Giáo
Hội Indonesia, Những Cơ Hội và Thách Đố
Với gần 90% dân số theo Hồi giáo tại một
đất nước hơn 260 triệu người, Indonesia là quốc gia có số tín hữu Hồi giáo đông
nhất thế giới. Tuy nhiên, Indonesia không tuyên bố là một quốc gia Hồi giáo.
Văn Yên, SJ –
Vatican 25
tháng sáu 2019, 17:04
Ngày 11
tháng 6 vừa qua, các giám mục Indonesia đã đến Roma để viếng mộ hai thánh Phêrô
và Phaolô và thăm Toà Thánh trong chuyến viếng thăm Ad Limina. Nhân
dịp này, chúng tôi xin gởi đến quý vị một vài nét về Giáo hội Công giáo tại
Indonesia.
Đất
nước Indonesia rộng 1 triệu 900 ngàn kilômét vuông với dân số khoảng 262 triệu
người theo thống kê năm 2017. Xét theo tỉ lệ phần trăm theo tôn giáo thì Hồi
giáo chiếm đa số với 88%, Kitô giáo khoảng 10% trong đó chỉ 3,12% Công giáo. Và
một thiểu số còn lại theo Ấn giáo, Phật giáo và đạo thờ vật linh. Với số tín
hữu Hồi giáo như thế, Indonesia là nước có số người theo Hồi giáo đông nhất thế
giới.
Theo
thống kê năm 2016, số tín hữu Công giáo ở Indonesia khoảng 8 triệu, thuộc 5
giáo tỉnh và 1 giáo hạt quân đội. Chủ tịch HĐGM Indonesia là Đức Cha Ignatius
Suharyo Hardjoatmodjo, TGM giáo phận Jakarta.
Sơ lược
lịch sử
Công
cuộc loan báo Tin Mừng trên quần đảo Indonesia bắt đầu với các tàu buôn của
người Bồ Đào Nha và người Hà Lan vào thế kỷ 16. Năm 1534 những người Bồ Đào Nha
thiết lập việc truyền giáo Công giáo tại đảo Maluku, đến năm 1546, thánh
Phanxicô Xaviê đã viếng thăm các đảo Sulawesi và Maluku. Đến cuối thế kỷ 16, người
Hà Lan đến và truyền giáo Tin lành Calvin.
Công
giáo bị cấm mãi đến đầu thế kỷ 19, các nhà truyền giáo Công giáo mới trở lại.
Sau đó, các sơ Dòng Orsoline mở một ngôi trường ở Jakarta. Các vùng truyền giáo
được giao cho các tu sĩ Dòng Tên. Các sơ dòng Phansinh mở một cô nhi viện tại
Trung Java.
Năm
1897, một cha Dòng Tên, người Hà Lan, Franciscus Georgius Josephus van Lith
(1863 - 1926), thành lập một cứ điểm truyền giáo ở Trung Java. Ngài là một nhà
giáo dục vĩ đại, đã thành lập nhiều trường học từ đó sinh ra những nhân cách
trổi vượt của Indonesia, trong đó có Đức cha Soegijapranata, Dòng Tên, giám mục
bản xứ đầu tiên của đất nước.
Năm
1924, tại Jakarta, lần đầu tiên tất cả các giám mục Indonesia họp nhau.
Trong
những năm Indonesia bị Nhật Bản chiếm đóng (1942-1946), hầu hết các nhà thừa
sai bị cầm tù hoặc đưa đến các trại tập trung. Nhiều người đã chết trong những
trại này.
Đến năm
1950, quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Indonesia được thiết lập. Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI đã viếng thăm Jakarta năm 1970 trong chuyến tông du đến Đông Á
và Châu Đại Dương. Sau đó, ĐGH Gioan Phaolô II cũng đã viếng thăm Indonesia năm
1989. Gần đây nhất, năm 2015, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh đã
viếng thăm chính thức Indonesia và có nhiều hoạt động về đối thoại liên tôn,
cộng tác văn hoá, xuất bản và giáo dục.
Đời
sống Giáo hội
Các
giám mục Indonesia đặc biệt chú ý đến những người trẻ, để họ giữ vai trò chính
trong việc tuyên xưng Chúa Kitô trong xã hội đa văn hóa của Indonesia và trở
nên “tác nhân thay đổi” công lý và hòa bình trên đất nước của họ.
Trong
tinh thần này, các giám mục đã phát động Ngày Giới trẻ Indonesia từ năm 2012,
được tổ chức mỗi 4 năm, quy tụ những người Công giáo trẻ từ khắp nơi của
Indonesia. Chủ đề được chọn cho 2 lần Ngày giới trẻ Indonesia 2012 và 2016 lần
lượt là “100% Công giáo, 100% Indonesia” và “Niềm vui của Tin mừng trong xã hội
đa nguyên Indonesia”. Không chỉ có Ngày giới trẻ quốc gia, Indonesia cũng lần
đầu tiên đăng cai tổ chức Ngày Giới trẻ Châu Á năm 2017.
Cùng
với giới trẻ, các giám mục cũng muốn phát huy vai trò hàng đầu của các gia đình
Công giáo trong việc loan báo Tin Mừng trong xã hội đa nguyên Indonesia. Đây là
kết quả Đại hội Quốc gia của Giáo hội Công giáo Indonesia về gia đình (tại
Sagki 2015) với chủ đề: “Gia đình Công giáo, Tin Mừng của Hy vọng. Ơn gọi và sứ
mạng của gia đình trong Giáo hội và xã hội Indonesia đa nguyên”. Đây cũng là cơ
hội khẳng định sự quan tâm của Giáo hội đối với các vấn đề và đau khổ của các
gia đình Indonesia và tái khẳng định vai trò chủ chốt của gia đình trong xã
hội.
Các
hướng mục vụ của Giáo hội Indonesia được đặt theo chỉ dẫn của Đức Thánh Cha
Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng và mô hình Giáo
hội đi ra, trong bối cảnh phức tạp và đa dạng về tôn giáo, văn hóa và xã
hội. Vì thế, Giáo hội Indonesia tăng cường việc đối thoại liên tôn và thúc đẩy
các sáng kiến bác ái.
Giáo
hội trong xã hội
Sự hiện
diện của Giáo hội Công giáo tại Indonesia là một sự hiện diện thiểu số, nhưng
năng động và đang phát triển. Hiện nay, với hơn 8 triệu tín hữu, tương đương
với chỉ hơn 3% dân số, Giáo hội đang tiếp tục phát triển. Sự hiện diện của
người Công giáo trên đất nước cũng không đồng nhất: một mặt, có các giáo phận
Ende, Ruteni, Atambua và Larantuka thì gần như hoàn toàn là Công giáo, mặt khác
ở thái cực ngược lại, có ít nhất tám giáo phận trong đó cộng đồng Công giáo
không quá 1% dân số.
Mặc dù
chỉ là một số nhỏ, nhưng cộng đồng Công giáo Indonesia là một thực thể sống
động và năng động, với ơn gọi phát triển ở nhiều khu vực khác nhau và các tín
hữu nhận được sự chăm sóc mục vụ một cách đầy đủ. Họ cũng tham gia tích cực vào
đời sống xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước. Một trong những dấu chỉ rõ
ràng nhất của sức sống này đến từ lĩnh vực hoạt động mạnh nhất: đó là giáo dục.
Các trường Công giáo ở Indonesia luôn có được một danh tiếng tuyệt vời và các
sinh viên Hồi giáo cũng theo học tại các trường này.
Với
những đóng góp và được ghi nhận về các hoạt động xã hội, y tế, văn hóa và giáo
dục, tôn trọng các nhóm sắc tộc và văn hóa khác nhau, Giáo hội Indonesia cũng
hiện diện tích cực trong các chủ đề tranh luận của đất nước. Từ việc liên tục
kêu gọi chống lại án tử hình, đến việc phản đối việc hợp pháp hóa phá thai, hay
việc liên tục tố cáo về tham nhũng hoành hành. Giáo hội Indonesia cũng dấn thân
tích cực trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ tích cực các nguyên tắc Pancasila chống
lại mọi chủ nghĩa cực đoan. Các giám mục không làm ngơ trong việc lên tiếng
trước các vấn đề khác nhau của xã hội Indonesia. Đóng góp quan trọng này đã
được nhấn mạnh trong hội nghị toàn thể của HĐGM Indonesia tháng 11 năm 2018,
dành riêng về đề tài ơn gọi của Giáo hội trong đất nước.
Thách
đố giữa tinh thần bao dung và chủ nghĩa cực đoan
Với dân
số hơn 260 triệu người, trong số đó có gần 90% dân số theo Hồi giáo, Indonesia
là quốc gia có số tín hữu Hồi giáo đông nhất thế giới. Dù đa số Hồi giáo, nhưng
Indonesia không tuyên bố là một quốc gia Hồi giáo, nhưng được thành lập dựa
trên Pancasila, năm nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp (đức tin
vào một Thiên Chúa tối cao; công bằng và dân sự; đoàn kết; dân chủ lãnh đạo
bằng sự khôn ngoan; công bằng xã hội) bảo đảm tự do của tất cả mọi người.
Trên
thực tế, xã hội Indonesia là đa tôn giáo, đa sắc tộc và đa văn hóa, đến nỗi
tiêu ngữ của quốc gia là “thống nhất trong đa dạng”, một đặc thù đã góp phần
tạo nên bản chất lịch sử của đạo Hồi ở nước này, vốn luôn được sử dụng để cùng
chung sống trong sự đa nguyên.
Cộng
đồng Công giáo cũng được hưởng nhờ từ tinh thần bao dung này. Điều này được
khẳng định bởi mối quan hệ tốt đẹp giữa Giáo hội và Nhà nước Indonesia, với
quan hệ ngoại giao từ năm 1950 và được đánh dấu bởi hai chuyến viếng thăm của
ĐGH Phaolô VI năm 1970 và của Đức Gioan Phaolô II năm 1989. Hơn nữa, trong thời
gian hiện tại, sự hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục và văn hóa được đẩy mạnh.
Trong số những điều được nhắc đến, sự hòa hợp này là điều được nhấn mạnh trong
chuyến viếng thăm của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh trong chuyến
viếng thăm chính thức Indonesia năm 2015.
Tuy
nhiên, khó khăn và xung đột cũng không thiếu. Các luật lệ khác nhau của hệ
thống pháp luật Indonesia trừng phạt các nhóm thiểu số và vì lý do này, họ cũng
đã bị Giáo hội chỉ trích. Đây là trường hợp của luật lạm dụng về tội báng bổ,
luật về xây dựng nơi thờ phượng (được quy định bởi hai nghị định năm 1969 và từ
năm 2006), thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc tự ý đóng cửa các cơ sở tôn
giáo, và luật hôn nhân, chỉ công nhận giá trị hợp pháp cho các cặp đôi theo
nghi lễ và luật lệ của một tôn giáo duy nhất, do đó cấm kết hôn hỗn hợp. Thêm
vào các quy tắc này là các biện pháp khác nhau được chính quyền địa phương áp
dụng: từ năm 1999, hơn 150 quy định hạn chế mới về tôn giáo đã được đưa ra.
Mối đe
dọa chính đối với hòa bình và hòa hợp tôn giáo đến từ sự truyền bá chủ nghĩa
Hồi giáo cực đoan (cũng được cổ vũ bởi các nhà thuyết giáo nước ngoài), đã làm
cho các cuộc xung đột giáo phái dâng lên ở các khu vực khác nhau của quần đảo,
lộ ra mạng lưới khủng bố địa phương liên kết với al-Qaeda và gần đây là nhà
nước Hồi giáo IS. Các mạng lưới khủng bố này đã tuyên bố chịu trách nhiệm về
nhiều cuộc tấn công đổ máu kể từ đầu những năm 2000.
Nhiều
báo cáo khác nhau, bao gồm cả những báo cáo của Trung tâm nghiên cứu về Hồi
giáo - “Viện Wahid”, cho thấy sự leo thang bạo lực và phân biệt đối xử đối với
các nhóm tôn giáo thiểu số, kể cả đối với Kitô hữu.
Hầu hết
các vi phạm xảy ra ở tỉnh Tây Java, ở Sumatra, tại khu vực đô thị của Jakarta
và ở tỉnh tự trị Aceh. Tỉnh tự trị Aceh là nơi duy nhất luật Hồi giáo Sharia có
hiệu lực và được áp dụng ngày càng khắc khe và độc đoán, nhiều nơi thờ phượng
đã bị đóng cửa, bởi vì chúng “bất hợp pháp”, do áp lực của chủ nghĩa cực đoan
địa phương.
Các hệ
luận của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo đã được đánh dấu tại đảo Maluku trong cuộc
xung đột đẫm máu giữa năm 1999 và 2001 liên quan đến các cộng đồng Kitô giáo
(Tin lành) và Hồi giáo do sự hiện diện của phong trào cực đoan Laskhar
Jihad. Các nhóm Hồi giáo, trong số những người khác, đóng vai trò chính
trong chiến dịch bạo lực chống lại thống đốc Jakarta, ông Basuki Tjahaja
Purnama, là một Kitô hữu gốc Hoa, bị buộc tội báng bổ và do đó bị kết án vào
năm 2017.
Trong
số các nhóm cực đoan năng nổ nhất ở nước này, phải kể đến “Diễn đàn Hồi giáo
Umat” và “Mặt trận Hồi giáo Pembela” hay còn gọi là “Mặt trận của
những người bảo vệ Hồi giáo”. Trước chủ nghĩa cực đoan lan rộng tại nước
này, cũng có một số đáng kể những người Hồi giáo, các nhà lãnh đạo và trí thức
ôn hòa cởi mở để đối thoại. Đây là một dấn thân tích cực được Giáo hội Công
giáo chia sẻ như là một trong những ưu tiên của mình trong việc thúc đẩy đối
thoại liên tôn và các nguyên tắc hòa hợp của Pancasila.