Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, cả khi xem ra Người
vắng mặt
Radiovaticana 08/02/2012 18.26.07 – Thiên Chúa hiện diện
và không bao giờ bỏ rơi chúng ta, cả khi xem ra Người vắng mặt. Chúng ta hãy
đem các thập giá của cuộc sống thường ngày đến cho Người, và cầu nguyện cho các
anh chị em đang phải mang gánh nặng cuộc sống, trong khó khăn, đau khổ và không
có được một lời ủi an.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định và mời gọi như
trên trong buổi tiếp kiến 7.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính
đường Phaolô VI sáng thứ tư hàng tuần 8-2-2012.
Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa
lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá trước khi tắt thở.
Hai thánh sử Marcô và Mátthêu ghi lại lời cầu nguyện này
của Chúa Giêsu đang hấp hối, không chỉ trong tiếng Hy lạp, mà trộn lẫn với cả
tiếng Do thái và tiếng Aramây nữa. Như thế các vị đã thông truyền lại cho chúng
ta cả tiếng nói của lời cầu nguyện đó trên môi miệng Chúa Giêsu. Thánh sử Marcô
viết: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào
giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Elôi, Elôi, lema sabactani?”, nghĩa là “Lậy
Thiên Chúa của con, Lậy Thiên Chúa của con sao Ngài bỏ rơi con?” Đức Thánh Cha
nói:
Trong cấu trúc trình thuật, lời cầu nguyện, tiếng kêu của
Chúa Giêsu gióng lên trong tột đỉnh của ba giờ bóng tối bao trùm toàn trái đất,
từ đúng ngọ cho đến ba giờ chiều. Ba giờ của sự tối tăm ấy tiếp tục khoảng thời
gian cũng ba giờ, bắt đầu với cuộc đóng đanh Chúa Giêsu. Thật thế, thánh sử
Marcô cho chúng ta biết: “Đó là lúc 9 giờ sáng khi họ đóng đanh Người” (Mc
15,25). Sáu giờ của Chúa Giêsu trên thập giá chia làm hai phần: trong phần đầu
từ 9 giờ sáng cho đến trưa là các chế diễu của nhiều nhóm người khác nhau, cho
thấy sự nghi ngờ và khẳng định không tin của họ. Thánh Marcô viết: “Kẻ qua
người lại, đều nhục mạ Người” (c. 29); “Các thượng tế và kinh sư cũng chế diễu
Người như vậy” (c. 31); “Cả những tên cùng chịu đóng đanh với Người cũng nhục
mạ Người” (c. 32). Trong ba giờ tiếp theo, từ trưa “cho đến ba giờ chiều”,
thánh sử chỉ nói tới tối tăm bao trùm toàn trái đất, mà không nhắc tới sự
chuyển động của các nhân vật hay lời nói. Khi Chúa Giêsu càng lúc càng tới gần
cái chết, thì chỉ có tối tăm phủ xuống trên toàn trái đất. Cả vũ trụ cũng dự
phần vào biến cố đó: bóng tối bao trùm người và vật, nhưng cả trong lúc tối tăm
ấy Thiên Chúa cũng hiện diện.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: trong truyền thống
kinh thánh bóng tối có một ý nghĩa hai mặt: nó là dấu chỉ sự hiện diện và hoạt
động của sự dữ, nhưng cũng là dấu chỉ sự hiện diện nhiệm mầu và hoạt động của
Thiên Chúa, có khả năng chiến thắng mọi bóng tối. Chẳng hạn trong sách Xuất
Hành chúng ta đọc như sau: “Chúa phán với ông Môshê: “Này Ta đến với ngươi
trong đám mây dầy đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin
vào ngươi luôn mãi” (Xh 19,9); hay “Dân đứng xa, còn ông Môshê thì tiến lại gần
đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự” (Xh 20,21). Trong các diễn văn của sách
Đệ Nhị Luật, ông Môshê kể rằng: “Anh em đã lại gần và đứng dưới chân núi; núi
bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt” (Đnl 4,11); “Khi anh
em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi đang bốc lửa, thì anh em, tất cả những
người đứng đầu các chi tộc và những kỳ mục của anh em, đã đến gặp tôi” (Đnl
5,23).
Trong cảnh đóng đanh Chúa Giêsu bóng tối bao trùm trái đất
và chúng là bóng tối của sự chết, trong đó Con Thiên Chúa tự dìm mình, để đem
lại sự sống, với cử chỉ tình yêu của Người.
Trở lại trình thuật của thánh sử Marcô, trước các nhục mạ
của các hạng người khác nhau, trước bóng tối bao trùm tất cả, trong lúc đối
diện với cái chết, với tiếng kêu của lời cầu nguyện, Chúa Giêsu cho thấy rằng
cùng với sức nặng của khổ đau và cái chết, trong đó xem ra có sự bỏ rơi và vắng
mặt của Thiên Chúa, Người vẫn xác tín về sự gần gũi của Thiên Chúa Cha, chấp
thuận cử chỉ yêu thương tột cùng và tận hiến hoàn toàn của Người, mặc dù không
nghe thấy tiếng nói từ trên cao như trong các lúc khác.
Khi đọc các Phúc Âm, chúng ta nhận thấy trong các lúc quan
trọng trong cuộc sống dương thế, Chúa Giêsu đã trông thấy các dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa Cha, kết hiệp với tiếng nói của Thiên Chúa Cha chấp thuận
con đường tình yêu của Người: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”
(Mc 1,11). Rồi trong biến cố hiển dung, cùng với dấu chỉ của đám mây còn có lời
này: “Đây là Con Ta yếu dấu, hãy lắng nghe lời Người” (Mc 9,7). Trái lại, khi
cái chết tới gần Đấng Chịu Đóng Đinh, thì thinh lặng rơi xuống, không nghe
tiếng nói nào, nhưng cái nhìn của Thiên Chúa Cha vẫn dán chặt trên món qùa tình
yêu của Chúa Con.
Nhưng mà tiếng Chúa Giêsu kêu lên Thiên Chúa Cha: “Lậy
Thiên Chúa của Con, lậy Thiên Chúa của Con. Tại sao Chúa bỏ rơi Con?” có nghĩa
gì: nghi ngờ sứ mệnh của Người hay sự hiện diện của Thiên Chúa? Trong lời cầu
đó lại không có ý thức bị bỏ rơi hay sao? Các lời Chúa Giêsu thưa lên với Thiên
Chúa Cha là các lời bắt đầu Thánh vịnh 22, trong đó tác giả thánh vịnh bầy tỏ
với Thiên Chúa sự căng thẳng giữa việc cảm thấy bị bỏ rơi một mình và ý thức
chắc chắn về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Tác giả kêu lên với
Chúa: “Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng, đêm van Ngài mà cũng chẳng yên. Thế
nhưng Chúa ngự nơi đền, vinh quang của
Đây là điều cũng xảy ra trong tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa: trước các hoàn cảnh khó khăn và đau đớn, khi Thiên Chúa xem ra
không nghe thấy, chúng ta đừng sợ hãi tín thác nơi Người tất cả gánh nặng trong
con tim, chúng ta đừng sợ hãi kêu lên Người nỗi khổ đau của chúng ta, chúng ta
phải xác tín rằng Thiên Chúa gần gũi, cả khi xem ra Người thinh lặng.
Khi kêu lên các lời của thánh vịnh “Lậy Chúa con lậy Chúa
con, tại sao Chúa bỏ rơi con?”, Chúa Giêsu cầu nguyện trong lúc khước từ cuối
cùng của loài người, trong lúc bị bỏ rơi; tuy nhiên Người cầu nguyện với thánh
vịnh, trong ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa Cha, cả trong giờ Người cảm
thấy thảm cảnh nhân loại của cái chết.
Nhưng chúng ta tự hỏi: làm sao một vì Thiên Chúa quyền năng
như thế, mà lại không can thiệp để kéo Con của Người ra khỏi thử thách kinh
khủng như vậy? Nhưng thật là điều quan trọng phải hiểu rằng tiếng kêu của Chúa
Giêsu không phải là tiếng kêu tuyệt vọng của người sắp đương đầu với cái chết,
cũng không phải là tiếng kêu của người biết mình bị bỏ rơi. Trong lúc đó Chúa
Giêsu lấy toàn thánh vịnh 22 của dân Israel đang khổ đau làm lời cầu của mình:
trong lúc đó Chúa Giêsu không chỉ mang trên mình khổ hình của dân Người, mà
cũng mang khổ hình của tất cả mọi người khổ đau vì áp bức của sự dữ, đồng thời
Người đem tất cả những thứ đó đến với trái tim của chính Thiên Chúa trong xác
tín rằng tiếng kêu của Người sẽ được lắng nghe trong sự phục sinh: “tiếng kêu
của nỗi đớn đau tột cùng cũng đồng thời là sự chắc chắn câu trả lời của Thiên
Chúa, sự chắc chắn của ơn cứu độ, không phải chỉ cho Chúa Giêsu, mà cho “nhiều
người” (Đức Giêsu thành Nagiarét II, tr.239-240).
Lời cầu này của Chúa Giêsu bao hàm sự tin tưởng tột đỉnh và
lòng tín thác trong bàn tay của Thiên Chúa, cả khi xem ra Người vắng mặt, cả
khi xem ra Người ở trong thinh lặng, và đi theo một chương trình mà chúng ta
không thể nào hiểu nổi...
Những người hiện diện dưới thập giá Chúa Giêsu không hiểu
nổi, và họ nghĩ rằng tiếng kêu đó là một lời khẩn cầu ngôn sứ Elia. Họ tìm cách
cho Người đỡ khát để kéo dài sự sống và xem ông Elia có đến cứu Người không,
nhưng một tiếng thét lớn chấm dứt cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu trước sự
nhạo cười của họ. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:
Trong lúc tận cùng Chúa Giêsu để cho con tim của Người diễn
tả nỗi đớn đau, nhưng đồng thời cũng là để làm nổi bật lên ý nghĩa sự hiện diện
của Thiên Chúa Cha và sự đồng ý với chương trình cứu độ nhân loại. Cả chúng ta
nữa cũng luôn luôn đứng trước “ngày hôm nay” của khổ đau, của sự thinh lặng của
Thiên Chúa - biết bao lần chúng ta diễn tả nó ra trong lời cầu nguyện - nhưng
chúng ta cũng đứng trước “ngày hôm nay” của sự phục sinh, của câu trả lời của
Thiên Chúa, là Đấng đã nhận lấy trên mình Người các khổ đau của chúng ta, để
vác các khổ đau ấy cùng với chúng ta, và cho chúng ta niềm hy vọng vững vàng là
chúng sẽ được vượt thắng (Spe salvi,
35-40).
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau rồi cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải