ĐẠO
ÔNG BÀ
Cha con, con hãy hết lòng tôn kính,
Và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau
Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành,
Công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?
(He 7,27-28)
Đạo, theo người Á Đông, chẳng phải là
tôn giáo với những cơ chế, giáo điều, nghi thức. Đạo cũng chẳng phải con đường
tìm kiếm Chân lý cách thông thái minh triết khôn ngoan. Ngay nói về Đạo, người
Việt cũng chẳng biết, mà phải đợi đến khi có các bậc thánh hiền Trung Hoa cũng
trong vùng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước nói lên cho.
Ngàn năm làm ruộng, ngàn năm sống cùng
thiên nhiên trời đất, ngàn năm xum vầy khôn lớn bên công cha nghĩa mẹ và tình
thân ái xóm làng, người nông dân Việt Nam “thấy” tất cả thực tại gắn bó thiết
thân đói no sống chết với mình là Đạo (Đạo ẩn trong đời).
Như vậy, đối với người dân Việt, Đạo trở
nên một lối sống không còn là luật lệ cứng nhắc phải giữ, như bữa cơm hằng ngày
gia đình xum vầy, như những ngày lễ hội vui của làng hay của cả đất nước…
1.1. Tại sao phải thờ ông bà tổ tiên
Dân tộc Việt Nam là dân tộc có tinh thần
trọng nông do ảnh hưởng nông nghiệp trồng lúa nước, do đó có tín ngưỡng sùng
bái tự nhiên, phản ảnh đậm nét nguyên lý âm dương (thờ cúng trời đất, chim thú,
tiên rồng…), khuynh hướng đề cao nữ tính (Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thuỷ, Bà Hoả, các
nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp…), qua đó thể hiện rõ tính đa thần, tính cộng đồng
(Thành Hoàng, tập thể gia tiên, ba vị thổ công…) và tính dân chủ, con người có
trách nhiệm thờ cúng thần linh và ngược lại, các vị thần linh có trách nhiệm
phù hộ độ trì cho con cháu sinh sống làm ăn. Thậm chí, còn mang tính bổn phận
con thảo đối với ông bà cha mẹ hay thể hiện một niềm tin đối với một đạo nào
đó.
Với những phong tục tốt đẹp như vậy,
việc cúng lễ là cần thiết và việc trọng kính tổ tiên không thể không có được.
Đối với người lương (không theo đạo Công giáo) thì việc trọng kính tổ tiên là
thờ phụng tổ tiên.
1.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và con
người
1.2.1. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Trong con người có vật chất và tinh thần,
vật chất gắn liền với tự nhiên, là giai đoạn chủ yếu trong quá trình phát triển
của con người. Người Việt
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên còn có việc
thờ động vật và thực vật. Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của những người du
mục dẫn đến tục tôn thờ thú dữ (sói, hổ, chim ưng, đại bàng…) thì nếp sống tình
cảm hiếu hoà của người Việt trồng lúa nước lại có tục thờ những con thú hiền
như trâu, cóc, hươu, nai, chim, giao long…
1.2.2. Tín ngưỡng sùng bái con người
Như đã nói ở trên, đời sống con người
gồm hai phần vật chất và tinh thần. Vật chất là những gì ở bên ngoài, cụ thể,
ta có thể cân đo đong đếm để định giá và do đó có thể bắt nó phục vụ cho lợi
ích của mình. Ngược lại, phần tinh thần của con người thì trừu tượng, khó nắm
bắt, và bất cứ ai nếu một lúc nào đó nghĩ về ý nghĩa cuộc sống đều tin và công
nhận có một đời sống Tâm Linh, và đó chính là đầu mối của tín ngưỡng sùng bái
con người.
Tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên không
phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo được. Là một đạo phải có giáo
chủ và giáo luật và việc hành đạo phải qua trung gian giáo sĩ. Người theo đạo
Thiên Chúa, tuy không tôn thờ tổ tiên nhưng không phải là không trọng kính tổ
tiên. Đặc biệt là những ngày giỗ. Tục ta tin rằng dương sao âm vậy: người sống
cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy nghĩa là họ có một CUỘC SỐNG ở
cõi âm như cuộc sống người trần trên dương thế. Hơn nữa, tục còn tin rằng các
vọng hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo
sát và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết; và ngược lại, nhiều
người vì sợ vong hồn tổ tiên buồn nên đã tránh những hành vi xấu xa nên khi làm
việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng: không làm những việc trái với lương tâm, tỏ
lòng hiếu thảo với tổ tiên và hợp tình với những người thân thuộc.
Việc sùng bái con người có nhiều dạng
khác nhau: sùng bái ông bà tổ tiên, sùng bái các vị thần tại gia (như đất có
Thổ Công, sông có Hà Bá, Thần Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan, Thổ
Địa…).
Ngoài các vị thần sùng bái ở tư gia, còn
có các vị thần chung của thôn xã hay toàn quốc được thờ tự nơi công cộng như
Thành Hoàng: ngài là một vị thần cai quản toàn thể thôn xã, che chở cho dân
trong thôn trong xã chống lại mọi ác thần, giúp đỡ cho thôn xã được thịnh
vượng. Ví như các vị anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Trãi, Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân… Khi sinh thời các vị này đã từng
cứu sự nan nguy của quốc gia, giết giặc lập công, lúc chết được nhà vua và nhân
dân nhớ ơn lập đền thờ tôn kính.
Trong các vị thần được dân chúng Việt
Nam tôn thờ, còn có 4 vị thần được coi là Tứ Bất Tử, tục truyền các vị này đã
không chết và biến về trời. Tứ bất tử là: Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công Chúa, Tản
Viên Sơn Thần và Phù Đổng Thiên Vương.
1.3. Nghi lễ tế tự ở gia tộc
Dân tộc Việt
Nhà nào sùng kính gia tộc cũng có bàn
thờ tổ tiên ở giữa nhà. Nhà người tộc trưởng thường để gian giữa làm nhà thờ họ
(từ đường). Trên bàn thờ, ngoài các đồ thờ như: đỉnh trầm, cây sáp (đồ tam sự
hay ngũ sư), mâm bồng, giá chén; thì ở giữa có bài vị của tổ tiên. Những bài vị
ấy của tổ tiên tứ đại, từ đời cụ trở xuống, vì bài vị tổ tiên ngũ đại (đời cố)
thì phải chôn đi.
Người chủ trì việc tế tự tổ tiên là gia
trưởng, con trai trưởng, ở trong gia đình nhỏ, và tộc trưởng, trưởng nam, ở
trong gia tộc. Những ngày phải tế tự là những ngày giỗ và tết. Mỗi năm cứ đúng
ngày thọ chung của mỗi vị tổ tiên, tức là ngày kỵ hay ngày huý, thì gia trưởng
phải liệu hương vàng trầu rượu cỗ bàn để cúng giỗ. Đầu thì khấn toàn thể tổ tiên,
sau khấn riêng vong linh vị ấy về hưởng lễ.
Ngoài ngày giỗ mỗi vị tiên nhân, còn các
ngày tết Hàn Thực (3/3 ÂL, tết Thanh Minh (tháng 3 ÂL), tết Trùng Cửu (9/9 ÂL),
tết Cơm Mới (tháng 9 ÂL), tết Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), tết Trung Nguyên
(rằm tháng 7), tết Hạ Nguyên (rằm tháng 10), và nhất là tết Nguyên Đán (từ 30
tháng chạp đến mồng ba tháng giêng thì có lễ tế chung cả tổ tiên, lễ rước và
đưa ông bà). Ngoài các ngày giỗ tết ra, mỗi khi trong nhà có việc vui mừng, như
lễ cưới, lễ thọ, ăn mừng thi đậu, khao vọng hay có việc buồn như lễ tang, lễ
chay cũng đặt lễ để cáo tổ tiên.
Những ngày tết lớn, người gia trưởng làm
lễ ở nhà, rồi còn phải đến nhà thờ họ để làm lễ nữa.
Vì việc tế tự tổ tiên là một nghĩa vụ
nghiêm mật, con cháu không khi nào được bỏ, cho nên các nhà khá giả, người ta
thường trích trong di sản một phần tư tài sản gọi là “phần hương hoả” giao cho
người tộc trưởng hoặc người chi trưởng để lo tế tự tổ tiên ở nhà thờ họ và nhà
thờ chi.
Thường có một quyển sổ để ghi chép thế
thứ và tên họ cùng ngày tháng sinh tử của tổ tiên gọi là gia phả. Những nhà phú
quí thì gia phả thường chép cả công nghiệp sự trạng của tổ tiên như một bản sứ
của gia tộc.
2. ĐẠO ÔNG BÀ VÀ KITÔ GIÁO
2.1. Trước Công đồng Vatican II
Trong quá trình đi rao giảng Tin Mừng,
một số thừa sai đã thấy tầm quan trọng của việc hội nhập văn hoá, cần có biện
pháp cải tổ trên cơ sở nghiên cứu các tôn giáo lâu đời, học thuyết và tập tục
của người bản địa. Người khởi xướng là Cha Mateo Ricci, dòng Tên: ngài lấy tên
là Ký Mã Thi và phục sức theo lối Trung Quốc. Các vị này thấy sự gần gũi giữa
Nho giáo với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Các vị cho rằng: có thể chấp nhận một số
tập tục truyền thống của Trung Quốc: thờ cúng tổ tiên với vài cải tổ mà vẫn phù
hợp với luật Chúa và Giáo Hội.
Giáo hoàng Alexandre VII kế vị Đức
Innocente X, sau khi nghe toà điều tra phúc trình, ngày 23-3-1656, ngài đã ký
sắc lệnh ủng hộ (ngược lại với sắc lệnh của vị tiền nhiệm) sáng kiến của các vị
thừa sai này. Năm 1669, Đức Clêmentê cho phép tuỳ nghi sử dụng cho thích hợp.
Tuy nhiên, ngày 19-3-1715, Đức Clêmentê XI ra Tông chiếu “Ex illa die” buộc mọi
người phải thông hảo với Toà thánh, ra vạ tuyệt thông cho ai giữ lễ nghi đã bị
bác bỏ, đồng thời buộc các thừa sai Đông phương phải tuyên thệ trung thành với
Toà Thánh. Vua Khang Hy (Trung Quốc) coi việc bác bỏ lễ nghi này như một hành
động nhục mạ quốc thể Trung Hoa, ông ra lệnh triệt hạ các Thánh đường, trục
xuất các thừa sai và cấm dân Trung Hoa theo đạo. Những vị Giáo hoàng tiếp theo
do áp lực của Giáo hội Tây Âu và một số dòng truyền giáo ở vùng châu Á (như Đa
Minh) đã kịch liệt phản đối và tuyên bố phạt vạ tuyệt thông đối với ai vi phạm.
Tại Việt
Ngày 13-5-1658, Bộ Truyền giáo Lamã chỉ
thị thật rõ khi cử hai giám mục đầu tiên sang Trung Hoa và miền Đông Á: “Có gì
vô giá vô nghĩa cho bằng đem vào Trung Hoa và châu Á: nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý
hoặc một nước nào khác ở Âu châu, bổn phận chúng ta là đem Tin mừng cho họ. Đức
tin không loại bỏ, không huỷ hoại mà còn bảo vệ lễ nghi và tập tục của các dân
tộc, miễn là những lễ nghi và tập tục đó không có gì xấu (Trương Bá Cần, tạp
chí Đối Diện số 1, tháng 7–1969).
Trở lại lịch sử Giáo Hội những thời kỳ
đầu, ta thấy Giáo Hội được đón nhận rộng rãi ở Châu Âu, có một phần đóng góp
không nhỏ là Giáo Hội đã chấp nhận cái hay, cái tinh tuý của văn hoá đó, thánh
hoá nó và mặc cho nó một ý nghĩa mới phù hợp với Tin Mừng. Ví dụ: Lễ Giáng Sinh
vốn là lễ thờ thần mặt trời của người Lamã, Deus từ tiếng Zeus trong thần thoại
của La-Hy. Tục ngữ Việt
Các vị chức trách trong Giáo Hội thời đó
không thấy được rằng các quốc gia Đông phương đã có một nền văn hoá đã định
hình và phát triển lâu đời, không giống với các miền mà nền văn hoá đang còn
buổi ban sơ. Các ngài muốn truyền đạo đã thấm nhuần nền văn hoá phương Tây, thiếu
tôn trọng nếu không muốn nói là coi thường nền văn hoá phương Đông.
Chúng ta: “Không nên oán trách họ (các
thừa sai) nhưng phải nhận rằng họ đã để lại cho Giáo hội Á châu một di sản nặng
nề (các Giám mục Á châu nhóm họp tháng 12-1970, tại Manila, nhân chuyến công du
của Đức Giáo hoàng Phaolô VI tại đây).
Vốn sẵn có ác cảm với đạo Công giáo, lại
thêm sự khắt khe, cấm đoán trong việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên, các nhà Nho lên
án đạo này và cho đó là một thứ đạo ngoại lai; những người theo đạo là những
người bất hiếu với Ông Bà Tổ Tiên. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu
nước đã viết mạnh mẽ rằng:
“Thà đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”.
Các vị thừa sai trong thời ấy coi việc
thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên là một việc làm xấu xa, thậm chí còn xem đó là việc làm
của ma quỉ, các vị không thể hiểu được người Châu Á nói chung và người Việt Nam
nói riêng. Thánh Phanxicô Xaviê khi được những người Nhật Bản mới theo đạo hỏi
về số phận Ông Bà Tổ Tiên của họ đã qua đời nhưng chưa kịp chịu phép Rửa, ngài
trả lời họ không nghĩ ngợi: “Họ sa hoả ngục tất cả”. Chúng ta không thể trách
những vị ấy được vì khi đó các ngài hiểu về các tôn giáo khác như thế: “Ngoài
Giáo hội không có ơn cứu độ”.
Ngày 26-3-1936, Thánh Bộ Truyền giáo ban
Huấn dụ Pluries instantergue cất đi gánh nặng từ lâu đè lên lương tâm người
Kitô hữu Nhật Bản: những lễ nghi hoàn toàn chỉ biểu lộ tinh thần quốc gia trong
Thần đạo (Shintoisme). Trong huấn dụ Flane compertum est ngày 8-12-1939 về nghi
lễ Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, ngày 9-4-1940 về nghi lễ Malabar bên
Ấn Độ: thay bái gối bằng chắp tay cúi đầu, dùng đèn dầu thay đèn cầy, ngồi bàn
toạ trên nền cung Thánh trong giờ cử hành lễ nghi phụng vụ.
2.2. Đạo Ông Bà Tổ Tiên ở Việt
Công đồng Vatican II (1962-1965) bắt đầu
thời kỳ “mở cửa” của Giáo hội Công giáo. Các nghị phụ của Công đồng đã xem xét,
bàn bạc đến mọi lĩnh vực của Giáo Hội. Công đồng như một cột mốc chuẩn bị cho
thời đại đổi thay mà chúng ta ngày nay đang sống. Vấn đề VĂN HOÁ được đặt ra mở
đường cho phong trào hội nhập văn hoá và Tin Mừng hoá trong nửa sau thế kỷ 20
và bước vào thiên niên kỷ thứ ba.
2.2.1. Thiên Chúa chỉ cho nhân loại con
đường cứu rỗi
Đức Giêsu một nhân vật lịch sử. Kitô
giáo được thiết lập trên đất Palestin, trong môi trường văn hoá Sêmit và trên
phương diện nào đó tiếp nối một phần tín ngưỡng Do Thái. Đức Giêsu, Đấng sáng
lập, đã sai các môn đệ của ngài đi khắp thế gian rao truyền Tin Mừng cho tới
tận cùng thế giới. Kitô giáo nguyên thuỷ được truyền lan và mau chóng hoà nhập vào
trong những môi trường xã hội mới. Qua thời gian, Giáo Hội của Đức Giêsu ngày
càng vững mạnh và trở nên cứng nhắc dẫn đến những chia rẽ.
Suốt từ thời Trung Cổ và kéo dài cho đến
tận những năm 60 của thế kỷ 20, những nhà truyền giáo thuộc Giáo hội Công giáo
vẫn tự coi mình như những người đem “ánh sáng”, “ánh sáng Chúa Kitô”, đến cho
những dân tộc bản xứ vốn còn trong “bóng tối”. Nền văn hoá, niềm tin, và cách
thực hành tôn giáo của những dân tộc này là sai lầm. Chính các thừa sai tự coi
mình như những người đem lời và sự hiện diện của Thiên Chúa cho những dân tộc
không có đức tin này.
Thực sự thì các thừa sai “chẳng đem
Chúa” đến cho ai cả, vì Thiên Chúa luôn hiện diện trước mặt những con người đó
nhưng họ chưa nhận ra. Có chăng các ngài đến làm chứng cho tính cách phổ quát
của tình yêu Thiên Chúa, đến để sống đạo yêu thương của Đức Giêsu trong hoàn
cảnh cụ thể. Giả sử mọi nền văn hoá khác đều là “ngoại lai”, “ngoài Giáo Hội
không có ơn cứu độ”, thì xem ra Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa ích kỷ. Ngài
chỉ ở giữa các Kitô hữu và hướng dẫn họ mà thôi, còn những người khác
thì mặc. Đó hiển nhiên là một Thiên Chúa hà khắc và thiên tư của Cựu ước,
chứ không phải là Đấng yêu thương toàn thể nhân loại.
“Thánh Công đồng tuyên bố rằng chính
Thiên Chúa đã chỉ cho nhân loại biết con đường, để nhờ đó, trong khi phụng thờ
ngài, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Chúa Kitô” (Tuyên
ngôn về Tự do Tôn giáo – Dignitatis Humanae).
Công đồng Vatican II đã vẽ lại hình ảnh
về một Thiên Chúa yêu thương khi công nhận giá trị tốt đẹp của các tôn giáo
khác.
“Các tôn giáo khác trên hoàn cầu đều
cố công làm cho tâm hồn con người thoát khỏi những băn khoăn bằng nhiều phương
thế khác nhau, bằng cách vạch đường chỉ lối, tức đề xướng những giáo thuyết và
luật sống cũng như những lễ nghi phụng tự.
Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận
những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng
chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những
huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội
duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi cho
hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao
giảng Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6) nơi Người, con
người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ người, Thiên Chúa giao hoà mọi
sự với mình.
Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái
mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiên ích thiêng liêng cũng như
luân lý và những giá trị văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng
con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn
giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo” (Tuyên ngôn về Liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo).
Tại Việt
Chúng tôi, các Giám mục chủ toạ khoá hội
thảo VII về Truyền bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang từ ngày 12 đến
14-11-1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những
quyết nghị của Uỷ ban Giám mục về Truyền bá Phúc Âm ngày 19-4-1972, chiếu theo
Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14-6-1965, về các nghi lễ tôn
kính ông bà tổ tiên như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp
nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: “Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi sau đây có
tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng
niệm các Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách
chủ động” (Thông báo HĐGMVN, 14-6-1965).
1. Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ ông bà
tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không
bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn bạch…
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên
bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ
thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “Kỵ nhật” được
“cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì
là dị đoan mê tín. Như đốt vàng mã… và giảm thiểu, cải cách những lễ vật để
biểu dương đúng ý nghĩa thành kính, biết ơn ông bà tổ tiên, như dâng hoa trái,
hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ,
Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết
ơn, hiếu kính trình diện với ông bà.
5. Trong hôn lễ, được vái lạy trước thi
hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính
người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước
thi hài người quá cố…
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị
Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết
ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân
làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên
đây nếu sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích
lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ
tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ
hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan
đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ” là giới răn
sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
2.2.2. Thực tiễn sinh động
Cộng đồng Vatican II kết thúc đã gần nửa
thế kỷ, Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu vừa họp xong chưa đầy một năm, có nhiều
đổi thay nhiều cách nhìn mới trong Giáo Hội về vấn đề văn hoá. Nhưng đối với đa
số người Việt nói chung và người Việt công giáo nói riêng, những đổi mới đó vẫn
còn xa lạ vì thế vẫn còn tồn tại những hiểu lầm đáng tiếc (người tân tòng là
con trai trưởng, hôn nhân không cùng tôn giáo…). Nhưng xét cho cùng đó chỉ là
cớ che đậy những mâu thuẫn, những bất đồng khác.
Quan niệm theo Chúa là bỏ bàn thờ ông bà
tổ tiên không còn đúng nữa. Trong nhà, bàn thờ tổ dù có hay không, được trưng
bày cách này hay cách khác, nhưng tấm lòng của con cháu vẫn tưởng nhớ về những
bậc sinh thành đã khuất. Lòng tưởng nhớ đó được thể hiện qua việc cầu nguyện,
trong thánh lễ hay kinh nguyện chung của con cháu, cho linh hồn người đã khuất
trong ngày giỗ kỵ. Với nhiều người không Công giáo Việt Nam, rằm tháng 7: ngày
xá tội vong nhân, người Công giáo có tháng 11 cầu cho các đẳng linh hồn. Thanh
minh trong tiết tháng 3, cũng như những người Việt Nam khác, các tín hữu Công
giáo cũng lợi dụng tiết xuân trở về thăm lại nơi yên nghỉ của những người thân
thuộc ông bà cha mẹ, sửa sang lại phần mộ của họ. Tại nhiều nơi, ngày 2-11 và
ngày Mồng Hai tết hằng năm, thánh lễ được tổ chức ngay tại nghĩa trang. Trong
bầu không khí tĩnh lặng của buổi chiều tàn, từng làn khói hương trầm nghi ngút,
cả gia đình cùng quây quần bên phần mộ của người thân cùng hiệp dâng thánh lễ
cầu cho ông bà tổ tiên. Thật cảm động bầu khí linh thiêng của mầu nhiệm Hội thánh
cùng hiệp thông.
Trong tâm thức người Việt, sự tôn kính
các đấng sinh thành (dù còn sống hay đã qua đời) đã ăn sâu trong lòng như hình
ảnh cây đa cổng làng, như luỹ tre xanh… Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, lòng
tôn kính này đã giảm sút ít nhiều. Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá
hiện đại hoá. Ngôi làng với luỹ tre xanh đang dần được thay thế bằng những toà
nhà bê tông sừng sững mang đường nét mạnh mẽ nhưng cô đơn như những con người
sống trong đó. Mái nhà che chở cho gia đình 3 thế hệ đang lung lay.
Tại Thượng Hội đồng Giám mục Á châu
1998, một nghị phụ đã nêu lên một vấn đề về mục vụ liên quan đến công cuộc rao
giảng Tin Mừng tại Lục địa Á châu: “Đó là vấn đề liên quan đến việc tôn kính
ông bà tổ tiên tại Việt Nam. Dù là một thiểu số, nhưng sự hiện diện của người
Công giáo Việt Nam rất quan trọng trong việc thăng tiến con người. Nhưng chính
vì tính cách thiểu số này, mà người ta cần phải có can đảm đề nghị và củng cố
tại Á châu một “Giáo Hội như một gia đình” dấn thân rao giảng Tin Mừng, mà đặc
điểm là tình yêu thương, chớ không phải là một tính toán hoặc trục lợi. Và tiêu
chuẩn duy nhất để đo lường việc rao giảng là chính tình yêu đối với Chúa Kitô
và tính cách nhưng không của các ơn Chúa ban”. (Thượng Hội đồng Giám mục,
Phiên khoáng đại thứ 9, thứ sáu 24-4-1998, prepared for internet by Msgr. Peter
Nguyễn Văn Tài, Radio Veritas Asia, Philippines).
Như vậy, đạo ông bà tổ tiên không phải
chỉ là kính nhớ người đã khuất, nhưng còn là sự chia sẻ hiệp thông với tha
nhân, những người sống xung quanh ta, nhất là ông bà chú bác trong dòng họ. Đó
chính là sống Tin Mừng, sống tình yêu Thiên Chúa nơi trần gian này với Đức
Giêsu đã dạy:
“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
KẾT LUẬN
Là người Việt, ai chẳng thuộc lòng câu
ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Thờ cha kính mẹ không chỉ là tôn kính
đối với những người sinh thành dưỡng dục ta nên người mà còn là những người đã
xây dựng nên và gìn giữ cho giang sơn gấm vóc này được thanh bình. Như vậy,
việc thờ kính ông bà tổ tiên là truyền thống hết sức quí báu của dân tộc ta.
Trong đà tiến công nghiệp và đô thị hoá, người Việt Nam cần phải bảo tồn và
phát huy truyền thống tốt đẹp này hầu trụ đỡ cho rường mối gia đình ngày càng
phải chịu nhiều áp lực của xã hội tiêu thụ hướng chiều về vật chất. Người Công
giáo lại càng phải ra công học hỏi để hội nhập nét văn hoá rất Việt Nam này vào
trong Kitô giáo để tiến tới xây dựng Giáo hội Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
***
Tài liệu tham khảo
Tạp chí
- Thái Sơn, “Ngẫm nghĩ về cuộc nhập thể văn hoá của Giáo hội
Việt Nam”, Thời sự Thần học, số 10-1997.
- GROOME, Thomas, K’Bao dịch, “Hội nhập văn hoá xúc tiến thế
nào trong khung cảnh mục vụ”, Thời sự Thần học, số 12-1998.
- Hoành Sơn, “Hội nhập văn hoá và tầng nền tâm hệ Việt Nam”,
Hợp tuyển Thần học (tập phổ biến thần học, phát hành không định kỳ), số 16 năm
VI (1996).
- Đặng Chí San OP, “Đạo ẩn trong đời” Nguyệt san Công giáo và
Dân tộc, số 43, tháng 7-1998.
Các sách
- Thánh Công đồng Vatican II, Phân khoa Thần học, Giáo Hoàng học
viện Pio X, Đà Lạt.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Lịch sử Giáo hội Công giáo, in lần thứ
hai, Chân lý, Sài Gòn, 1994.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.
- Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Dòng Đaminh trên đất Việt, in lần hai,
Sài Gòn, 1993.
- Lm. Thiện Cẩm, OP, Tạ ơn người đã chết.
- Lm. Thiện Cẩm, OP, Cỏ dại ven đường (tập I), Chúa Giêsu Đấng
Cứu Thế, in lần thứ ba, 1997.
- Nguyễn Chính Kết, Thích ứng và hội nhập văn hoá trong truyền
giáo, TP. HCM, 1998.
- Lý Chánh Trung, Tôn giáo và dân tộc (in lần thứ nhất), Sài
Gòn, Lửa thiêng 1973.
- Kỷ yếu hội nghị khoa học tại TP. HCM ngày 11-12/3/1988. Một
số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Viện KHXH
& Ban Tôn giáo (Lưu hành nội bộ), TP. HCM 1988.
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Xuất bản Bốn Phương,
Viện Giáo khoa – Hiên Tân Biên (tái bản).
- Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam (quyển thượng), TP. HCM, NXB TP.
HCM, 1992.
- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, TP. HCM,
NXB TP. HCM, 1996.
(TSTH số số 1-2010)
Nguồn: Đaminh
VN
(Cập nhật: 29/01/2012 -
13:43:47)