy nghĩ của tôi liên quan tới nghi lễ, nên lúc này tôi sẽ gửi các
nhận xét của tôi sang Thánh Bộ sau các vị Đại diện tông toà khác. Tôi trông chờ
những ý kiến ngược lại. Thật ra, trong số các vị này, ít người hiểu biết nguyên
nhân. Theo trình bày của các vị, thì Thánh Bộ cũng chỉ xác nhận sắc lệnh cũ của
mình.
“Nhưng một điều đích thực là, nghi lễ này ở
Đàng Trong, dù có pha lẫn nhiều mê tín, thì tự nó chỉ là bày tỏ lòng tôn kính
đối với cha mẹ như khi các ngài còn sống. Nếu người ta cắt bỏ tất cả những gì
trái ngược với đức tin, như đồ cúng, lời cầu xin v.v…, thì tất cả những gì còn
lại đều đáng ca tụng, hơn nữa còn cần thiết trong nước này.
“Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo hội, các tông
đồ và các thừa sai theo chân các tông đồ, rộng lượng hơn chúng ta ngày nay. Hầu
hết các nghi lễ trong Giáo hội, đã được dân ngoại sử dụng, thì Giáo hội cải tạo
lại, hoặc thánh hoá chúng bằng cách hướng về Thiên Chúa, chỉ tẩy trừ tất cả
những gì trái ngược với đức tin thuần tuý.
“Ngày nay, các thừa sai, nhất là những vị mới
đến, lên án tất cả những những gì trái với thành kiến của họ, với nền giáo dục
họ đã nhận được, mà chẳng nghĩ đến những thiệt hại lớn lao họ gây ra ở các nước
này trong việc truyền giảng đức tin. Cũng giống như phái “Giăng-sen” khổ hạnh
(jansenistes), họ luôn luôn sát cánh với những người cứng nhắc nhất, cấm đoán
nhiều việc bao nhiêu có thể, coi đó là đạo nghĩa hơn, xác thực hơn. Điều có thể
làm cha ngạc nhiên là, các thừa sai đó thường thường đâu có phải là hạng dốt
nát, hơn nữa họ còn được coi là người thông hiểu về tất cả những gì liên quan
đến bậc sống của họ. Nhưng các tục lệ họ thấy bên châu Âu pha trộn với các nghi
lễ tôn giáo, cùng nền giáo dục Âu châu, làm cho họ coi là tốt, nên muốn được
phổ biến khắp nơi. Cho nên họ lên án, hay ít ra là nghi ngờ tất cả những gì
không hợp với họ đều trái với đức tin, do đấy gây ra nhiều tai hại: người ngoại
đạo thì phẫn nộ, chống đối, còn giáo hữu thì chán nản vì bị khinh chê là đã trở
thành người Âu châu.
Hai tuần lễ sau, ngày 15-6-1798, hơn một năm
trước khi qua đời, Đc Bá Đa Lộc còn viết một thư cho cha Boiret nói về vấn đề
giáo hữu cần được phép bái lạy trước thi hài cha mẹ, điều mà trong nghi lễ
người Việt gọi là lạy xác [31].
Sau đó trong thư viết ngày 12-11-1800, Đc
Labartette, Gm Đàng Trong, gửi cho Ban Giám đốc Hội thừa sai Paris, đưa ra
nhiều lý lẽ bênh vực nghi lễ lạy xác. Labartette cho rằng chẳng có gì là mê tín
trong việc này, tất cả chỉ có tính cách dân sự, tỏ lòng kính trọng, hiếu thảo
với cha mẹ, với các bề trên, bạn bè, ân nhân, cấm nghi lễ này gây ra biết bao
thiệt hại cho việc truyền bá đức tin, làm cho người ngoại đạo chán ghét, khinh
bỉ, mà nói rằng: “Người ta vẫn khoe khoang là một đạo tốt lành khác thường, mà
dám coi việc cấm lạy xác là chính đáng; lạy xác chỉ là nghi thức bên ngoài biểu
lộ lòng tôn kính biết ơn đối với cha mẹ, bề trên…; cấm đoán như thế chẳng phải
là tệ bạc với đấng sinh thành ra mình, nuôi dưỡng và dạy bảo mình sao…”? Đó là
điều hàng ngày người Đàng Trong bàn tán. Đc Labartette cũng nêu ra trường hợp
cha Halbout, MEP 221, đã lên tiếng phản đối những ai là nguyên nhân
của việc cấm đoán lạy xác, thì có tội trước mặt Thiên Chúa [32].
Đc Bá Đa Lộc chẳng những không tán thành việc
cấm đoán nghi lễ tôn kính tổ tiên, mà còn ước ao có được nghi thức phụng vụ
Công giáo Trung Hoa. Ngay năm-1796, Đc Bá Đa Lộc đã viết cho cha Boiret về vấn
đề này, và nêu ra những khó khăn [33]:
“Hãy khoan bàn đến nền tảng của vấn đề, cứ giả
thiết Toà thánh đồng ý ban ơn này, giống như thời kỳ đầu tiên của Giáo hội, là
những gì thuộc đức tin, và những điểm chính yếu thuộc kỷ luật cho toàn Giáo hội
phải được giữ nguyên vẹn, còn bao nhiêu phải thích hợp với phong tục và giáo
dục Trung Hoa.
Nếu chỉ dịch từng chữ trong nghi thức Latinh
sang Trung Hoa, thì ích lợi gì? Liệu người ta có thể làm cách nào chấp nhận
được? Ai dám phiên dịch toàn bộ Kinh thánh sang tiếng Trung Hoa? Đối với tiếng
Trung Hoa, soạn một bộ sách “Phụng vụ các giờ kinh” như của chúng ta đang đọc
hiện thời, có nghĩa lý gì?
“Để cho việc phụng vụ trên có ích lợi hơn,
chẳng những cần phải có những nhà Thần học thông thái, những người biết sâu
rộng về ngôn ngữ, chữ viết và phong tục Trung Hoa, mà còn phải có những người
đã giũ bỏ được mọi thành kiến do nền giáo dục Âu châu. Cha nghĩ coi, liệu có
thể tìm được những người này trong các xứ truyền giáo?
”Để cha hiểu rằng bao nhiêu cái phải thay đổi,
thì tôi chỉ xin nêu ra một cái bình thường nhất và ít quan trọng, đó là ‘áo các
phép’ (surplis). Áo này được mặc trong tất cả các nghi lễ của Giáo hội, đốì với
chúng ta đó là bộ áo chỉnh tề, trang trọng, hơn nữa có lẽ một số người Âu châu
còn cho là uy nghi. Nhưng, cũng thứ áo này, về hình thức và sắc màu, làm cho
dân chúng xứ này phẫn nộ. Điều nói về ‘áo các phép’ có thể mở rộng sang các thứ
khác. Nếu Roma chấp nhận một phụng vụ kiểu Trung Hoa, thì tất cả mọi nghi lễ,
lễ phục, ca hát, phải được thích hợp với những con người chúng ta đang phục vụ
[…].
“Cha đừng công phẫn khi tôi nói thêm: Những
nghi thức phụng vụ đối với chúng ta uy nghi, lại chẳng ăn nhằm gì đối với người
Trung Hoa, Đàng Trong và các dân tộc khác; mũ lễ vuông của chúng ta, lễ phục
ngắn cụt và chật hẹp của chúng ta, cách chúng ta xông hương, những cách cúi lạy
ngắn ngủi, để đầu trần [không đội mũ]… người ta đều cho là hời hợt, nực cười.
Vì ở nơi họ các lễ phục đều dài rộng, cùng với nghi thức bái phục, rất trang
trọng, uy nghi. Nếu cha chứng kiến những nghi lễ của họ trong đền đài vua chúa
và các đền thờ, chắc chắn cha cũng nhận thấy những nghi lễ ấy vừa toát lên sự
tôn kính vừa gây chú ý
“Còn về việc dự định đặt các Thượng phụ giáo
chủ hay các Tổng Giám mục để coi sóc các Gm người Ấn [người địa phương Đông
Ân], chỉ cần hiểu biết tình hình chính trị và địa dư các nước này, thì cũng cảm
thấy không thể thi hành điều đó được. Thường thường sự liên lạc giữa các nước
này với nhau còn khó hơn là liên lạc với Roma”.
Trên đây chúng ta đã nêu một số ý kiến của các
thừa sai tại VN về vấn đề tôn kính tổ tiên và các phong tục địa phương. Một
điều làm cho người ta khá ngạc nhiên là, dù Hiến chế năm 1742 đã cấm ngặt không
được bàn cãi gì nữa về vấn đề này, nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, nhiều thừa sai
Paris, đặc biệt cả hai Gm Đàng Trong lúc đó là Đc Bá Đa Lộc và Labartette, lại
rất bức xúc, phải nói là do lương tâm thúc đẩy, nên ra sức khẩn khoản xin Toà
thánh xét lại, dù các ngài vẫn tuân theo Toà thánh, không dám cho phép giáo hữu
tôn kính theo phong tục trong nước. Liền sau đây, chúng tồi xin thuật lại dài
dòng hơn về việc Toà thánh can thiêp vào việc tôn kính tổ tiên, đến đô phải
nghiêm cấm; qua đó chúng ta sẽ thấy được mặt tiêu cực của việc ngăn cấm này.
III. Toà thánh Roma
can thiệp
Khi các thừa sai phương Tây vào Trung Hoa và
Việt Nam, đều vô cùng bỡ ngỡ về các nghi lễ, phong tục ở đây quá khác lạ với
những gì quen thuộc ở châu Âu, nhiều vị còn cho là mê tín dị đoan, cần phải
được tẩy rửa thì mới hợp với đức tin. Cho nên nhiều báo cáo gửi về châu Âu, xin
giải quyết. Vì ở xa, Toà thánh khó mà hiểu hết sự việc, nên đã ra lệnh nghiêm
cấm, nhất là vào năm 1715 và 1742. Tuy nhiên, ngay từ cuối thế kỷ XVI cũng có
những nhà truyền giáo ra sức nghiên cứu tìm hiểu sâu xa vấn đề. Chẳng hạn như
cha Matteo Ricci [34] để hết tâm sức vào
việc học chữ Hán, tập suy tư và sống như người Trung Hoa, không phải chỉ bề
ngoài mà bằng cả tâm hồn, nghiên cứu ngôn ngữ, văn học, triết học và các phong
tục, nghi lễ… cùa Trung Hoa; hơn nữa, Ricci còn viết sách giáo lý, thiên văn,
toán học, triết học, từ điển bằng tiếng Hoa. Ricci đã cố gắng hội nhập, hay hơn
nữa là hoà mình vào văn hoá, xã hội Trung Hoa trong suốt cuộc đời truyền giáo ở
đây, mở đầu cho nhiều nhà truyền giáo khác theo.
Sau đầy chúng tôi bàn về việc Toà thánh Roma
can thiệp bằng cách cấm các nghi lễ tôn kính tổ tiên, Khổng Tử và nhiều nghi lễ
tương tự ở Trung Hoa [35], nhưng cũng hiểu
là ở cả những nước chung quanh, nhiều ít ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, như Việt
Nam chẳng hạn, mà thời xưa Giáo hội Việt ta quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép
nước Ngô”.
1. Khởi đầu cuộc
tranh tụng:
Năm 1633, bắt đầu châm ngòi cho cuộc tranh tụng
kéo dài ít nhất hơn 100 năm (1633-1742) do hai cha Juan Bautista Moralez, OP,
và Antonio de Santa Maria Caballero, OFM, từ Philippin vào nước Đại Minh. Hai
cha đã chứng kiến ở Mai Dương (huyện lỵ huyện Phước Ninh trong tỉnh Phước
Kiến), các cha dòng Tên cho phép giáo hữu Trung Hoa được kính lễ Đức Khổng và
người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và các
triết gia của họ.
Hai cha nhận thấy giáo hữu Mai Dương làm như
thế là hành vi mê tín dị đoan, nên các ngài lên tiếng phản đối. Do đó năm 1635,
hai cha viết thư cho cha Phó Giám tỉnh dòng Tên Trung Hoa là Manuel Dias [36] hỏi cho ra lẽ, nhưng
không nhận được câu trả lời. Hai cha càng phản đối mạnh hơn, làm cho nhà cầm
quyền địa phương nổi giận với các cha Đa Minh và Phanxicô, vì chống lại phong
tục văn hoá trong nước, gây nguy hại cho an ninh trật tự xã hội. Vì vậy cha Moralez
và một cha Đa Minh khác là Francisco Diaz bị tống giam vào ngục, bị cùm, bị
đánh đòn, sau cùng bị ra toà rồi bị trục xuất sang Áo Môn.
Tại Áo Môn, năm 1639 cha Moralez gửi văn thư
cho cha Manuel Dias lúc đó là Giám sát hai tỉnh dòng Tên Trung Hoa, Nhật Bản, một danh sách, yêu cầu
cha Dias giải thích tại sao các cha dòng Tên đã chấp thuận như vậy; sau đây là
một số câu hỏi:
1. Lý lẽ gì
mà các cha dòng Tên cho phép giáo hữu được đóng góp vào đồ cúng tà thần?
2. Tại sao
cho phép các quan là người giáo hữu, cứ hai lần mỗi tháng vào đền tà thần
Chin-Hoan bái gối thờ lạy, đầu chạm tới đất mà dâng hương nhang?
3. Tại sao
cho phép các quan và các văn nhân là người giáo hữu đến Văn miếu dâng của lễ và
làm nhiều nghi lễ khác tôn kính Khổng Tử?
4. Tại sao
cho phép giáo hữu được ăn của cúng, mà theo cảm nghĩ chung của người ngoại đạo,
là ăn như thế để kính tà thần và nhà hiền triết Khổng Tử, thì sẽ được giàu có?
5. Dựa trên
nền tảng nào, các cha dòng Tên dám cho phép giáo hữu được tôn kính tổ tiên
trong nhà cũng như tại phần mộ và cùng với người ngoại đạo dâng đồ cúng là
thịt, cá, nến sáng và hương nhang; các cha chỉ đòi buộc những giáo hữu ấy giữ 3
điều: – không được dâng, đốt vàng mã; – không được tin là hồn người chết hiện
diện trong khi cử hành các nghi lễ đó; – không được cầu khấn gì với người chết?
6. Dựa trên
nền tảng nào các cha cho phép giáo hữu tham dự lễ an táng người ngoại đạo đầy
dẫy những mê tín dị đoan, sặc mùi tà thần?
7. Tại sao
cho phép giáo hữu được đốt nhang nến và bái lạy trước bài vị những người ngoại
đạo?
8. Tại sao các
cha dòng Tên trả lời mập mờ khi người ta đặt câu hỏi là Khổng Tử có bị án phạt
đời đời không?
9. Tại sao
các cha dòng Tên lại có thể nói rằng, phải chấp nhận những sự việc như thế như
là chấp nhận sự xấu nhỏ hơn, và vẫn ban phép xá giải cho những ai đã làm những
việc ấy?
2. Những quvết đinh
đầu tiên của Toà thánh
Vì thấy cha Giám sát dòng Tên không trả lời
những câu hỏi trên đây, nên cha Clementê Gan, Giám tỉnh Dòng Đa Minh viết thư
cho cha Giám sát dòng Tên yêu cầu cha phải làm sáng tỏ những điểm thắc mắc
trên, sau khi đã bàn hỏi với những người thông thạo vấn đề được chọn ra từ các
Dòng tu. Vẫn im lặng! Vì vậy, bó buộc các cha phải đưa vấn đề gai góc này trình
bày cùng Toà thánh. Hai cha được cử đi, đó là cha Dòng Đa Minh Juan Bautista
Moralez và cha Dòng Phanxicô Antonio de Santa Maria Caballero được các Bề trên
phái về Roma. Tại đây hai cha tâu trình với Toà thánh 17 vấn đề.
Thế là năm 1645 ĐTC Innocentê X ra sắc lệnh cấm
người tín hữu thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên và đức Khổng Tử. Sắc lệnh
được công bố tại Goa, Manila và Áo Môn. Cha Moralez trở lại Áo Môn, Trung Hoa,
đích thân thông báo cho cha Giám sát Dias, nhưng Dias trả lời rằng dòng Tên sẽ
trình bày lại với ĐTC rõ ràng hơn.
Năm 1648, cha Francisco Capillas, O.P. chịu tử
đạo vì chống lại việc kính thờ tổ tiên và Đức Khổng Tử.
Tám năm sau, ngày 23-3-1656, Cha Martino
Martini, S.J., sau khi trình bày nghi lễ kính bái tổ tiên với Thánh Bộ Thánh
vụ, ĐTC Alexander VII lại cho phép. Bởi vì, cứ theo trình bày của Martini,
người Trung Hoa hoàn toàn chẳng dâng cúng gì cho Đức Khổng (nihil omnino
offerendo), mà chỉ tỏ bày cách tôn kính như thói thường các môn đệ tôn kính
thầy mình; đàng khác những nghi thức ấy hoàn toàn có tính cách dân sự, không
nhuốm màu sắc tôn giáo. Các giáo sĩ dòng Tên hiểu biết được như vậy là nhờ
những cuộc tiếp xúc với mọi giới, đặc biệt giới trí thức Trung Hoa thời đó, chứ
không phải chỉ nhìn vào những hình thức bề ngoài trong việc cúng bái của giới
bình dân đôi khi pha trộn màu sắc mê tín.
Phái “Giăng-sen” (Jansenistes) ở Pháp được dịp
công kích dòng Tên hơn nữa, cho rằng dòng Tên ở Đông Á tán thành những việc tôn
thờ sặc mùi mê tín, dị đoan của dân ngoại. Pascal, nhà khoa học, cũng là nhà
Triết học nổi tiếng của Pháp, càng mạnh mẽ lên án dòng Tên hơn, nên trong
Lettres provinciales, thư thứ 5 đề ngày 20-3- 1658, ông công kích dòng Tên nhiều
mặt, kể cả vấn đề nghi lễ cúng bái tổ tiên của Đông Á; Pascal cho rằng, các
giáo sĩ dòng Tên ở Đàng Trong dám cho phép giáo hữu thờ tà thần Quan Âm và Đức
Khổng Tử với điều kiện giấu ảnh Chúa Giêsu trong mình mà thầm thĩ kêu xin! Thế
là các Giêsu hữu càng bị người ta cho là những kẻ đạo đức giả hình bằng từ ngữ
“jésuitiques”, “Morale des Jésuites”!
Những người tán thành quyết định 1656 của ĐTC
Alexander VII, xem ra giải thích rộng rãi hơn, coi quyết định năm 1645 trước đó
của Đức Innocentê X không còn giá trị. Ngược lại, nhiều người vẫn theo quyết
định của Toà thánh năm 1645, nhất là phái “Giăng-sen” và Đại học Sorbonne. Rõ
ràng là lúc đó xuất hiện hai phái trong Giáo hội về vấn đề tôn kính tổ tiên.
Vậy, sắc lệnh năm 1656 có huỷ bỏ sắc lệnh 1645
không? Cha Juan de Polanco, O.P., một vị thừa sai tông toà (missionnaire
apostolique), xin Thánh Bộ Thánh vụ giải quyết, thì ngày 20-11-1669 Thánh Bộ
trả lời: cả hai sắc lệnh trên đây vẫn hoàn toàn có giá trị và phải được tuân
giữ tuỳ theo các vấn đề, tuỳ theo các hoàn cảnh và tuỳ theo tất cả những gì
chứa đựng trong các nghi vấn được nêu ra.
Từ đó xem ra hai phe phái, nhất là tại Đông Á
có vẻ như cùng hoà hợp nhau hơn, vì nhóm nào cũng thấy sắc lệnh 1645 hay 1656
có giá trị. Hơn nữa, một sự kiện làm hai phái thừa sai ở Trung Hoa ngay từ 1665
đã xích lại gần nhau hơn, vì tất cả thừa sai các Dòng bị giam lỏng cùng một nhà
tại Quảng Châu trong năm năm kể từ 1665, có dịp “rảnh rỗi” trao đổi về nền văn
hoá Trung Hoa và Giáo hội phải thích nghi với văn hoá vùng này.
Nguyên đối với vấn đề kính lễ Đức Khổng và
người quá cố, các vị đồng ý với nhau là, phải tuyệt đối tuân theo những câu trả
lời của Bộ Thánh vụ, tức Bộ Tra vấn, đã được ĐTC Alexander VII chấp thuận năm
1656; vì những câu trả lời ây được dựa trên nền tảng khá chắc chắn này mà chẳng
có gì hiểu trái ngược lại được. Đó là không được đóng cửa việc cứu độ đối với
vô số người Hoa, khi không cho họ bước vào Kitô giáo, chỉ vì cấm họ thi hành
những việc họ có thể làm hợp pháp và với thiện tâm, là những việc nếu họ không
thi hành sẽ gây ra nhiều thiệt hại lớn lao.
3. Quyết định của
Đc Maigrot[37]
Đc Charles Maigrot, một vị thừa sai Paris, được
bổ nhiệm làm Gm tông toà Phước Kiến từ 1687, kế vị Đc Pallu, thể theo ý Toà
thánh công bố quyết định “chết người” sau đây [38] (xin ghi lại tóm tắt):
“Theo các Hiến chương và sắc lệnh của Toà
thánh, thì một trong những bổn phận của các Đại diện tông toà là phải lo liệu
cho việc tôn thờ Thiên Chúa và sự tinh tuyền về các phong tục trong những vùng
lớn lao do các ngài chịu trách nhiệm. Vì vậy, tôi truyền lệnh cho mọi thừa sai
cách chung, cũng như từng vị thừa sai cách riêng, trong giáo phận tôi, phải
tuân giữ tất cả những điều sau đây cho đến khi Toà thánh định liệu thể khác:
“Thứ nhất, bởi vì, nếu
người ta viết hoặc nói sang tiếng Hoa các từ Tây phương chỉ cho Thiên Chúa, thì
thấy kỳ cục; vậy chúng ta phải dùng từ Trung Hoa Thiên Chủ là từ đã được sử
dụng lâu đời, có nghĩa là: Chủ của Trời. Nhưng phải loại bỏ hoàn toàn hai từ
Thiên và Thượng Đế, dù cho rằng vẫn có một số người Hoa hiểu hai từ này chỉ cho
Thiên Chúa mà người Kitô giáo thờ lạy.
“Thứ hai, trong bất cứ nhà thờ nào, cũng không
được phép treo tấm hoành phi (bảng treo ngang trong nhà có khắc chữ sơn son
thếp vàng) trên đó viết hai chữ Kính Thiên; nơi nào đã treo, thì hạn trong 2
tháng phải tháo gỡ. Chẳng những thế, mà bất kỳ tấm bảng nào hay những câu thơ
nào trong các nhà thờ có chữ Thiên hay Thượng Đế dù có ý để chỉ cho Thiên Chúa,
cũng phải gỡ bỏ, vì tôi thâm tín rằng những từ đó và đặc biệt từ Kính Thiên có
ý nghĩa tà thần.
“Thứ ba, tôi tuyên bố rầng, trước đây người ta
đã trình bày với ĐTC Alexander VII những điểm tranh cãi giữa các thừa sai, liên
quan tới việc tôn kính tổ tiên và Đức Khổng không đúng với sự việc ở đây, cho
nên không thể dựa vào đó mà bỏ qua những quyết định khác của Toà thánh.
“Thư bốn, tôi cấm các thừa sai không được vì lý
do nào hoặc bằng cách nào, cho phép người tín hữu lãnh nhiệm vụ tế tự, hoặc các
công việc khác của tế tự, cũng chẳng được hiện diện trong các cuộc tế tự long
trọng người ta quen tổ chức hai lần một năm kính nhớ Đức Không và tôn kính người
đã khuất, vì nó đầy dẫy mê tín.
“Thứ năm, tôi hết sức ca tụng những thừa sai đã
nhiệt thành ra lệnh huỷ bỏ trong vùng truyền giáo của mình, những tấm bảng quen
ghi các câu kính nhớ người qua đời.
“Thứ sáu, nhận thấy rằng, người ta đã công khai
viết một số điều gây nguy hại cho những người chất phác, và mở đường cho mê tín
dị đoan, ví dụ:
Nếu người ta hiểu đúng triết học Trung Hoa, thì
triết học này chẳng có gì trái ngược với đức tin Kitô giáo;
Việc Đức Khổng kính lễ các thần, có tính cách
chính trị hơn là tôn giáo;
Sách Kinh dịch là một toát yếu hay một tổng
luận học thuyết trổi vượt về vật lý và luân lý;
“Vậy, tôi cấm tất cả những cách trình bày như
thế hoặc giống như thế trong giáo phận này, vì sai lạc, càn dỡ và gây gương
xấu.
“Thứ bảy, yêu cầu các thừa sai lưu ý để các
thầy giáo là người giáo hữu đừng đọc hoặc giải thích các sách Trung Hoa trong
trường học nghiêng về mê tín hay vô thần, mà phải giải thích cách nào cho thấy
một Thiên Chúa cao cả dựng lên trời đất muôn vật”.
4. Đại học Sorbonne
lêu án nghi lễ Trung Hoa
Ngày 18-10-1700, Phân khoa Thần học Sorbonne
cũng lên án việc tôn kính tổ tiên vả Đức Khổng, đặc biệt lên án những quan điểm
sau đây:
- Dân tộc Trung Hoa đã bảo tồn ưên 2000 năm
nay, trước khi Chúa Giêsu ra đời, về nhận thức một Thiên Chúa chân thật và đã
tôn kính Người đến mức có thể làm gương mẫu cho nhiều dân tộc.
- Dân tộc Trung Hoa đã tế lễ Đấng Tạo hoá trong
ngôi Đền cổ kính nhất của thế giới [có lẽ muốn nói về tế Đàn
- Dân tộc Trung Hoa đã sống một nền luân lý
cũng tinh tuyền như Tôn giáo.
5. Sứ thần de
Tournon đi Trung Hoa
Trước hết nên biết rằng, ngày 20-11-1704, ĐTC
Clementê XI [39] ra sắc lệnh chấp thuận những điểm sau
đây do Bộ Thánh vụ công bố:
- Cấm dùng từ ngữ
Thiên, Thượng Đế để chỉ cho Thiên Chúa;
- Cấm trưng bày trong
nhà thờ tấm hoành phi có hai chữ Kính Thiên;
- Cấm làm chủ tế hoặc
tham dự lễ tế Đức Khổng hoặc người quá cố, vì đó là nghi lễ đầy dị đoan;
- Cấm tế Đức Khổng
trong ngày một và rằm mỗi tháng;
- Cấm đặt bài vị trong
nhà.
Tuy nhiên, sắc lệnh trên đây chỉ được Sứ thần
Carlo Tommaso Maillard de Tournon công bố tại Nam Kinh ngày 25-1-1707, theo đó
ai không tuân lệnh, tức khắc bị vạ tuyệt thông. Đức cha de Tournon được ĐTC
Clementê XI cử đi Trung Hoa để giải quyết vấn đề nghi lễ Trung Hoa, với những
chức tước: Thượng phụ Giáo chủ Antiocô, Tổng Uỷ viên và Khâm sai Toà thánh ở
Đông Ấn, Trung Hoa và những vương quốc kế cận với quyền hành Đặc sứ Toà thánh
(Patriarche d’Antioche, Commissaire et Visiteur apostolique général dans les
Indes orientales, dans la Chine et autres royaumes adjacents, avec les pouvoirs
de légat à latere)[40]. Sứ thần de Tournon rời
châu Âu cuối năm 1704, tới Bắc Kinh 4-12-1705. Sau khi de Tounon công bố sắc
lệnh của ĐTC Clementê XI tại Nam Kinh (lúc đó vừa được công bố làm Hồng y), thì
những thừa sai nào tuân theo sắc lệnh của ĐTC, bị vua Khang Hy trục xuất khỏi
Trung Hoa, trong số này có Đc Maigrot. Còn các thừa sai dòng Tên, Đc Francis,
OFM, Gm Bắc Kinh và Đc Alvare de Benavente, dòng Augutinh, Gm Quảng Tây, cố
gắng giải thích cho giáo hữu và nhà cầm quyền, hầu tránh gây thiệt hại cho công
cuộc truyền giáo bao nhiêu có thể. Vua Khang Hy cũng ra lệnh trục xuất Sứ thần
de Tournon vì đã dám đi ngược với phong tục Trung Hoa, giao cho người Bồ Đào
Nha ở Áo Môn canh giữ. Sứ thần qua đời ngày 8-6- 1710 trong lúc còn bị quản
thúc tại Áo Môn.
6. Hiến chế
Ex ilia die năm 1715
Roma càng cương quyết giữ vững lập trường cấm
việc tôn kính tổ tiên theo nghi lễ Trung Hoa. Vì thế ngày 19-3-1715, Đức
Clementê XI công bố Hiến chế Ex ilia die, mục đích là xác minh hơn sắc lệnh năm
1704 và buộc mọi người phải vâng phục hoàn toàn, còn các thừa sai thì phải long
trọng tuyên thệ tuân giữ. Sau đây xin tóm lược những điểm chính của Hiến chế:
1. ĐTC tỏ ra
lo âu về tên gọi trong tiếng Hoa để chỉ cho Thiên Chúa và những nghi lễ của
nước đó, mà có người cho là mê tín, có người cho là được phép thực hiện vì chỉ
có tính cách dân sự. Vậy cần phải chấm dứt các cuộc tranh luận.
2. Ngay từ
thời các ĐTC trước đây, như Đức Innocentê XII (GH 1691-1700), vị tiền nhiệm đã
giải quyết, rồi ngày 20- 11- 1704, Ta đã ra sắc lệnh cấm và nay cấm rõ hơn:
- Dùng từ Kính Thiên trên các bức hoành phi
treo ở nhà thờ hoặc nhà tư;
- Cấm tế Đức Khổng và tổ tiên trong các dịp:
thứ nhất, một năm hai lần mặt trời ở chính đường hoàng đạo; thứ hai, khi các
quan lớn nhỏ thi đậu, vào văn miếu cúng tế bái tạ Đức Khổng; thứ ba, đơm cúng
ông bà trong nhà tổ (từ đường); thứ bốn, đơm cúng ông bà trước bài vị (thần
chủ), trong nhà riêng, nơi mồ mả, trước khi mai táng; thứ năm, giữ thần chủ
trong nhà.
1. Ngày
25-9-1710, ĐTC Clementê XI đã ra sắc công nhận việc Sứ thần de Tournon công bố
ngày 25-1-1707 sắc lệnh 1704 tại Nam Kinh.
2. Buộc mọi
thừa sai ở Trung Hoa hoặc ở các nước lân cận, phải thề theo mẫu ở cuối Hiến chế
này. Ai chẳng tuyên thệ, thì “sẽ bị vạ tuyệt thông dành cho Toà thánh”. Ai chưa
thề, thì không được cử hành các bí tích dù ở trong giáo phận, dù trong”nhà Dòng
riêng mình”.
3. Không ai
được nói, làm điều gì trái ngước với Hiến chế nàv, như xin Toà thánh xét lại,
hay xin Toà thánh ban rộng ơn… Tóm lại, không ai được bàn cãi gì nữa; chỉ có
việc tuyệt đối tuân phục theo Hiến chế.
4. Sau đây
là “bản mẫu lời thề”:
“Tôi là N. thầy cả
giảng đạo, do Toà thánh hay do đấng bề trên tôi bởi phép Toà thánh, sai tôi đi,
hay đã định cho tôi làm các phép cho bổn đạo trong nước N. hay là xứ N., thì
tôi sẽ vâng phép Toà thánh truyền dạy về các lễ phép dối trá nước Trung Hoa
trong Hiến chế của ĐTC Clementê XI, đã lệnh phải tuyên thệ theo mẫu lời thề
này. Tôi đă đọc trọn Hiến chế ấy cách kỹ càng, tôi xin vâng giữ trọn vẹn, cách
chính xác, tuyệt đối và bất khả xâm phạm đúng như Hiến chế dạy, mà chẳng dám
thoái thác cách nào. Nếu tôi không giữ như vậy, thì hễ lần nào tôi lỗi phạm,
tôi cam đoan chịu phạt vạ như Hiến chế qui định. Vậy tôi xin đặt tay trên sách
Phúc âm này mà hứa (promitto), khấn (voveo) và thề (juro). Xin Thiên Chúa cùng
sách Phúc âm của Chúa phù hộ cho tôi”.
Tôi là N., chính tay tôi ký.
1. Truyền
dạy phải công bố Hiến chế này.
2. Ban hành
tại đền thờ Đức Bà cả ở Roma, đã đóng dấu ấn ngư Ông (sub annulo Piscatoris)
ngày 19 tháng 3 năm 1715 là năm thứ 15 từ khi Ta trị vì Giáo hội.
Tại Đàng Trong, cha G.B. Sanna, SJ., giải thích
Hiến chế trên cách rộng rãi, gần như là phản ứng lại, nên ngày 21-2-1717 đã
công bố những điều giáo hữu được làm liên quan tới vấn đề người qua đời, như
chúng tôi đã trình bày ở trên.
Còn Đc Perez-Gm Đại diện tông toà Đàng Trong,
cũng chần chừ công bố Hiến chế 1715 sau khi nhận được Hiến chế vào cuối tháng
11-1716. Đc Perez là người lai Âu Á, không phải lai Pháp, cũng chẳng phải là
thành viên của Hội thừa sai Paris, mặc dù được chính Đc Lambert và mấy cha thừa
sai Paris khác trực tiếp huấn luyện trong Chủng viện thánh Giuse tại Ajuthia.
Lúc đầu Đc Perez rất ngạc nhiên, không tin Hiến chế Ex ilia die là đích thực
của ĐTC Clementê XI. Sau khi biết rõ, Đc vẫn ngại công bố; nhưng do sự thúc ép
của ba cha thừa sai
Ngày 10-7-1717, Đc Perez ra thư luân lưu buộc
giáo hữu tuân theo lệnh Toà thánh, nhưng Đc không dám đóng mộc vào thư vì sợ
chính quyền ĐT cho là đi ngược với phong tục VN. Dưới đây, chúng tôi xin theo
bản Latinh mà chúng tôi đã dịch ra trước đây trong cuốn sách lưu hành nội bộ
Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773[43]
vì không có bản văn gốc chữ Việt:
“Ta là Cha Cả Phanxicô, vít vồ Bugi [giám mục
hiệu toà Bugie], thay mặt Đức Giáo tông ở Đàng Trong, Chiêm Thành và Cao Mên,
xin Đức Chúa Trời ban cho anh chị em bổn đạo được ơn giữ đạo thánh và phần phúc
đơi đời.
“Trên thế gian này hiện có nhiều sự tối tăm,
song ơn Đức Phiritô Sangtô hằng soi chiếu cho chúng ta; vậy kẻ nào đi theo ánh
sáng trên đây, không thể lầm lạc được. Trong nước này có nhiều điều gây ra khó
khăn, rắc rối, song Đức Giáo tông đã xét định mọi việc. Vậy chúng ta phải vâng
lệnh Đức Giáo tông và phải giải định (definire) mọi sự theo lệnh của Người.
“Vì thế trong những ngày đầu năm mới và các
ngày mà bổn đạo quen làm cỗ, thì không được đặt mâm cỗ trên giường thờ tổ tiên;
“Không được tế. Không được phủ phục sát đất
trước giường thờ này;
“Không được làm bồi tế trong các cuộc cúng tế
trên;
“Không được mang cờ gia triau [gia triệu].
“Chúng ta phải tử bỏ mọi thứ mê tín dị đoan;
chẳng những chúng ta không được làm những việc ấy, mà hơn nữa, còn phải xa
tránh những công việc ma quỉ xấu xa, tức là việc thờ tà thần: như là thề thốt
bua ba [vua chúa phạt vạ] là việc làm nhân danh quỉ thần; vậy, hoàn toàn không
được phép làm việc đó.
“Anh chị em thân mến,
“Xin anh chị em hãy tuân giữ cặn kẽ các lời
trên đây, để anh chị em khỏi đi vào đường lầm lạc, là điều bất lợi cho anh chị
em. Tất cả chúng ta dù là thầy cả, hay là bổn đạo, đều phải một lòng một ý vâng
phép Đức Giáo tông; như vậy chúng ta sẽ là những người con ngoan ngoãn của
thánh Ighêrêgia; ai không tuân phép, không phải là con của thánh Ighêrêgia và
mất phần phúc đã hứa ban trên ười.
“Xin Đức Chúa Trời gìn giữ anh chị em khỏi mọi
vết nhơ và che chở anh chị em đời đời.
“Làm ngày 29 tháng 5 [Đinh Dậu], tức
10-7-1717″.
Chúng ta thấy, ngày 30-10-1717, Đc Phó ĐT là
Marin Labbé, 5 vị thừa sai Paris ở ĐT là Sennemand, Heutte, Flory, Godefroy,
Gouge và linh mục Mauro Trần Thế Lộc người ĐT, cũng tuyên thệ theo bản mẫu Hiến
chế, nhưng không thấy ghi tên Đc Perez, cha Sanna, S.J. hay cha Phanxicô nào.
Tại kinh đô Huế, cha Lorensô (Huỳnh Lâu?) họp chừng 300 giáo hữu trong nhà thờ
để thuyết phục họ phải vâng phục tuân theo Hiến chế[44]. Cha Heutte thì cho rằng, thư luân lưu
của Đc Perez còn “yếu”, chưa nói mạnh mẽ hơn như đáng phải nói
7. Tám điều được
phép làm
Hiến chế Ex ilia die vẫn không dập tắt được các
cuộc tranh luận về lễ phép nước Ngô, dù Hiến chế bó buộc các thừa sai phải
tuyên thệ vâng phục, thậm chí còn phạt vạ, nếu dám đi ngược lại với Hiến chế. Ở
Đông Á đã vậy, mà ngay tại Roma vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Những thừa sai
và giáo hữu ủng hộ văn hoá địa phương, càng bỡ ngỡ khi thấy Roma áp đặt một lối
nhìn của phương Tây cho phương Đông có tính cách độc đoán như vậy, thì càng khó
chịu hơn nữa, vì thấy cái nhìn như vậy là “cái nhìn thực dân văn hoá”, dù Roma
không hề có ý đó, mà chỉ nghĩ là để bảo toàn tính tinh tuyền tôn giáo và phong
hoá theo Kitô giáo.
Đứng trước “thảm kịch” đang diễn ra trong lòng
Giáo hội, ĐTC Clementê XI lại phái Đc Carolo-Ambrogio Mezzabarba làm Khâm sai
Toà thánh với chức Đặc Sứ thần (Legatus à latere), đồng thời phong cho ngài làm
Thượng phụ Giáo chủ Alexandria. Sứ thần Mezzabarba lên tàu tại Lisbõa ngày
23-3- 1720, đặt chân lên Áo Môn ngày 20-9-1720, vào Quảng Châu ngày 11-10, lên
Bắc Kinh triều yết Hoàng đế Khang Hy. Trở lại Áo Môn, Sứ thần công bố ngày
4-11-1721 Tám điều được phép làm (Octo permissiones) [45], miễn là phải coi những việc đó thuôc
nghi lẽ dân sư. không có tính cách tôn giáo, và phải tránh mọi hình thức dị
đoan:
1. Được giữ
Thần chủ trong nhà;
2. Được làm
các nghi lễ đối với người qua đời;
3. Được kính
lễ Đức Khổng và giữ mục vị (bài vị) của Ngài;
4. Được dâng
hương nến trong lễ an táng;
5. Được lạy
trước Thần chủ, trước quan tài hay trước thi hài người chết;
6. Được cúng
đồ ăn, hoa quả trước quan tài, khi ở đó có đặt Thần chủ;
7. Được phép
khấu đầu (bái đầu sát mặt đất) trước Thần chủ trong ngày đầu năm và các lễ tiết
khác quanh năm;
8. Được thắp
nhang nến, cùng dâng cúng đồ ăn trước Thần chủ, mồ mả.
Khi cử hành các nghi lễ nói trong số 1,3,4,6,
thì phải viết mấy chữ đặt bên cạnh, hầu giải thích việc mình làm chỉ có tính
cách hiếu thảo, dân sự, không hề mang ý nghĩa tôn giáo.
Sứ thần Mezzabarba muốn đưa ra một lối nhìn cởi
mở, tôn trọng các nền văn hoá, nhìn sự việc theo đúng ý nghĩa của nó, nên đã
công bố những điều trên. Ngay khi vừa tới Áo Môn ngày 20-9-1720, Sứ thần đã
giải vạ cho Đức Gm Áo Môn và cho cha José Monteiro, Giám tỉnh DÒNG TÊN Phụ tỉnh Trung Hoa, vì cả hai đã bị vạ tuyệt
thông do không tuân lệnh Hiến chế Ex ilia die.
Tám điều được phép làm vẫn chưa giải quyết xong
vấn đề: được lòng phương Đông thì lại mất lòng phương Tây! Quả thật, chính Roma
do bị nhiều phía thúc ép, không chấp thuận việc làm của Sứ thần. Vì thế, ngày
26-9-1735, ĐTC Clementê XII ra đoản sắc Apostolicae sollicitudinis hủv bỏ hai
bức thư muc vu của Đc Francis, OFM, Đại diện tông toà Bắc Kinh (Đc qua đời vài
ngày trước khi ĐTC ra đoản sắc. Nội dung của hai bức thư này là tuyên bô Tám
điều được phép làm, để giáo hữu an tâm mà thực hành. Nhưng đoản sắc trên đây
lên án Tám điều được phép làm là “hoàn toàn vô giá trị, bất thành sự và phải
được huỷ bỏ” (penitus et omnino nulla, invalida et irrita) [46].
Ở Đàng Trong, Đc Elzéar-Franẹois des Achards de
La Baume, Gm hiệu tòa Halicarnasse, sinh năm 1679 tại Avignon, được Toà thánh
cử làm Kinh lý tông toà (Visiteur apostolique), thay mặt Toà thánh giải quyết
các cuộc tranh chấp về vùng hoat đông của các nhóm thừa sai, đồng thời lênh cho
giáo đoàn nàv phải tuân theo Hiến chế Ex ilia die và không đươc làm theo Tám
điều đươc phép Đc Mezzabarba đã công bố.
Đc La Baume tới Áo Môn 15-7-1738, thì bị Thống
đốc bán đảo này giam lỏng mấy ngày, vì chưa có phép vua Bồ Đào Nha để tới đây;
may nhờ có cha Giám tỉnh DÒNG TÊN can
thiệp với Thống đốc, nên mới được tự do. Sau một tuần lễ phải dừng tại Áo Môn,
lại gặp “tai nạn” bị quản thúc mấy ngày, Đc La Baume và phái đoàn vội vàng rút
lui khỏi Áo Môn, vào Quảng Châu, thuê ghe thuyền của người Hoa chở đi Đàng
Trong, mãi đến 30- 4 – 1739 mới có mặt tại Hội An, nhưng bị ngã bệnh, từ trần tại
Phủ Cam trong khoảng từ 15g-16g ngày 2-4-1741, nhằm chính ngày lễ Phục sinh,
khi chưa hoàn thành cuộc kinh lý[47].
8. Hiến chế Ex quo
sinsulari năm 1742
Hơn 100 năm sau kể từ khi Toà thánh lần đầu
tiên, năm 1645, chính thức cấm nghi lễ Trung Hoa, tình hình vẫn chưa ổn; nên
ngày 11-7-1742, ĐTC Bênêđitô XIV [48] phải công bố Hiến chế Ex quo singulari providentia [49].
Hiến chế gồm 30 số, nhắc lại tất cả những chỉ
thị, sắc lệnh, Hiến chế của Toà thánh từ 1645 đến 1735 về vấn đề nghi lễ Trung
Hoa và phi bác Tám điều được phép làm do Đc Mezzabarba công bố năm 1721, đồng
thời công bố bản mẫu lời thề mới cho các thừa sai (giống như trong Hiến chế Ex ilia die), chỉ ghi thêm một điều là
thề không áp dụng những gì Đc Mezzabarba đã cho phép làm năm 1721.
Hiến chế long trọng ghi lại là vấn đề đã được 7
ĐTC giải quyết từ 1645 đến 1742:
- 1645: Innocentê X;
- 1656: Alexander XII;
- 1669: Clementê IX;
- trước 1700, Innocentê
XII;
- 1704, 1710, 1715:
Clementê XI;
- 1735: Clementê XII;
- 1742: Bênêđitô XIV.
Sau Hiến chế Ex quo singulari, ngày 26-11-1744
ĐTC Bênêđitô XIV cử Đc Hilario Costa (Đức Thầy Hy), người Ý, Dòng Augutinh, Gm
Đại diện tông toà Đông ký từ năm 1735, làm Khâm sai Toà thánh ở Đàng Trong. Đức
Khâm sai vào ĐT từ 5-1747, công bố Hiến chế Ex quo sineulari và giải quvết
những tranh chấp còn lai giữa các nhóm thừa sai
Dưới đây, chúng tôi xin ghi lại một bản lời thề
ngày 16-8- 1750 tại Kẻ Vĩnh của cha Phan-chi-cô [tên là Thân?], người Đàng
Ngoài, thuộc giáo phận Tây ký, thời Đc Néez. Nguyên bản bằng chữ Nôm của luật
sư Giuse Nguyễn Đức Quý (qua đời 6-3-2004), được phiên dịch sang chữ Quốc ngữ
như sau:
“Tôi là Phan-chi-cô Sa-xê-do-tê [linh mục,
phiên âm từ Bồ Đào Nha sacerdote] Đàng Ngoài, các điều Toà thánh đã phán, quyết
đoán về những thói lễ phép Đại Minh trong vu-la [bulla] Đức Thánh Pha-pha
Kê-lê-men-tê thứ mười một đã ra về sự ấy và Người dạy phải thề, thì tôi đã đọc
và biết tỏ tường, cùng dốc lòng giữ cứ như vậy cho kỹ, cho lọn, cho chắc, chẳng
dám lấy chước móc nào cho khỏi vâng. Vả lại, có khi nào tôi phải coi sóc những
bổn đạo nào về phần linh hồn cách nào mặc lòng, thì tôi sẽ làm hết sức cho kẻ
ấy vâng cứ như vậy nữa. Sau nữa, tôi cũng sẽ làm hết sức mà can chẳng có khi
nào dám chịu cho các bổn đạo ấy giữ và làm những thói lễ phép Đại Minh Đức Thầy
A-tri-a-ca A-lê-xan-di-nô [Thượng phụ Giáo chủ Alexandria, tức là Đc
Mezzabarba] đã tha phép cho bổn đạo giữ trong thư dụ Người đã viết ở thành
Ma-cao, ngày mồng bổn tháng mười một nước người [dương lịch], năm từ Đức Chúa
Giê-su ra đời là một nghìn bảy trăm hai mươi mốt, là những sự Đức Thánh Pha-pha
Biên-tô thứ mười bốn [Bênêđitô XIV, phiên âm từ Bồ Đào Nha Bento] đã cấm rồi.
Bằng tôi chẳng có vâng cứ như vậy, thì tôi xin chịu phạt, cùng tôi biết mình đã
mắc phải các vạ đã đoán phạt trong hai vu-la ấy. Vậy tôi đá đến sách
E-van-giê-li-ô, tôi đã hứa, khấn, cùng thề sẽ cứ như vậy. Tôi xin Đức Chúa Trời
cùng thánh E-van-giê-li-ô này vâng hộ cho tôi như vậy.
“Tôi là Phan-chi-cô, chính tay tôi ký”.
Bên cạnh bản lời thề trên đây bằng chữ Nôm, Đc
Néez, Gm giáo phận Tây Ký (Hà Nội) đã viết mấy lời bằng tiếng Latinh xác nhận
lời thề này tại làng Kẻ Vĩnh ngày 16-8-1750.
Ở VN cũng như ở Trung Hoa, người Công giáo đều
phải hoàn toàn vâng phục Hiến chế 1742, không ai được viện bất cứ lý do gì để
tranh luận nữa. Qua 187 năm sau đó, tức 8-12-1939 T.Bộ Truyền giáo mới công bố
Huấn thị Plane compertum est, sau khi đã trình bày với ĐTC Piô XII, cho phép
Giáo hội ở Trung Hoa và tại các nước lân cận được phép cúng giỗ tổ tiên… theo
phong tục dân sự địa phương. Riêng ở VN, sau khi được Toà thánh chấp thuận,
ngày 14-6-1965 Hội đồng Giám mục VN công bố tại Đà Lạt một Thông cáo cho phép
cúng gìỗ… mà chúng tôi xin ghi lại chi tiết hơn ngay phần sau: Tháo gỡ nghi lễ
tôn kính tổ tiên.
[1] Hồng-Đức thiện chính thư, Nguyễn-Sĩ-Giác, Tiến
sĩ, phiên dịch; Giáo sư Vũ-Văn-Mẩu, Luật khoa Thạc sĩ, đề tựa, Nam Hà Ấn quán,
Sài Gòn. 1959. tr. 27-33.
[2] Như trên, tr. 60-61.
[3] Quốc triều hình luật (Hình luật triều
Lê), Lưỡng-Thần Cao-Nãi- Quang phiên âm và dịch nghĩa, Nguyễn-Sĩ-Giác, Tiến-sĩ,
nhuận dắc, Vũ-Văn-Mẩu, Luật-khoa Thạc-sĩ , Khoa-trưởng Trường Luật, đề tựa, Sài
Gòn, 1956, tr. 4-9.
[4] A. de RHODES, Hisíoire du royaume de Tunquin,
[5] Chánh phi của Trịnh Tráng là
Nguyễn Thị Ngọc Tú (con của Nguyễn Hoàng) qua đời tháng 3 năm Tân Mùi (1631);
còn Phùng Ngọc Đài là Vương phi của Trịnh Tráng và là mẹ của Trịnh Tạc. Trịnh
Tráng tốt (chết) hồi 20 giờ 26-5-1657, phát tang 28-5-1657 (MARINI, Histoire
nouvelle et curieuse, sđd., tr. 306-307).
[6] Relation des Evesques ýrartẹois
aux royaumes de
[7] P. MARINI, Histoỉre nouvelle et
curieuse, sđd., Paris, 1666, tr. 313- 327.
[8] Vua Lê Thần Tông (1607-1662) lên ngôi
vua lần thứ nhất (1619-1643) qua các niên hiệu: Vĩnh Tộ 1619-1628, Đức Long
1629- 1634, Dương Hoà 1635-1643; lần thứ hai (1649-1662) qua các niên hiệu:
Khánh Đức 1649-1652, Thịnh Đức 1653-1657, Vĩnh Thọ 1658- 1661, Vạn Khánh 1662.
Vậy, Lê Thần tông làm vua lần thứ nhất 25 năm, lần hai 13 năm, thọ 56 tuổi, sở
dĩ vua Lê Thần tông cũng như một số vua khác hay thay đổi niên hiệu, vì những
nguyên nhân, như đại hạn trong nước, sao chổi xuất hiện, nhà vua bị bệnh, bại
trận…
[9] Có lẽ là cha Onofre Borgès, người Thụy
Sĩ, truyền giáo ở Đàng Ngoài từ 1642-1663.
[10] Vào các dịp khác khi vào chầu chúa
Trịnh, các linh mục Dòng Tên mặc áo thụng tím.
[11] MARINI, Histoire nouvelle et curieuse,
sđd.,
207 Có lẽ là 1.000.000
đồng Écus của Tây phương thời đó ?
[13] A. de
[14] A. de RHODES, Divers voyages et
missions, sđd., Paris, 1653, tr. 76-77.
[15] Juan de LA PAZ (Frey), sinh tại Tây
Ban Nha, gia nhập Dòng Đa Minh thế kỷ XVII, truyền giáo tại Philippin, có thời
làm Viện trưởng Đại học thánh Tôma ở Manila (từ năm 1645, mang danh hiệu Đại
học thực sự: Universidad de Santo Tomas).
[16] về tập sách này, X: – A. LAUNAY,
Histoire de la mission de Cochinchine, l, sđd.., tr. 608; – A. LAUNAY, Histoire
de la mission du Tonkin, sđd., ư. 365. về vấn đề này, còn hai cuốn nữa của
[17] A. LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochinchine.I, sđd., tr. 608- 609.
[18] Giambattista SANNA (Giovanni-Battista
Sana) 1668-1726, sinh 30-4-1668 tại Sardaigne, gia nhập DÒNG TÊN 11-2-1682; đi truyền giáo tại Mexico, Ecuador;
khấn lần cuối tại Quito (Ecuador) ngày 8-5-1701; đi Lisbõa 1713, đến Đàng Trong
1714, Quảng Châu 1722; trở lại Đàng Trong làm quan trong Thái Y viện chúa
Nguyễn từ 1724; qua đời 16-2-1726 tại Hội An, an táng tại Sơn Phô (Đông Hội
An); vào năm 1961 chính tôi, tác giả tập sách này, còn thấy ngôi mộ cha Sanna
trong thổ cư của một gia đình ở đây và đã đứng chụp hình cạnh ngôi mộ cha
Sanna; hiện nay chưa tìm lại được ngôi mộ này. Về Sanna: BAVH, 1919, ư. 516-517
và năm 1921, tr. 192.
[19] A. LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochinchine, I, sđd.. tr. 601-602.
[20] Pierre HEUTTE, MEP, sinh quán tại miền
Normandie, Pháp; đi truyền giáo từ 2-3-1704, làm việc ở Xiêm đến năm 1712, sau
đó vào Đàng Trong; qua đời tại Huế 27-9-1719.
[21] A. LAUNAY, Hìstoire de la mission de
Cochinchine, I, sđd., tr. 304.
[22] Eugène-Louis LOUVET (1838-1900), sinh
tại Rouen (Seine- Inférieure) 17-5-1838; tới giáo phận Sài Gòn truyền giáo với
danh nghĩa là thừa sai Paris (MEP) từ 29-1-1873; nhà giảng thuyết tại nhà thờ
chính toà Sài Gòn; là sử gia xứ truyền giáo Đàng Trong; trước khi đến Sài Gòn,
Louvet đã là giáo sư Tiểu chủng viện La Chapelle-Saint- Mesmin (Loiret) giáo
phận Orléans; qua đời tại Sài Gòn 2-8-1900.
[23] LOUVET, La Cochinchine religieuse,
T.I, Paris, 1885, tr. 459.
[24] A. LAUNAY, Hỉstoire de la mission de
Cochinchine, III,
[25] Barthélemy-Bernard BOISSERAND, sinh
quán Chalon-sur-Saône, ngày 6-11-1787 đi truyền giáo ở Đàng Trong; qua đời ngày
13-11- 1797 tại Tân Triều hay ngoại ô Sài Gòn.
[26] A, LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochỉnchine, III, tr. 322- 323.
[27] A. LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochinchine, III, tr. 320.
[28] Như trên, tr. 321.
[29] Jean LABARTETTE, MEP (1744-1823) sinh
ngày 31-1-1744 tại Ainhoa, Pháp; đi truyền giáo ở Đàng Trong từ 29-11-1773; Gm
phó ĐT từ 1784, thụ phong Gm tháng 9-1793 do Gm Tây Đàng Ngoài tại biên thuỳ
giữa ĐT và ĐN; qua đời tại cổ Vưu, Quảng Trị ngày 6-8- 1823.
[30] A. LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochinchine, III, tr. 328.
[31] A. LAUNAY, Histoire de la mission de
Cochinchine, III, tr. 332- 333.
[32] A. LAUNAY, Hístoire de la mission de
Cochinchine, III, tr. 333- 336.
[33] A. LAUNAY, Histoire de la mission
[34] Matteo RICCI (1552-1610) (Trung Hoa
phiên âm là Li Ma-teou, Si-Tai, tiếng Việt ta gọi là Lợi Mã Đậu, tiếng Bồ Đào
Nha gọi là Richo), sinh 6-10-1552 tại Macerata,Ý; gia nhập nhà Tập DÒNG TÊN Anrê Quirinal tại Roma ngày 16-8-1571, khi đó
Ricci ký tên là Matteo Riccio; lên tàu thánh Luis ngày 24-3-1578 đi phương Đông
truyền giáo khi chưa là linh mục, tới Goa 13-9-1578 , thụ phong Linh mục tại
Cochim 25-7- 1580, tới Ấo Môn 7-8-1582, tháng 8-1583 vào thủ phủ Quảng Châu,
10-9-1583 đến Shiuhing tức Tchao-k’ing, 1589 đến Shiuchow, giữa năm 1595 có mặt
tại Nam Kinh, 19-5-1600 lên Bắc Kinh (tới đây 24-1- 1601), bề trên DÒNG TÊN miền truyền giáo Trung Hoa từ 1597, ờ Bắc Kinh
cho đến khi qua đời là ngày 11-5-1610.
[35] Có thể đọc một số tác phẩm sau đây: –
George H. DUNNE, S.J., Chinois avec les chinois, le père Ricci et ses
compagnons jesuites dans la Chine du IT siècle,
[36] Manuel DIAS (1574-1659), sinh năm 1574
tại Castelo-Branco, Guarda, Bồ Đào Nha; gia nhập DÒNG TÊN 2-2-1593; 11-4-1601, lên tàu Santiago đi
truyền giáo ở Goa, rồi ở Áo Môn 6 năm liền; 1611, đến Chiuchow; 1613, đến Bắc
Kinh coi Thiên văn ở đó; 1623-1635, làm Phó Giám tỉnh DÒNG TÊN Trung Hoa; 1639, Giám sát DÒNG TÊN Trung Hoa và Nhật Bản; qua đời tại Hàng Châu
4-3-1659; có công dịch sang tiếng Hán các bài Phúc âm Chúa nhật và lễ trọng.
[37] Charles MAIGROT, MEP (1652-1730), Gm
tông toà tại Phước Kiến từ năm 1687, kế vị Đc F. Pallu (qua đời 29-10-1684), đã
bị Hoàng đế Khang Hy trục xuất khỏi Trung Hoa sau khi Sứ thần de Tournon công
bố ngày 25-1-1707 trên đất Trung Hoa việc Toà thánh cấm các nghi lễ cúng bái tổ
tiên. Sau này Maigrot được bố trí cho làm việc trong Giáo triều Roma, rồi qua
đời tại đây, 28-12-1730.
[38] ÉTIEMBLE, Les Jesuites en Chine, La
querelle des rites (1552- 1773),
[39] CLEMENTÊ XI, người Ý tên là Giovanni
Francesco Albani, đắc cử GH 23-11-1700, khai mạc chức vụ 8-12-1700, qua đời
19-3-1721.
[40] A. LAUNAY, Histoire de la mission du Tonkin I,
sđd., tr. 433.
[41] Francois GODEFROY ( +1718) sinh quấn ở miền
Normandie, Pháp, đi truyền giáo từ 1701; ở Xiêm đến 1712 thí sang Đàng Trong;
qua đời tại Bau Nghe, Quảng Ngãi, 16-5-1718.
[42] Pierre de SENNEMAND (Paul de
Sennemand) (1646-1730), sinh khoảng năm 1646 tromg giáo phận Limoges, Pháp; sau
10 năm truyền giáo ở Canada, đi làm việc ở Đông Á từ 18-1-1693; qua đời tại Phủ
Cam, Huế, 26-1-1730.
[43] Đỗ QUANG CHÍNH, Dòng
Tên trong xã hội Đại Việt, sđd., tr. 550- 551.
[44] A. LAUNAY, Histoire de la mission du Tonkin I,
sđd., tr. 605-607.
[45] Constitutio Benedicti xrv “Ex quo
singularí” super ritibus slnicis (die 11 Julii 1742. Imp. De T’ou-sè-wè,
[46] X.: ‘ Constitutio ” Ex quo singulari”;
– Compendium Theologiat moralis, T. ///, Ninh Phú, 1893, Phụ lục, tr. XXI.
[47] Đỗ QUANG CHÍNH, Dòng Tên trong xã hội Đại
Việt, 1615-1773, sđd., tr. 554-555.
[48] BÊNÊĐITÔ XIV (Prospero Lambertini) sinh 1675,
đắc cử Giáo Hoàng 17-8-1740, khai mạc chức vụ 22-8-1740, qua đời 3-5-1758.
[49] Constitutio Benedicti XIV “Ex quo
singulari” super Ritibus Sinicis (11 Julii 1742), Imp. De T’ou-sè-wè,