Chúa Giêsu cần sự liên đới tỉnh thức cầu nguyện của chúng ta
Radiovaticana 01/02/2012 18.20.25 – Dù
trời Roma mưa và lạnh sáng thứ tư 1-2-2012 cũng đã có đông đảo tín hữu và du
khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần của Đức Thánh Cha trong
đại thính đường Phaolô VI.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải
thích lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani trên núi Cây Dầu. Sau
khi hát thánh thi, tức các Thánh Vịnh Hallel, cảm tạ Thiên Chúa đã giải phóng
dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập và cầu xin Chúa trợ giúp giữa các
khó khăn và đe dọa mới trong hiện tại, Chúa Giêsu và các Tông Đồ ra đi về núi
Cây Dầu (Mc 14,26).
Tới nơi, Chúa Giêsu chuẩn bị cầu nguyện,
nhưng xem ra Người không muốn ở một mình như vẫn thường xảy ra trước đó, khi
Người thường rời xa đám đông và các môn đệ để vào “nơi vắng vẻ” (Mc 1,35) hay “lên
núi” (Mc 6,46) cầu nguyện. Tại Giệtsêmani, trái lại, Chúa Giêsu mời Phêrô,
Giacôbê và Gioan ở gần Người. Chúa đem họ theo Người (Mc 14,33-34). Họ là các
môn đệ Người đã đem theo trên núi hiển dung (x. Mc 9,2-13). Trong đêm đó, Chúa
Giêsu cũng cầu nguyện một mình, bởi vì tương quan của Người với Thiên Chúa Cha
là duy nhất và riêng tư: tương quan của Con Một. Đức Thánh Cha giải thích điểm
này như sau:
Tuy nhiên, mặc dù “một mình” đến điểm để
dừng lại cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn rằng ít nhất ba môn đệ không ở xa, mà ở
trong một tương quan chặt chẽ hơn với người. Đây là một sự gần gũi không gian,
một lời xin liên đới trong lúc Người cảm thấy cái chết đến gần, nhưng nhất là một
sự gần gũi trong lời cầu nguyện, để diễn tả, trong một cách thế nào đó, sự đồng
điệu với Chúa, trong lúc Người chuẩn bị chu toàn tới cùng ý muốn của Thiên Chúa
Cha; và nó là lời mời gọi từng môn đệ đi theo Người trên con đường Thập Giá.
Trong lời nói với ba môn đệ Chúa Giêsu
dùng lời Thánh Vịnh 43: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được” (x. Tv 43,5). Sự
cương quyết khó khăn “cho đến chết” nhắc mhớ hoàn cảnh, mà nhiều người được
Thiên Chúa sai đi trong Cựu Ước nói lên trong lời cầu của họ. Vì thường khi đi
theo sứ mệnh được trao phó cho họ có nghĩa là gặp thù nghịch, khước từ và bách
hại. Ông Môshê cảm thấy thử thách thê thảm phải chịu, khi hướng dẫn dân
Các lời Chúa Giêsu nói với ba môn đệ mà
Người muốn gần Người trong khi cầu nguyện tại vườn Giệtsêmani, vén mở cho thấy
Chúa Giêsu cảm thấy sợ hãi và âu lo trong “Giờ” đó như thế nào; Người kinh
nghiệm sự cô đơn sâu thẳm cuối cùng, chính trong lúc dự định của Thiên Ghúa
đang được thực hiện. Và trong sự âu lo sợ hãi đó của Chúa Giêsu tóm gọn tất cả
sự kinh hoàng của con người trước cái chết của chính mình, cái chắc chắn về sự
không lay chuyển của nó, và trực giác về sức nặng của sự dữ gặm nhấm sự sống
của chúng ta.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Sau khi mời ba môn đệ ở lại và tỉnh thức cầu nguyện, Chúa Giêsu một mình hướng
về Thiên Chúa Cha. Thánh sử Marcô thuật lại rằng: “Người đi xa hơn một chút,
sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy nếu có thể được”
(Mc 14,35). Chúa Giêsu ngã sấp mình xuống đất: đây là một tư thế cầu nguyện
diễn tả sự vâng phục ý muốn của Thiên Chúa Cha, sự phó thác với lòng tin tưởng
tràn đầy nơi Ngài.
Nó là một cử chỉ được lập lại vào đầu
việc cử hành cuộc Khổ Nạn, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cũng như trong lễ khấn tại
đan viện và trong các cuộc truyền chức phó tế, linh mục và giám mục, để diễn tả
trong lời cầu nguyện và cả trong tư thế của thân thể nữa, sự tín thác hoàn toàn
nơi Thiên Chúa. Rồi Chúa Giêsu xin Thiên Chúa Cha nếu có thể được cho Người
khỏi phải qua giờ này. Đây không chỉ là nỗi sợ hãi và lo âu trước cái chết, mà
còn là sự đảo lộn của Con Thiên Chúa, trông thấy khối nặng sự dữ kinh khủng
phải mang trên mình nữa, để vượt thắng nó, để lấy đi quyền lực của nó. Rồi Đức
Thánh Cha khuyến khích mọi người như sau:
Anh chị em thân mến, cả chúng ta nữa,
trong lời cầu nguyện chúng ta cũng phải có khả năng đem đến trước mặt Thiên
Chúa các mệt nhọc của chúng ta, nỗi khổ đau của một vài tình trạng, của một vài
ngày sống, dấn thân thường ngày để theo Chúa, để là các tín hữu kitô, và cả
gánh nặng của sự dữ mà chúng ta trông thấy trong chúng ta và chung quanh chúng
ta, để Người trao ban hy vọng cho chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy sự gần
gũi của Người, ban cho chúng ta một chút ánh sáng trên con đường cuộc sống.
Trong lời cầu Chúa Giêsu nói với Thiên
Chúa Cha: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng
xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36), Chúa Giêsu vén mở
cho chúng ta thấy ba điểm. Trước hết là kiểu gọi “Abba” trong tiếng Aramay là
kiểu trẻ em gọi cha chúng, và như thế nó diễn tả tương quan dịu hiền, yêu
thương, tin tưởng, tín thác của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Thứ hai là ý
thức về sự toàn năng của Thiên Chúa Cha, dẫn vào lời xin cho thấy thảm cảnh ý
chí nhân loại của Chúa Giêsu trước cái chết và sự dữ: “Cha làm được mọi sự, xin
cất chén này xa con”. Yếu tố định đoạt thứ ba là việc ý chí con người hoàn toàn
chấp nhấn ý muốn của Thiên Chúa: “Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều
Cha muốn”. Trong sự hiệp nhất của bản vị thiên tính của Chúa Con, ý muốn nhân
loại tìm thấy sự hiện thực tràn đầy của nó trong sự tín thác hoàn toàn cái “tôi”
cho “Ngài” của Thiên Chúa Cha, được gọi là Abba.
Thánh Massimo Tuyên Giáo khẳng định rằng
từ lúc tạo dựng người nam và người nữ, ý chí của con người hướng về ý chí của
Thiên Chúa, và chính trong tiếng “có” nói lên với Thiên Chúa mà ý chí của con
người được hoàn toàn tự do, và tìm thấy sự hiện thực tràn đầy của nó. Nhưng rất
tiếc, vì tội lỗi, tiếng “có” ấy với Thiên Chúa đã biến thành sự chống đối: Ađam
và Evà đã nghĩ rằng tiếng “không” với Thiên Chúa là tột đỉnh sự tự do, là sự
tràn đầy của mình. Trên Núi Cây Dầu Chúa Giêsu đem ý chí của con người trở lại
với tiếng “có” tràn đầy đối với Thiên Chúa... Như thế Chúa Giêsu nói với chúng
ta rằng: chỉ trong việc phù hợp ý muốn của riêng mình với ý muốn của Thiên Chúa
con người mới tiến tới sự cao cả đích thật của nó, trở thành “thiên linh”. Chỉ
khi ra khỏi chính mình, chỉ trong tiếng “có” với Thiên Chúa ước muốn hoàn toàn
tự do của Ađam, của tất cả chúng ta, mới hiện thực. Và điều Chúa Giêsu thành
toàn trong vườn Giệtsêmani: khi di chuyển ý muốn của con người vào trong ý muốn
của Thiên Chúa, nảy sinh con người đích thực, và chúng ta được cứu rỗi.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn
du: Mỗi ngày khi đọc kinh Lậy Cha, chúng ta xin cho ý Chúa được thi hành trên
trời cũng như dưới đất. Nghĩa là chúng ta thừa nhận rằng có một ý muốn của
Thiên Chúa với chúng ta và cho chúng ta, một ý muốn của Thiên Chúa trên cuộc sống
chúng ta, và nó phải càng ngày càng trở thành điểm tham chiếu cho ý muốn và
cuộc sống chúng ta. Rồi chúng ta thừa nhận rằng trên trời, nơi ý muốn của Thiên
Chúa đưực thi hành, và “trái đất” trở thành “trời” - nơi có sư hiện diện của
tình yêu, lòng tốt, chân lý, vẻ đẹp thiên linh - chỉ khi nào trong đó ý muốn
của Thiên Chúa được thực thi. Trong lời cầu Chúa Giêsu thưa lên với Thiên Chúa
Cha, trong đêm kinh khủng và tuyệt diệu ấy của vườn Giệtsêmani, “đất” đã trở
thành “trời”. Trái đất của ý muốn con người bị rúng động bởi sự sợ hãi và âu lo
đã được ý muốn của Thiên Chúa nâng cao, và như thế ý muốn của Thiên Chúa được
thể hiện dưới đất. Rồi Đức Thánh Cha nhắn nhủ tín hữu như sau:
Chúng ta phải học tín thác mình cho sự
Quan Phòng của Thiên Chúa hơn, xin Chúa cho chúng ta sức mạnh ra khỏi chính
mình để canh tân tiếng “có” của chúng ta với Chúa, để lập lại với Người “xin
làm theo ý Cha”, để làm cho ý muốn của chúng ta phù hợp với ý muốn của Thiên
Chúa. Đây là lời cầu mà chúng ta phải xin mỗi ngày, bởi vì không luôn luôn dễ
dàng tín thác mình cho ý muốn của Thiên Chúa, và lập lại tiếng “có” của Chúa
Giêsu cũng như tiếng “có” của Mẹ Maria. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có
khả năng thức tỉnh với Người trong lời cầu nguyện, thực thi ý muốn của Thiên
Chúa mỗi ngày cả khi ý muốn ấy có nói tới Thập Giá, và sống một sự thân tình
ngày càng lớn hơn với Chúa để đem một chút “trời” xuống trên “trái đất này.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều
thứ tiếng khác nhau. Nhắc tới lễ thánh Gioan Bosco Giáo Hội mừng kính ngày 31
tháng Giêng vừa qua Đức Thánh Cha xin thánh nhân che chở người trẻ, và ngài cầu
chúc họ có được các nhà giáo dục khôn ngoan và các người hướng dẫn chắc chắn.
Ngài xin các bệnh nhân dâng mọi nỗi khổ đau của họ đề cầu cho công việc mục vụ
giới trẻ của Giáo Hội được phong phú. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng
trẻ mới cưới chuẩn bị trở thành các nhà giáo dục đầu tiên cho con cái họ. Sau
cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải