ĐỨC TIN, ĐẠO HIẾU VÀ ĐỒNG BÓNG

Chia sẻ của Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

Cuối năm 2000, tôi được gặp Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận tại Rôma. Vị Tổng Giám mục bảo tôi hãy về nói với anh em linh mục tích cực chuẩn bị để Dân Chúa có thể đứng vững được trước trào lưu vật chất tiêu thụ. Theo ngài, đây là cuộc thử thách đáng sợ gấp bội so với những kiểu bách hại cổ điển. Gần hai mươi năm đã trôi qua, tôi chưa biết làm cách nào để chuyển được lời nhắn ấy đến anh em tôi trên mọi miền đất nước thì giờ đây lời cảnh báo của ngài đã thành hiện thực.

Ba mươi năm sau ngày phong 117 hiển thánh Chứng đạo, ta thử nhìn lại…

(phần 3)

6. HAI NẺO ĐƯỜNG CÁCH BIỆT

Những thử thách như thế được Kinh thánh nhìn như sự sửa dạy (tức là giáo dục) của Thiên Chúa:

5Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. 6Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. 7Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? 8Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. 9Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. 10Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người. 11Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (Thư gửi tín hữu Hípri 12,5-11).

 Khi ghi lại lịch sử, Kinh thánh cho thấy không riêng cụ Abraham, tất cả mọi người được Chúa gọi đều phải được uốn nắn: được lôi ra khỏi môi trường cũ, được rèn luyện qua thử thách, đau thương và sỉ nhục. Nơi cuộc đời của Isaac, Giacóp và Giuse chẳng hạn. Lắm trường hợp, thử thách dường như vượt sức chịu đựng của họ, Thiên Chúa đã an ủi bằng cách báo mộng cho họ. Riêng đối với ông Môsê, Thiên Chúa không báo mộng nhưng Ngài trực tiếp nói chuyện với ông.

Giữa những dân tộc thờ đủ thứ thần, Chúa dạy dân Israel chỉ tin thờ một mình Ngài mà thôi. Ngài cấm ngặt Dân Ngài không được gọi hồn như các dân ngoại. Vị vua đầu tiên của Dân Chúa là vua Saul cũng cấm ngặt Dân Chúa không được làm điều ấy. Có điều gì cần thỉnh ý Thiên Chúa, nhà vua tìm đến ngôn sứ Samuel. Thế nhưng rồi sau khi vị ngôn sứ qua đời, gặp lúc quẫn bách, vua Saul đã lỗi phạm điều mà chính ông đã cấm người khác. Ông đi ngược lại luật Chúa mà ông đã từng bảo vệ. Ông cầu cứu với những thế lực bí ẩn bên ngoài Thiên Chúa. Ông tìm đến một bà đồng bóng, xin bà gọi hồn ngôn sứ Samuel. Và “ngôn sứ Samuel” xuất hiện, với dáng dấp, cung giọng đúng như ông mong chờ và cũng nói những lời đanh thép y hệt như vị ngôn sứ ông từng gặp trong cuộc sống.

Trong chuyện ấy, “ngôn sứ Samuel” hiện về; bà đồng bóng nhìn thấy “ông ta” và đối thoại với “ông ta”. Bên Việt Nam mình, các “hồn” được gọi về “nhập” vào một người nào đó đang có mặt, khiến người này biến đổi diện mạo, cách ứng xử và ngôn ngữ giống y hệt “người xưa”..

- Thưa cha, nhưng họ cho biết những thông tin rất đáng tin cậy, mình kiểm chứng được mà!

- Tôi đã bảo bạn rằng đã là quỷ thì nó rất quỷ quái!

“Gọi hồn” là một trò đùa của thần dữ. Các linh hồn đã khuất do Thiên Chúa quản lý! Mấy ông thầy cúng có quyền phép gì để triệu tập các linh hồn đã khuất về lại trần gian? Chính các thần dữ giả dạng người đã khuất để đánh lừa chúng ta. “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2Cr 11,14).

Những loài thần thiêng, không thân xác, muốn biết chuyện quá khứ của loài hữu hình là chuyện quá dễ. Ngay cả máy tính do con người chế tạo đã có khả năng tìm giúp những điều ta bỏ quên, tìm những hình ảnh tương tự, truyền tải hình ảnh nửa vòng trái đất, từ trái đất lên những hành tinh xa xôi, cắt xén lắp ghép hình ảnh, tạo nên rô bốt… Việc ma quỷ giả dạng người xưa và biết chuyện riêng, chuyện kín của người ta là chuyện dễ ợt… Tương kế tựu kế, thần dữ cung cấp toàn những tin tức rất sát sự thật để cho người ta tin nó và dấn sâu vào trò lừa đảo của nó. Rồi giữa chín điều rất thật, nó sẽ chèn vào một điều thứ mười hoàn toàn dối trá chẳng ai ngờ. Đọc chuyện Tam Quốc Chí, ta đã thấy ông Khổng Minh gài người vào phía đối phương để “hiến kế” và khiến đối phương bị lừa. Kẻ nội thù đề nghị toàn những điều hết sức hay, mãi đến lúc đại bại người ta mới biết rằng mình bị gài bẫy! Thần dữ cũng hành động y hệt như thế và còn siêu đẳng hơn thế nhiều!

- Thưa cha? Làm sao kiểm chứng điều cha nói?

- Bạn không tin rằng thần dữ đang lèo lái những vụ lên đồng sao? Bạn hãy thử dẫn vào đó một em bé ngoan hiền, đã lãnh bí tích Thánh tẩy của Giáo hội Công giáo, ngực đeo ảnh thánh giá nhỏ, rồi xem thử vụ lên đồng có thực hiện nổi hay không? Tại sao vụ lên đồng thất bại? Bởi vì chính Chúa Giêsu đang ở nơi em bé ngoan hiền ấy khiến thần dữ không dám bén mảng tới.

Tôi nêu chi tiết em bé ngoan hiền nhằm cho thấy việc trung thành với ơn bí tích Rửa tội rất quan trọng. Nếu một tín hữu đã tự châm chước để nhượng bộ cho con người cũ cách này hay cách khác, đức tin của họ không vững nữa. Khi chính họ đã chiều theo sự xui khiến của thần dữ thì nó không còn sợ gì họ nữa.

Chúng ta cần luôn đứng vững trước những thử thách lớn và nhỏ, cũng như trước mọi cám dỗ lớn và nhỏ. Những gì xảy ra cho Chúa Giêsu trong hoang địa giúp ta hiểu rằng thần dữ rất kiên nhẫn. Đối với những người ngay lành đầy thiện chí, nó không mong gì có thể xúi giục họ làm điều xấu ngay nhưng nó nhất quyết không bỏ cuộc. Nó chấp nhận đi những đường vòng thật dài.

1Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói. 3Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Ngài và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” 4Nhưng Ngài đáp: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”

5Sau đó, quỷ đem Ngài đến thành thánh, và đặt Ngài trên nóc đền thờ, 6rồi nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”

7Đức Giêsu đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

8Quỷ lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 9và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” 10Đức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi.”

11Thế rồi quỷ bỏ Ngài mà đi, và có các thiên sứ tiến đến hầu hạ Ngài.

 Một tên quỷ mới ra nghề có lẽ đã đưa tới gà quay, rượu bia, thuốc lá và đủ thứ mồi tham, sân, si linh tinh… nhưng tên quỷ già có nhiệm vụ cám dỗ Đấng Cứu Thế thì khác. Với một kinh nghiệm dài bằng lịch sử loài người, nó chỉ dùng một lá bài hai mặt sấp ngửa rất đơn giản: Bên khó, bên dễ, ông chọn bên nào?

Đức Giêsu bắt đầu công cuộc cứu chuộc nhân loại nhằm lúc quân đội Rôma đang đè bẹp dân tộc Ngài, đâu đâu cũng âm ỉ sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa chống thực dân. Tên quỷ dựa ngay vào đó để lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi công cuộc giải phóng về mặt tâm linh mà nó vừa căm thù vừa khiếp sợ.

Nó khôn khéo hiến kế giúp Ngài “làm tròn sứ mạng” theo cách của nó. Thông điệp của cám dỗ đầu tiên là: “Nếu Ngài muốn cứu nhân độ thế, thì cứ cho họ ăn no mặc ấm, Ngài cứ làm cho kinh tế phồn thịnh thì ai mà chẳng theo Ngài!” Thu phục dân chúng bằng cách ấy có vẻ dễ thật, vừa mau vừa được nhiều người! Nhưng có phải như vậy là đưa người ta về với Chúa hay chỉ làm người ta ươn lười, chạy theo thỏa mãn vật chất? Thay vì giúp người ta tin yêu Thiên Chúa, cách hành động này dạy người ta “lấy cái bụng làm Thiên Chúa” (Ph 3,19). Lúc đó chỉ có vật chất có quyền sai bảo họ, chứ Thiên Chúa không có quyền gì trên họ, chỉ cần một lời không vừa ý họ cũng đủ để họ làm reo thách đố (xem Ga 6,30 và 42). Tương tự như thế, cám dỗ thứ hai nhằm gợi ý cho Đức Giêsu chinh phục thiên hạ bằng phép lạ. Đối với Ngài, can thiệp vào các định luật thiên nhiên là chuyện dễ như trở bàn tay, nhưng thuyết phục thiên hạ bằng cách ấy chỉ là trói buộc họ bằng sự hiếu kỳ. Trên đường rao giảng, khi cứu chữa cho người câm được nói, người điếc được nghe, người mù được thấy, người què và bại liệt được bước đi vững vàng, Ngài muốn ngụ ý rằng, cũng tương tự như thế, Ngài sẽ làm cho mọi người được sáng mắt, thính tai, lợi khẩu và tự chủ về mặt tâm linh. Trong lần chữa một người bại liệt tại Capharnaum, Ngài chất vấn những kẻ đang dò xét Ngài:

- Trong hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? (Mt 9,5)

Cám dỗ thứ ba là cứu thế bằng con đường chính trị và quân sự: Nắm được quyền lực chính trị sẽ khống chế mọi người cách thật dễ dàng, tuy nhiên như thế có gì là giải thoát chăng hay chỉ thêm áp bức trói buộc? Và đáng sợ nhất là trước hết chính bản thân người rêu rao giải thoát phải nô lệ cho thần dữ: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9).

Hẳn bạn thấy rõ tính chất đểu cáng lừa gạt nơi những điều tốt do Satan đề nghị. Những thứ ấy sẽ biến công cuộc Thiên Chúa thành công cuộc của trần gian, hay chính xác hơn, công cuộc của thần dữ!

Ngay từ đầu lịch sử, thần dữ đã cám dỗ loài người bằng con đường dễ dãi: chỉ cần đừng bận tâm tới lệnh truyền của Thiên Chúa, cứ muốn gì làm nấy, là đương nhiên ngang hàng với Thiên Chúa, chứ có gì phải rắc rối lắm chuyện? Hậu quả trước mắt của sự không vâng lời Thiên Chúa là loài người rơi tòm xuống vực thẳm của tham, sân, si, vực thẳm của khổ đau, tội lỗi và chết chóc.

Để khắc phục những hậu quả ấy của tội lỗi, Con Thiên Chúa làm người quyết hành động ngược hẳn lại: khước từ mọi dễ dãi và tự hạ mình vâng phục, vâng phục đến chết trên thập giá (x. Pl 2,6-8). Chính vì thế, khi khởi đầu sứ vụ, Ngài đã tìm vào sa mạc sống cô tịch bốn mươi đêm ngày để lắng nghe và đón nhận ý Chúa Cha.

Trong Cựu ước, ông Môsê rồi ông Giôsuê đã mời gọi Dân Chúa chọn đường lành, tránh đường dữ, chọn đường sống, đừng chọn đường chết. Các vị sáng lập tôn giáo đều mời gọi như thế cả. Chỉ riêng Đức Giêsu cũng nói thế nhưng bằng một cách diễn tả khác: hãy chọn đường khó, đừng chọn đường dễ. 13Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. 14Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy (Mt 7,13-14). Phía dễ dãi của cửa rộng và đường thênh thang là phía dẫn tới diệt vong, còn phía phải phấn đấu của cửa hẹp và đường chật sẽ dẫn tới sự sống đời đời.

Sau đó mấy câu, Chúa sẽ cho biết rõ con đường ấy chính là vâng theo ý của Chúa Cha: 21Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! (Mt 7,21-23).

Nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, toàn là những điều tốt. Thế nhưng cần phải lưu ý: Nếu đúng là ý Chúa bảo làm như thế, người thực hiện sẽ được thưởng, còn nếu chỉ làm theo ý riêng, thì sẽ bị luận tội. Chiều theo ý riêng bao giờ cũng dễ. Ý riêng là cửa rộng và đường thênh thang cho ta mặc tình buông thả. Còn vâng theo ý Chúa bao giờ cũng khó, đòi phải từ bỏ bản thân, đúng là bên của cửa hẹp và đường chật.

7. ĐIỀU NHỎ TRONG HIỆN TẠI

Sự đối kháng đang nói đây vừa đưa tới những hy vọng rất bất ngờ vừa cảnh báo để ta khỏi rơi vào những nguy cơ khủng khiếp. Người ta có thể đạt tới chỗ vâng phục Thiên Chúa cách sâu thẳm nơi một điều hết sức nhỏ, chẳng hạn một tư tưởng vụt qua trong trí, mà ngược lại, người ta cũng có thể đi tới chỗ cực kỳ phản loạn nơi một điều hết sức nhỏ như thế. Bất cứ ai, tại bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, nơi bất cứ điều nhỏ nhặt nào cũng đều có thể bay vút lên cực cao hoặc rơi xuống cực thấp. Đối diện với âm mưu lừa gạt của thần dữ, đây là điều vô cùng đáng sợ, nhưng ngược lại, nhìn lên lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha, đây lại là điều để ta có quyền hy vọng đến vô biên. Lắm kẻ khôn ba năm dại một giờ mà cũng lắm người được ơn hoán cải vào phút chót như người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa:

39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,39-43).

Chỉ trong giây lát, kẻ bao nhiêu năm làm điều phi pháp bỗng chốc được Chúa hứa ban phúc thiên đàng. Thần dữ sẽ dựa vào đó để rỉ tai nhiều người: “Vậy thì lo gì, cứ ăn chơi thả cửa, tới phút chót quay lại vẫn kịp, có sao đâu!” Cũng không ít người quên mất rằng phút chót của mình có thể là đêm nay mà cũng có thể chỉ trong vòng 5 phút nữa!

Ngược với luận điệu của Satan, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho chị thánh Têrêxa một cách nên thánh giản dị là vui nhận mọi điều bất ngờ trái ý lớn nhỏ như quà tặng của Chúa với một lòng phó thác lớn lao và yêu mến nồng nàn. Cách hành sử của Thiên Chúa đã mở ra cơ hội đồng đều cho tất cả mọi người, không phân biệt. Trước mắt người đời, có kẻ sang người hèn, còn trước mắt Thiên Chúa, mỗi người đều được ban đủ ơn cần thiết để phấn đấu trong hoàn cảnh của mình. Thiên Chúa gửi thử thách ngần nào, Ngài cũng ban đủ ơn ngần ấy. Ngài không thử thách ai quá sức, cũng không đòi hỏi ai quá sức. Dù là trí thức, nông dân, công nhân hay doanh gia, dù trẻ hay già, bé hay lớn, có gia đình hay độc thân, người đời hoặc tu sĩ, mỗi người đều có cuộc chiến đấu riêng. Từ việc học của người sinh viên, việc giáo dục gia đình của bậc cha mẹ hay việc xây dựng hạnh phúc của các đôi vợ chồng, việc lớn cũng như việc nhỏ, việc nào cũng có bên rộng, bên hẹp, mỗi trường hợp đều đặt người ta trước cái chọn lựa giữa dễ dãi và nghiêm túc, giữa buông thả và cố gắng, giữa phía kéo xuống thấp hay phía đưa lên cao…