Huấn Từ của ĐTC dành cho Thánh Bộ
Giáo Lý Đức Tin
31/01/2012)
“Trung tâm của việc
Đại Kết Thật là. .. Đức Tin mà trong đó Con Người Gặp Gỡ Chân lý”
VATICAN CITY, ngày 30 tháng 1, 2012 - Dưới đây
là bản dịch huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành ngày Thứ Sáu tại buổi họp
khoáng đại của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin.
* * *
Trọng kính các Đức Hồng Y,
Các hiền huynh đáng kính trong hàng giám mục và
linh mục,
Anh chị em thân mến!
Thật là một niềm vui cho tôi được gặp gỡ anh chị em nhân
dịp phiên họp khoáng đại của anh chị em và bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với
việc phục vụ mà anh chị em đang làm cho Hội Thánh và đặc biệt là cho người Kế
Vị Thánh Phêrô trong chức năng củng cố anh em trong đức tin (x. Lc 22:32). Tôi
xin cám ơn Đức Hồng Y Levada vì lời chào mừng thân mật của ngài, trong đó ngài
đã nhắc lại một số công tác quan trọng mà Thánh Bộ đã hoàn thành trong những
năm gần đây. Và tôi đặc biệt biết ơn Thánh Bộ vì những việc làm với Hội Đồng
Giáo Hoàng về Cổ Võ Tân Phúc Âm Hóa trong việc chuẩn bị cho Năm Đức Tin, bằng
cách nhận ra ở đó một thời điểm thuận lợi để tái đề nghị tất cả hồng ân đức tin
vào Đức Kitô Phục Sinh, giáo huấn rành mạch của Công Đồng Vaticanô II và tổng
hợp giáo lý quý giá được cung cấp bởi Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo.
Như chúng ta biết, ở những vùng rộng lớn của thế giới, đức
tin đang có nguy cơ bị dập tắt, như một ngọn lửa không còn nhiên liệu. Chúng ta
đang phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức
tôn giáo, là điều tạo thành một thách thức lớn nhất của Hội Thánh ngày nay. Như
thế, việc canh tân đức tin phải là việc ưu tiên trong các công việc của toàn
thể Hội Thánh trong thời đại chúng ta. Ước muốn của tôi là, với sự cộng tác
chân thành của toàn thể dân Chúa, Năm Đức tin đóng góp vào việc làm cho Thiên
Chúa tái hiện diện trong thế gian này và mở ra cho con người đường đến đức tin,
để họ phó thác chính cho Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta đến cùng (x. Ga
13:1) trong Đức Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh. Chủ đề của sự hiệp
nhất các Kitô hữu được gắn liền với nhiệm vụ này. Vì vậy, tôi muốn suy tư về
một số khía cạnh tín lý của con đường đại kết của Hội Thánh, là đối tượng của
những suy nghĩ sâu sắc trong phiên họp khoáng đại này, trùng hợp với ngày kết
thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Sự Hiệp Nhất Kitô Giáo. Thực ra, tinh thần của công
việc đại kết phải bắt đầu với “nguyên tắc đại kết thiêng liêng,” với “linh hồn
của toàn bộ phong trào đại kết” ấy (“Unitatis redintegratio,” 8), được tìm thấy
trong tinh thần cầu nguyện để “tất cả được nên một “(Ga 17:21).
Sự đồng nhất của công tác đại kết với giáo huấn của Công
Đồng Vaticanô II và với toàn thể truyền thống đã là một trong những lĩnh vực mà
Thánh Bộ, phối hợp với Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ Võ Hiệp nhất Kitô hữu, đã quan
tâm đến. Hôm nay chúng ta có thể nhận thấy rằng nhiều hoa quả tốt đã được phát
sinh từ các cuộc đối thoại đại kết, nhưng chúng ta cũng phải lưu ý rằng nguy cơ
của một chủ thuyết hộ giáo hòa đồng sai lạc (irenicism) giả tạo và của chủ
thuyết trung dung (indifferentism), là những điều hoàn toàn xa lạ với tinh thần
của Công Đồng Vaticanô II, đòi hỏi sự cảnh giác của chúng ta. Chủ thuyết trung
dung này gây ra bởi ý kiến, vẫn còn tiếp tục lan truyền, rằng con người không
thể đến gần chân lý được cho nên chúng ta cần phải tự giới hạn để tìm ra những
quy luật cho một tập quán có thể có khả năng cải thiện thế giới. Và theo cách
này, đức tin sẽ bị thay thế bằng một chủ thuyết đạo đức không có nền tảng sâu
sắc nào. Ngược lại, trung tâm của phong trào đại kết thực sự phải là đức tin mà
trong đó con người gặp gỡ Chân Lý được mâc khải trong Lời Chúa. Nếu không có
đức tin thì toàn bộ phong trào đại kết sẽ chỉ còn là một hình thức “hợp đồng xã
hội” được tán thành vì lợi ích chung, một “môn nghiên cứu về hành động và cách
cư xử của con người” (praxeology) nhằm mục đích tạo ra một thế giới tốt đẹp
hơn. Lý luận của Công Đồng Vaticanô II hoàn toàn khác: việc theo đuổi sự hiệp
nhất hoàn toàn của các Kitô hữu là một động năng được linh hoạt bằng Lời Chúa,
bằng Chân Lý của Thiên Chúa nói với chúng ta trong Lời này.
Như thế, vấn đề rất quan trọng trong tất cả các cuộc đối
thoại đại kết là vấn đề cấu trúc của mạc khải – sự liên hệ giữa Thánh Kinh,
Truyền Thống sống động của Hội Thánh và chức năng của những người kế vị các
Thánh Tông Đồ như những nhân chứng cho đức tin chân chính: và ở đây, gián tiếp
ám chỉ chủ đề của Giáo Hội Học, là một phần của vấn đề này: là Chân Lý của
Thiên Chúa đến với chúng ta như thế nào. Việc phân biệt giữa Truyền Thống với
một chữ “T” hoa [Thánh Truyền] và các truyền thống, trong những điều khác, là
điều cơ bản ở đây. Tôi không muốn đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra một nhận
xét. Một bước quan trọng trong việc phân biệt như thế được thực hiện trong việc
chuẩn bị và áp dụng những điều khoản cho các nhóm tín hữu đến từ Anh giáo,
những người muốn hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh, muốn nhập vào sự hiệp nhất
của Thánh Truyền phổ quát và thiết yếu của Thiên Chúa, trong khi duy trì những
truyền thống linh đạo, phụng vụ và mục vụ của riêng họ, là những điều phù hợp
với đức tin Công giáo (x. “Anglicanorum coetibus, phần III). Thực ra, có một sự
phong phú tinh thần trong những tuyên xưng đức tin Kitô giáo khác nhau, là
những cách diễn tả một đức tin duy nhất và một món quà để cùng nhau chia sẻ và
khám phá trong Truyền Thống của Hội Thánh.
Như thế, ngày nay một trong những câu hỏi cơ bản được đặt
ra liên quan đến vấn đề những phương pháp thích hợp trong các cuộc đối thoại
đại kết. Những phương pháp này cũng phải phản ảnh ưu tiên về đức tin. Biết được
Chân Lý là quyền của tất cả những người tham gia trong một cuộc đối thoại thực
sự. Đây là đòi hỏi của chính đức ái đối với anh chị em của chúng ta. Theo nghĩa
này, cho dù cần phải trực diện với những câu hỏi gây ra tranh luận, và làm như
thế với lòng can đảm, luôn luôn trong tinh thần huynh đệ và tôn trọng lẫn nhau.
Hơn nữa, điều quan trọng là, để cung cấp một giải thích chính xác về “trật tự
hay ‘phẩm trật’ của các chân lý trong giáo lý Công giáo” được sắc lệnh “Unitatis
redintegratio” (s. 11) nói đến, là điều không làm cho Kho Táng Đức Tin bị suy
giảm một chút nào, nhưng làm cho cấu trúc hữu cơ nội tại của nó được rõ ràng
hơn. Các tài liệu nghiên cứu được đưa ra bởi những cuộc đối thoại đại kết khác
nhau cũng có giá trị thích hợp rất lớn. Những văn bản như thế không thể bị bỏ
qua vì chúng tạo thành một hoa quả quan trọng, dù tạm thời, của suy tư chung
được phát triển trong nhiều năm. Tuy nhiên, ý nghĩa đúng của chúng phải được
nhìn nhận như những đóng góp được đệ trình lên giới Hữu Trách của Hội Thánh, là
người được gọi để lượng giá chúng một cách dứt khoát. Việc gán cho những văn
bản như thế một giá trị có tính bắt buộc hay hầu như chung cuộc cho các vấn đề
hóc búa của cuộc đối thoại mà không có sự đánh giá cần thiết bởi Thẩm Quyền Hội
Thánh, trong phân tích cuối cùng, thì không giúp gì cho con đường đi đến hiệp
nhất trọn vẹn trong đức tin.
Một câu hỏi chót mà tôi muốn đề cập đến cuối cùng là vấn đề
luân lý, một thách thức mới cho cuộc hành trình đại kết. Trong các cuộc đối
thoại, chúng ta không thể bỏ qua những câu hỏi luân lý quan trọng về sự sống
con người, gia đình, phái tình, đạo đức sinh học, tự do, công lý và hòa bình.
Điều rất quan trọng là phải nói về những chủ đề này bằng một tiếng nói duy
nhất, rút ra từ nền tảng của Thánh Kinh và Truyền Thống sống động của Hội
Thánh. Truyền Thống này giúp chúng ta giải mã ngôn ngữ của Đấng Tạo Hóa trong
việc tạo dựng của Ngài. Khi bảo vệ những giá trị cơ bản của Truyền Thống cao cả
của Hội Thánh, chúng ta cũng bảo vệ con người và bảo vệ tạo vật.
Để kết luận những suy tư này, tôi hy vọng sự hợp tác chặt
chẽ và huynh đệ của Thánh Bộ với Hội đồng Giáo Hoàng về Cổ Võ sự Hiệp Nhất Kitô
Giáo với mục tiêu thúc đẩy cách hiệu quả việc tái lập sự hiệp nhất hoàn toàn
giữa các Kitô hữu. Thực ra, sự chia rẽ giữa các Kitô hữu không những chỉ công
khai làm ngược lại ý muốn của Đức Kitô, nhưng còn là một gương mù cho thế gian
và phương hại đến mục tiếu linh thánh nhất của các mục tiếu: rao giảng Tin Mừng
cho mọi loài thụ tạo” (“Unitatis redintegratio,” 1). Do đó, sự hiệp nhất không
những chỉ là hoa quả của đức tin mà còn là một phương tiện và gần như một phỏng
định trước về việc công bố đức tin một cách đáng tin cậy hơn bao giờ hết cho
những người không biết Đấng Cứu Độ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “lạy Cha, như Cha
ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng nên một trong Chúng Ta, để thế gian
tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17:21).
Trong khi nhắc lại lòng biết ơn của tôi đối với việc phục
vụ của anh chị em, tôi đảm bảo cùng anh chị em về sự luôn luôn gần gũi anh chị
em về tinh thần của tôi, và từ trái tim tôi ban Phép Lành Toà Thánh cho anh chị
em. Cảm ơn.
ĐTC Bênêđictô XVI