SỐNG PHỤNG VỤ MÙA
VỌNG VÀ GIÁNG SINH HÔM NAY
Giáo
Hội Công giáo đã lại bắt đầu một năm phụng vụ mới.
Hằng năm, các tín hữu
đều được nhắc nhở rằng Phụng vụ là một trong những hoạt động quan trọng nhất
của Giáo Hội, do cộng đoàn các thành viên của Giáo Hội cử hành, để tưởng nhớ
tới Đức Kitô và công cuộc Cứu độ Người đã thực hiện, nhờ đó hiện tại hoá giá
trị cứu độ của các cử chỉ của Người vì sự thánh hoá của các tín hữu.
NĂM PHỤNG VỤ
Công cuộc cứu độ của
Thiên Chúa trải dài trong thời gian từ tạo thiên lập địa cho tới ngày cùng thế
tận và trong phụng vụ của Giáo Hội, được tưởng nhớ và cử hành trong chu kỳ hàng
năm với những mùa, những ngày lễ đưa người tín hữu và cộng đoàn từng bước đi
vào sự hiệp thông với hành động cứu độ này của Thiên Chúa, được thể hiện qua
cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô: việc Người sinh ra (Giáng Sinh, cái chết và sự
Phục sinh của Người và việc Người ban Thánh Thần (Hiện Xuống), việc Người sẽ
đến như Người đã hứa.
Năm phụng vụ, khởi đầu
với mùa Vọng gồm bốn Chúa nhật, khởi đầu với chúa
nhật cuối tháng mười một tới ngày 25/12, lễ Giáng sinh, và mùa Giáng sinh kéo dài từ lễ Giáng sinh tới hết ngày
lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, chấm dứt thời kỳ Chúa Giêsu sống đời sống ẩn dật
tại Nazareth, mở đầu sứ vụ công khai của Người. Sau đó là mùa Thường niên, giai đoạn một,
từ sau lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tới thứ Tư lễ Tro mở đầu mùa Chay chuẩn bị đại lễ Phục sinh, với tuần
thánh, với ba ngày thánh tưởng nhớ một thực tại vô cùng đặc biệt: Đức Kitô vượt
qua cái chết đến sự sống nhờ đó đem lại sự sống mới cho những ai tin vào Người. Mùa Phục sinh kéo dài từ lễ Phục sinh đến lễ Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống. Sau lễ Hiện xuống là mùa Thường niên, giai đoạn hai,
kéo dài tới lễ Chúa Kitô Vua kết thúc năm phụng vụ. Năm
phụng vụ kết thúc với viễn tượng về ngày Chúa quang lâm.
Phụng vụ cũng không
quên gợi lại hình ảnh những con người đã làm rạng rỡ sự Thánh thiện của Thiên
Chúa trong cuộc đời được cứu độ của các ngài với các ngày lễ kính các thánh
được mừng vào những ngày nhất định trong năm.
Phụng vụ với những giờ
kinh được đọc vào những khoảnh khắc khác nhau – sáng, trưa, chiều, tối – cũng
đã muốn ghi dấu ấn của lịch sử cứu độ trên bước đi hàng ngày của thời gian.
Lịch
phụng vụ đã được triển khai dần dần trong lịch sử. Việc
tu chỉnh lần cuối cùng diễn ra vào năm 1969 tiếp nối công cuộc cải cách phụng
vụ bắt đầu tại Công đồng Vatican II.
Các mùa và ngày lễ
trong năm phụng vụ được cử hành với các mầu sắc khác nhau của lễ phục và trang
trí gợi lại những tâm tình và bầu khí do ý nghĩa của việc cử hành gợi lên: mầu
tím của mùa Vọng và mùa Chay; màu vàng của ngày Giáng sinh và Phục sinh, mầu
trắng của những ngày lễ quan trọng khác trong năm, mầu xanh của mùa thường
niên, mầu đỏ, mầu của tình yêu và tận hiến, của Đức Kitô và các thánh tử đạo,
được sử dụng vào lễ các thánh tử đạo, chúa nhật lễ Lá, thứ Sáu thánh, lễ Trái
Tim và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một lần duy nhất trong năm chủ tế mang
phẩm phục mầu hồng, đó là vào chúa nhật thứ ba mùa Vọng, chúa nhật ”Laetare”, một thoáng niềm vui
giữa màu Tím chờ đợi. Trước đây, còn sử dụng mầu đen, mầu của
tang tóc, nhưng nay, mầu đen được thay thế bằng mầu tím, kể cả trong lễ tang.
Niềm hy vọng sống lại vẫn chiếu sáng trong cả cái chết.
Như vậy, năm phụng vụ
muốn mời gọi các tín hữu và cộng đoàn Giáo Hội sống cuộc sống của mình trong
lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua việc tưởng nhớ và cử hành tất cả các mầu
nhiệm về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, đã sống, đã chết và đã phục
sinh và sẽ quang lâm hoàn tất công trình cứu độ của Người, khi Người là tất cả
trong mọi sự.
NGÀY CHÚA NHẬT TRONG
NĂM PHỤNG VỤ
Ngày
Chúa nhật là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Các nghị phụ Công đồng
chung Vatican II khẳng định điều này, đặc biệt trong
Hiến chế Phụng vụ thánh: “Theo Truyền thống Tông đồ, bắt nguồn từ chính ngày
Chúa Kitô sống lại. Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Vượt qua vào mỗi ngày thứ tám,
ngày thật đáng gọi là Ngày của Chúa, hay Chúa Nhật. Trong ngày đó, các Kitô hữu
phải họp nhau lại để cùng với việc lắng nghe Lời Chúa và tham dự Hiến Lễ Tạ ơn,
họ kính nhờ cuộc Thương khó, sự Sống lại và cuộc tôn vinh của Chúa Giêsu, đồng
thời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động nhờ
sự phục sinh từ trong cõi chết của Chúa Giêsu Kitô (1 Pr 1, 3). Vì thế, Chúa Nhật là ngày lễ rất đặc biệt phải được đề cao và in
sâu vào long đạo đức của các tín hữu đến độ cũng trở thành ngày dành cho niềm
vui và sự nghỉ ngơi. Các nghi thức cử hành khác, nếu không thật sự rất
quan trọng, thì không được đặt ưu tiên hơn lễ Chúa Nhật, vì đây là nền tảng và
cốt lõi của cả năm phụng vụ” (PV, số 106).
Năm 1998, Đức giáo
hoàng Gioan Phaolô II phổ biến tông thư Dies Domini / Ngày của Chúa về việc hiến thánh Ngày của Chúa.
Tông thư khẳng định ngày Chúa nhật không chỉ là Ngày của Chúa, mà còn là Ngày
của Đức Kitô / Dies Christi,
ngày của công cuộc tạo dựng mới và của ân sủng của Đức Thánh Linh; Ngày của
Giáo Hội, ngày cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau; Ngày của con người, Dies Hominis, ngày của dân
chúng, ngày mừng vui, nghỉ ngơi và của tình yêu thương.
Người
Kitô hữu hiện nay cảm thấy khó khăn trong việc giữ ngày Chúa nhật. Có
quá nhiều nhu cầu. Và càng ngày người ta càng bị lôi
kéo làm việc ngày Chúa nhật. Không phải vì phải làm
việc cả bảy ngày trong một tuần lễ mà còn bởi việc phân công tại sở làm việc,
một tuần có thể chỉ phải làm việc năm ngày, nhưng ngày làm việc có thể rơi vào
ngày Chúa nhật. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Dù ở trong thời kỳ
khó khăn như hiện nay của chúng ta, người Kitô hữu vẫn phải luôn duy trì và
trên mọi sự, phải sống tính chất ngày chúa nhật trong tất cả chiều sâu của ý
nghĩa của nó...Chúa nhật của người Kitô hữu ...vẫn là một yếu tố thiết yếu của
căn tính Kitô giáo của chúng ta.
PHỤNG VỤ VÀ THÁNH KINH
Cuộc cải cách phụng vụ
của Công đồng chung
Ý NGHĨA MÙA VỌNG
Năm
phụng vụ bắt đầu với chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, tức chúa nhất cuối cùng của
tháng mười một, và kết thúc với lễ Giáng Sinh, 25/12.
Sách
lễ Roma gọi mùa này là mùa Adventus. Từ
latinh này có nghĩa là ‘đến’. Việc Chúa đến: Đến trong lịch sử, đến
trong lòng tin và đến trong vinh quang ngày hoàn tất mọi sự.
Công
giáo Việt
Chúa đến
Chúa đã đến vào một
ngày giờ và tại một nơi nhất định trong lịch sử: Đức Giêsu, con Đức
Maria, người Nazareth, sinh tại Bêlem vào “năm mười lăm hoàng đế Tibêrô chấp
chính; Pontiô Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê; Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê và
em là Philip làm quận vương vùng Iturê và Trakhônit, và Lysania làm quận vương
xứ Abilênê; dưới thời thượng tế Hanna và Caipha” (Luca 3, 1 và tt). Người là
người thật như mọi con người khác, trừ tội lỗi, như thánh Phaolô khẳng định.
Là
người thật, nhưng Đức Giêsu, trong lòng tin Kitô giáo, cũng là Thiên Chúa thật. Người
là “Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. Mọi sự
đã nhờ Người mà thành sự. Người đến trong thế gian.
Người có trong thế gian. Bởi Lời đã
thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng ta. ...” (xem
Ga 1, 1–15). . Mùa Vọng hướng về mầu nhiệm Nhập Thể của Con
Thiên Chúa, Đấng cứu độ muôn dân.
Chúa đang đến trong
lòng tin Kitô hữu: Đức Giêsu đã lớn lên, rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã bị bắt, bị
giết chết trên thập giá, được táng trong mồ... Là Thiên Chúa thật, Người hiện
diện đặc biệt trong mỗi cử hành phụng vụ, đến với những ai tin vào Người, gặp
gỡ và đồng hành với họ trong cuộc sống, để cùng với họ mở đầu, xây dựng và hoàn
tất một lịch sử mới đã khởi đầu với việc Người giáng sinh làm người tại Bêlem.
Công đồng chung Vatican II khẳng định: “Đức Kitô luôn
hiện diện trong Hội thánh của Người, đặc biệt trong việc cử hành phụng vụ. Người hiện diện trong lễ tế hiến, nơi con người thừa tác viên, ‘tự
hiến mình lúc này, qua thừa tác vụ của các linh mục như Người đã tự hiến mình
khi xưa trên thập giá’, và đặc biệt trong bánh và rượu trở thành mình và máu
Người” (Hiến chế Phụng vụ
thánh).
Chúa Giêsu Kitô hiện
diện giữa Giáo Hội của Người để cùng với Giáo Hội và từng môn đệ của Người hoàn
tất sứ vụ Người giao: “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ giữ hết mọi điều Thầy đã truyền cho các
con. Và này, Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19–20).
Con người chờ đợi
Bốn tuần lễ mùa Vọng
tượng trưng cho bốn mươi năm dòng dõi của Abraham, Isaac, Giacob được tôi luyện
trong sa mạc trống không và nóng bỏng để chỉ còn lại
lòng khát khao chân thật đến được nơi Chúa đã hứa ban.
Sự
khát khao và chờ đợi của những ai tin vào Chúa từng bước được lấp đầy, một cách
phong phú, ngoài sức con người có thể tưởng tượng. Không chỉ là một giang
sơn chảy đầy sữa và mật ong, mà là một vị Cứu độ, là người thật và là Thiên
Chúa thật, Đấng ban phát nước hằng sống, Đấng ban bánh của sự sống đời đời, của
sự sống mới, sự sống của những người được quyền gọi Thiên Chúa là Cha.
Mùa
Vọng là mùa người Kitô hữu và cộng đoàn Giáo Hội ngày hôm nay khơi dậy lòng
mong muốn gặp gỡ và kết hiệp chặt chẽ hơn nữa với Đấng đã đến và đã đem lại cho
mình sự sống mới. Không phải chờ đợi trong thụ động với những câu kinh, nghi lễ có
sẵn, bằng lòng với những tri thức đã thu thập được về một quá khứ xa xôi trong
không gian và thời gian, mà là sự chờ đợi của ngày hôm nay và lúc này, một sự
chờ đợi cũng nóng bỏng với câu hỏi “chúng tôi phải làm gì?” để có thể gặp Người
và kết hiệp với Người, trong cái ngày hôm nay của cuộc sống cụ thể của từng
người, từng giới, từng cộng đoàn, như người đương thời của Gioan Tẩy giả đã đua
nhau nêu lên khi nghe ngài loan báo Đấng sẽ đến (xem Lc 3, 10-14).
Sự chờ đợi trong tỉnh
thức của những người trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn của Chúa, trong sự nhạy
bén để nhận ra tiếng gọi, ý muốn, sự chờ đợi của Chúa được biểu lộ trong Thánh
Kinh, trong giáo huấn của Hội Thánh và thực thi trong thực tại cuộc sống, để
qua đó, được kết hiệp làm một với Đấng vốn là đường dẫn đến sự thật và sự sống.
Như vậy, sự chờ đợi của
mùa Vọng dẫn đến việc chuẩn bị trí óc với việc tìm hiểu mạc khải về Đấng đã
đến, đang đến và sẽ đến lại, trong bối cảnh của cuộc sống riêng mỗi người, của
thế giới ngày nay, của xã hội Việt Nam với những niềm vui, nỗi buồn, những vấn
đề xã hội và về xã hội đang chờ đợi một lời đáp, một thái độ của niềm tin chân
thật nơi Đức Kitô. Như ba nhà đạo sĩ tìm hiểu ý nghĩa của dấu sao lạ và nhận ra
nơi Hài nhi yếu ớt được vấn tã đặt trong máng cỏ nghèo
nàn là Đấng các ông đang tìm gặp để thờ lạy. Việc chuẩn bị con tim với những khát vọng đích thực vốn đang bị vùi lấp dưới
những đống phù vân của chủ nghĩa tiêu thụ, những giá trị giả tạo đang được
không ít các tiên tri giả rêu rao. Không có những khát vọng mới làm bật lên câu
hỏi trong nỗi bức xúc: ‘chúng tôi phải làm gì’ của từng người, từng cộng đoàn
và của cả Hội Thánh, mùa Vọng sẽ chỉ còn là sự chờ đợi của quá khứ và của kẻ
khác, không phải của hôm nay và của chính mình.
Trong
phụng vụ mùa Vọng, chúng ta được cảm nghiệm về Lời không thay đổi nhưng sống
động của Thiên Chúa, đã hoàn tất và đang được chờ đợi hoàn tất. “Lời
của Chúa được công bố trong việc cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa không chỉ
gợi đến những hoàn cảnh hiện tại mà hướng cả về các biến cố đã qua và hướng tới
những gì đang đến”.
Việc chuẩn bị tích cực,
để tiếp đón vị Thượng Khách từng được yêu mến và tin tưởng, từng được trông chờ
như Đấng sẽ lấp đầy những khát khao làm người và làm con Thiên Chúa, sẽ biến
mùa Vọng thành mùa của mừng vui và hy vọng, mà không phải của lo âu và sợ hãi,
dù là chờ đợi Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cùng thế tận, dù phụng vụ vắng
tiếng hát kinh ‘vinh danh’ và mang màu tím, màu của khắc khổ và sám hối.
MỘT SỐ VIỆC ĐẠO ĐỨC
Tĩnh tâm mùa Vọng
Các
giáo xứ và hội đoàn ở Việt
Việc đạo đức này nên
được tổ chức vào các ngày đầu mùa Vọng để có thể giúp các tín hữu và cộng đoàn
giáo xứ bước ngay vào bầu khí của mùa phụng vụ và thấu hiểu hơn ý nghĩa của mùa
Vọng nhờ đó tham gia một cách trọn vẹn hơn ngay từ buổi đầu vào mầu nhiệm cứu
độ được Hội Thánh tưởng nhớ và cử hành trong bốn tuần của mùa Vọng.
Có lẽ nên hiểu Tĩnh tâm
như một việc đạo đức gắn với việc cử hành mùa phụng vụ: không phải chỉ là việc
dọn mình xưng tội để được rước lễ ngày lễ Giáng sinh, cũng không phải là một
lớp giáo lý giúp người tham dự có thêm kiến thức về mầu nhiệm Hội Thánh đang
chuẩn bị cử hành, mà chính là thời gian để đi vào mầu nhiệm trong cầu nguyện,
chiêm niệm, kết hiệp và sống mầu nhiệm cứu độ đã diễn ra và cũng đang diễn ra
giữa loài người. Do đó, tĩnh tâm không thể không bao gồm việc đọc Thánh Kinh để
gợi lại những gì Thiên Chúa đã làm, những khoảnh khắc thinh lặng để người tín
hữu cầu nguyện và chiêm niệm mầu nhiệm đã hoàn tất, những việc đạo đức để đi vào
mầu nhiệm đang diễn ra ngày hôm nay và ý thức về những việc phải làm để hướng
về ngày hoàn tất mọi sự.
Tĩnh tâm mùa Vọng có
thể là một dịp giúp người tín hữu và cộng đoàn kiểm điểm đời sống, nhận ra đâu
là những giá trị mình đang theo đuổi trong cuộc sống thường
ngày, trong gia đình, trong xã hội và nơi bản thân. Người tín hữu và cộng đoàn
cũng cần được giúp đỡ để khám phá ra những giá trị đích thực, bền vững mà Tin
Mừng, giáo huấn cũng như phụng vụ của Hội Thánh, đặc biệt là mầu nhiệm Giáng
sinh, mời gọi và trông chờ người tín hữu và cộng đoàn thực hiện, nhất là trong
một xã hội lễ Giáng sinh ngày càng bị thế tục hoá.
Bởi
vậy, trong cuộc tĩnh tâm, cũng nên tổ chức một cuộc sám hối tập thể, tuy không
thay thế việc xưng tội riêng, nhưng cũng sẽ giúp ích không ít cho việc trở lại
của mỗi cá nhân và của cộng đoàn.
Làm máng cỏ
Việc các gia đình, khu
đạo và giáo xứ làm hang đá, hay máng cỏ tại gia, tại nhà thờ, thậm chí ở nơi
công cộng cũng có thể được xem như một việc đạo đức giúp nâng cao lòng đạo nhân
một dịp lễ đặc biệt của năm phụng vụ, miễn là việc làm này không bị biến thành
cơ hội để phô trương, lãng phí tiền bạc, của cải và thời gian, qua đó, trở
thành dịp để người tín hữu và cộng đoàn ‘chia trí’, sao nhãng bài học đích thực
của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đã chọn khung cảnh nghèo, giản dị của người dân
bình thường để ra đời làm người.
Làm máng cỏ trong gia
đình không đơn thuần là việc trang trí nhà
cửa, việc bầy ra một máng cỏ, một hang đá có sẵn hay được mua tại tiệm sách
đạo, nhưng có thể là dịp để gia đình thông hiệp với mầu nhiệm Giáng sinh ngày
hôm nay và cùng với các thành viên của gia đình. Việc làm máng cỏ này cũng có
thể là một dịp để cha mẹ giáo dục con cái một cách cụ thể về bài học của Giáng
sinh, một cơ hội để giảng dạy, qua bộ tượng các nhân vật của máng cỏ, về vai
trò của Đức Maria, của thánh Giuse, các mục đồng, của ba nhà đạo sĩ... Chẳng
hạn, mỗi tuần của mùa Vọng có một buổi tối cả gia đình cùng tụm lại để làm máng
cỏ, và người lớn tuổi sẵn sàng giải thích cặn kẽ từng câu hỏi của các bé nêu lên
khi cầm tượng các nhân vật của hang đá. Các trẻ trong gia đình cũng có thể mời
bạn bè, hang xóm tới cùng làm hang đá. Việc làm hang đá hay máng cỏ này có thể
kéo dài suốt mùa Vọng, tượng các nhân vật lần lượt được đặt ra theo hành trình
của Đức Maria và thánh Giuse trên đường tới Bêlem và tới hang đá như được mô tả
trong hai sách Tin Mừng Matthêu và Luca, đoạn 1 và 2. Mỗi
chặng đường của cuộc hành trình có thể là một dịp để gia đình đọc một đoạn sách
Thánh và cầu nguyện với Thánh gia.
CỬ HÀNH BÍ TÍCH TRONG
MÙA VỌNG
Bí tích Thánh Tẩy
Mùa Vọng chuẩn bị lễ
Giáng sinh là thời gian thích hợp để gợi lại bí tích Thánh Tẩy người tín hữu đã
lãnh nhận, để giáo huấn và cử hành bí tích Thánh Tẩy cho người trưởng thành
cũng như trẻ mới sinh, vì mùa chuẩn bị lễ Giáng sinh đầy ắp những biểu tượng:
Như Đức Maria chờ đợi mọi sự diễn ra theo Lời Chúa (Lc1, 38), người chầu nhưng
cũng chờ đợi bí tích Thánh Tẩy để được sinh ra với sự sống mới. Mùa Vọng cũng
là mùa chuẩn bị cho ánh sáng chiếu rạng trong đêm Giáng sinh: “Đêm hầu tàn,
ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những việc tối tăm, và hãy mặc lấy khí giới sự
sáng” (Rm 13, 12)...
Các
bài đọc về thánh Gioan Tẩy giả khiến chúa nhật thứ hai và thứ ba mùa Vọng thành
thời gian đặc biệt thích hợp cho việc cử hành bí tích Thánh Tẩy trong bối cảnh
của phụng vụ chúa nhật. Nghi thức rửa tội trẻ em cũng có nhiều quy chiếu về việc
Chúa đến lại lần thứ hai như việc trao cây nến thắp sáng cho trẻ với lời kèm theo: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những
bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm
nom, tức là lo lắng cho trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống
như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó, khi
Chúa đến, chúng được ra nghênh đón Người với toàn thể các thánh trên trời”.
Với
những ai được tái sinh với Đức Kitô trong bí tích Thánh Tẩy, thời kỳ chuẩn bị
Đấng cứu chuộc ra đời cũng mang màu sắc thanh tẩy. Như Đức Giêsu sinh ra
từ cung lòng Đức Maria, cũng vậy, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh
làm con Thiên Chúa. Trong bí tích Thánh Tẩy, chúng ta nhận
được lời mời gọi chuẩn bị đường cho Chúa đến bằng các công việc của lòng bác ái
và công bình. Các bài đọc của chúng ta trong suốt mùa này cũng nhắc nhở
chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của kẻ thấp bé và nghèo
khổ.
Nghi thức sám hối
Mùa Vọng được thiết
lập, khởi đầu, như một mùa sám hối chuẩn bị cho cuộc phán xét cuối cùng và
người Công giáo theo truyền thống dùng mùa Vọng để dọn
lòng xưng tội mừng lễ Chúa Giáng sinh. Các bài đọc và lời cầu nguyện của mùa
Vọng phản ánh hai tính chất của mùa Vọng: dọn mình xứng đáng tiếp đón Chúa; qua
việc sám hối, chúng ta trở nên sẵn sàng trong tâm trí trước việc Chúa đến.
Chăm sóc mục vụ cho kẻ
liệt
Mặc dù mùa Vọng là một
thời gian bận rộn, tuy nhiên, cộng đoàn giáo xứ và đặc biệt các linh mục, giáo
sĩ phụ trách và phục vụ giáo xứ cũng không nên quên những người bệnh, những
người đau yếu không còn khả năng thể xác để tham dự các cử hành phụng vụ trong
mùa Vọng. Hơn ai hết, họ là những người chờ đợi Chúa đến với họ trong những giờ
phút thử thách của bệnh tật này, do đó, cộng đoàn giáo xứ nên tổ chức viếng
thăm, đưa Mình Thánh Chúa...những người bệnh không thể tới nhà thờ cử hành
phụng vụ với cộng đoàn.
Ý NGHĨA MÙA GIÁNG SINH
Mùa
Giáng sinh là mùa thi vị nhất của năm phụng vụ. Các
bài ca ghi dấu ấn sâu đậm nhất trong ký ức người Kitô hữu là các bài ca Giáng
sinh. Những Đêm
đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Cao cung lên, Đêm thánh vô cùng...Và những
đĩa nhạc Noel ngoại quốc hàng năm nghe đi nghe lại vẫn thấy hay.
Nhưng
Giáng sinh không phải chỉ là ngày lễ của những ký ức xa xôi từ thuở nào và của
thời hiện tại. Phụng vụ Giáng sinh đưa chúng ta đi vào chương
trình cứu độ của Thiên Chúa khi nhắc nhở cộng đoàn Giáng sinh chính là “ngày lễ
của sự cứu độ chúng ta” (collecta, lễ đêm), sự khởi đầu của việc cứu chuộc
chúng ta” (lời nguyện dâng lễ, lể Đêm). Giáng sinh là sự khôi phục trật
tự của vũ trụ khi Thiên Chúa và nhân loại lại kết hợp làm một qua việc làm con
của Chúa Giêsu Kitô: “...” (Lời nguyện dâng lễ, lễ Đêm).
Giáng sinh là một lễ
của ánh sáng. Ánh sáng chiếu trong đêm tối. Ánh sáng không chỉ chiếu trên chúng
ta mà trong chúng ta.
Giáng sinh không phải
là thời để hoài cổ mà kêu gọi chúng ta tham gia tích cực vào mầu nhiệm, một kế
đồ đã bắt đầu được triển khai với mầu nhiệm Nhập thể: Con Thiên Chúa làm người
và ở giữa chúng ta để cứu độ chúng ta. Giáng sinh như vậy
không phải là ký ức về một sự kiện đã diễn ra tại Bêlem, vào một đêm nọ, cách
nay trên hai ngàn năm, mà còn là và nhất là sự kiện của hôm nay và tại đây.
Cái ‘hôm nay’ của Đức Mẹ Maria, của thánh Giuse, của các người mục đồng cũng là
cái ‘hôm nay’ của chính chúng ta.
Các
hoàn cảnh lịch sử nhất định đã có ảnh hưởng trên sự phát triển các điểm nhấn
của lễ và mùa Giáng sinh. Tin Mừng Giáng sinh được
viết sau cùng. Sang thế kỷ IV, trước trào lưu mang tên Arius, phủ nhận
thiên tính của Chúa Giêsu, tại Công đồng Nixêa (325), Giáo Hội tuyên xưng Chúa
Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi
Thiên Chúa thật...Làm một với Thiên Chúa Cha” (Kinh Tin kính của công đồng
Nixêa). Như vậy, Chúa Giêsu không chỉ thuần tuý là một tạo vật thánh thiêng của
Thiên Chúa, mà Người là Thiên Chúa toàn năng, ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thuỷ,
“được sinh ra mà không phải tạo thành” (ibid).
Một hoàn cảnh lịch sử
khác cũng có ảnh hưởng trên sự phát triển của lễ Giáng sinh hay đúng hơn, cho
việc mừng lễ Giáng sinh vào ngày 25/12. Đó là vào năm 274, hoàng đế Aurelius đã
quyết định ngày 25/12 – ngày đông chí là ngày dâng kính Natale Solis Invicti, một ngày
lễ của lương dân kính “Thần Mặt Trời vô địch”. Vì có nhiều đoạn Thánh Kinh
khẳng định Đức Kitô là ánh sáng, ánh sáng của thế giới, nên cũng dễ hiểu khi
Giáo Hội ‘rửa tội’ cho ngày lễ này của người lương, và biến việc kính mặt trời
thành việc kính Mặt Trời công chính.
Một lý do khác nữa của
việc lễ Giáng sinh được mừng vào ngày 25/12: các Kitô hữu tiên khởi cho rằng
Chúa Giêsu sinh ra vào ngày 25/12. “Vào buổi đầu thế kỷ thứ ba, các nhà thần
học Kitô giáo đã tính toán về ngày sinh của Đức Giêsu vốn không được ghi trong
các sách Tin Mừng. Biểu tượng Chúa Kitô Mặt Trời cắm rễ sâu trong ý thức của
người Kitô hữu khiến họ có sự quan tâm đặc biệt tới các thời điểm phân và điểm
chí” (Năm phụng vụ, trg. 123). Và hậu quả là sự kiện ông Gioan Tẩy giả ra đời
được đặt vào ngày hạ chí (“Tôi phải bé đi”, Ga 3, 30), và Chúa Giêsu ra đời sáu
tháng sau, vào đông chí “Và Người phải lớn lên”, ibid.). Đối
với những con người có cuộc sống gắn với mặt trời, mặt trăng và các mùa hơn
chúng ta, những thời gian này có ý nghĩa rất đặc biệt. Các Kitô hữu tiên khởi có thể đã coi sự Nhập thể của Chúa – ra đời,
chết và sống lại – được khắc ghi trong vũ trụ.
Giáng sinh là một ngày
lễ trọng thể như ngày lễ Phục sinh, quá lớn để chỉ được mừng trong một ngày duy
nhất: Giáo Hội đã dành một thời gian dài để suy nhiệm về mầu nhiệm trọng đại
này. Tuần bát nhật lễ Giáng sinh được cử hành một cách đặc
biệt trọng thể. Ngày Chúa nhật trong tuần bát nhật,
chúng ta tiếp tục mừng sự nhập thể của Đức Kitô, từ một nhãn giới khác với lễ
kính Thánh Gia của Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuần bát nhật kết
thúc với lễ kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vào ngày 1/1, ngày lễ trọng thể đầu
tiên kính Đức Mẹ Maria, kết quả của Công đồng Êphêsô.
Mùa
Giáng sinh tiếp tục với lễ trọng thể sự Hiển Linh của Chúa, mừng việc Chúa Kitô
“tỏ mình” ra. Hiển Linh trong truyền thống thường được mừng
ngày thứ mười hai sau lễ Giáng sinh (6/1), và là một ngày lễ nghỉ. Nhưng tại những nơi lễ Hiển Linh không phải là lễ nghỉ, thì được
dời vào ngày Chúa nhật. Mùa Giáng sinh kết thúc với lễ
kính Chúa Giêsu chịu phép Thánh Tẩy. Với việc Chúa
Giêsu chịu Thánh tẩy, kết thúc thời kỳ ẩn dật của Chúa Giêsu và bắt đầu thời kỳ
sứ vụ công khai của Người. Các mùa và ngày lễ tiếp theo
của năm Phụng vụ sẽ cho chúng ta được đi tiếp với Đức Kitô trong những đoạn
đường tiếp theo của sứ vụ của Người.
KẾT LUẬN
Như vậy, năm Phụng vụ
Giáo Hội vừa mở đầu, với những mùa, những ngày lễ, với những bài đọc, lời kinh,
câu hát đã được ấn định, chính là lời mời gọi các cộng đoàn và từng người tín
hữu ý thức và tích cực sống trong sự hiệp thông với công cuộc cứu độ Thiên Chúa
đang thực hiện giữa cộng đoàn phụng vụ.
Vương Nghi và
Giuse Nguyễn