Bài
Giảng Thánh Lễ Tại Sân Vận Động Franso Hariri
Đức
Thánh Cha dâng thánh lễ Chúa Nhật thứ III Mùa Chay tại sân vận động Franso
Hariri với khoảng 10 ngàn người tham dự. Thánh Lễ được cử hành theo nghi lễ
Latinh bằng tiếng Ý, các bài đọc và lời nguyện tín hữu bằng tiếng Canđê địa phương,
tiếng Arập, tiếng Kurd, tiếng Anh.
Bài giảng của Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô
tại sân vận động Franso Hariri ở Erbil
Chủ Nhật, 07/03/2021
Thánh
Phao-lô đã nói với chúng ta rằng “Đức Kitô là quyền năng và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1Cr 1,22-25). Chúa Giê-su đã bày tỏ quyền năng và sự khôn ngoan đó
trên hết bằng lòng thương xót và tha thứ. Ngài không bày tỏ theo cách phô
trương sức mạnh hay bằng cách nói chuyện kiểu trịch thượng với chúng ta, qua
những bài diễn văn dài dòng và uyên bác. Ngược lại, Ngài chọn cách hiến mạng
sống mình trên thập giá. Ngài đã bày tỏ sự khôn ngoan và quyền năng của mình
bằng cách cho chúng ta thấy sự trung thành đến cùng của tình yêu Thiên Chúa
Cha; đó là lòng thành tín của vị Thiên Chúa giao ước, Đấng đã đưa dân Người ra
khỏi ách nô lệ và dẫn dắt họ trong hành trình đến tự do (x. Xh 20, 1-2).
Thật dễ
rơi vào cái bẫy của thứ tư duy rằng chúng ta phải chứng tỏ cho người khác thấy
là chúng ta có quyền năng, rằng ta khôn ngoan, hay cái bẫy của việc tạo ra
những hình ảnh giả tạo về vị Thiên Chúa có thể mang lại cho chúng ta sự an toàn
(x. Xh 20, 4-5). Tuy nhiên, thật sự là tất cả chúng ta cần quyền năng và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa được mặc khải qua Đức Giê-su trên thập giá. Trên đồi
Canvê, Người đã dâng lên Chúa Cha những vết thương mà chỉ nhờ đó chúng ta được
chữa lành (xem 1Pr 2:24). Ở Iraq này, biết bao anh chị em, bạn bè và đồng bào
của các con đang mang vết thương của chiến tranh và bạo lực, những vết thương
hữu hình lẫn vô hình! Chúng ta bị cám dỗ dùng sự khôn ngoan và quyền năng thế
gian để phản ứng lại những điều gây thương tích này và cả những kinh nghiệm đau
khổ khác nữa. Ngược lại, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta con đường của Thiên Chúa,
con đường mà Ngài đã đi, con đường Ngài kêu gọi chúng ta đi theo Ngài.
Trong
bài Tin Mừng vừa nghe (Ga 2,13-25), chúng ta thấy cách Chúa Giêsu đuổi những
người đổi tiền và tất cả những kẻ buôn bán ra khỏi Đền thờ Giêrusalem. Tại sao
Chúa Giê-su lại làm một điều có vẻ bạo lực và khiêu khích như vậy? Ngài làm
điều đó vì Chúa Cha đã sai Ngài đến để thanh tẩy đền thờ: không chỉ là Đền thờ
bằng đá, nhưng trên hết là đền thờ tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu không thể chấp
nhận việc nhà của Cha Người trở thành cái chợ (x. Ga 2,16); Ngài cũng không
muốn tâm hồn chúng ta trở thành nơi bị xáo trộn, rối bời và hỗn loạn. Tâm hồn
chúng ta cần phải được dọn sạch, ngăn nắp và thanh tẩy. Nhưng thanh tẩy khỏi
điều gì? Khỏi những giả dối làm vấy bẩn nó, khỏi những sự giả tạo giả hình. Tất
cả chúng ta đều có những thứ này. Chúng là những căn bệnh gây hại cho tâm hồn,
ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta và khiến chúng ta trở nên thiếu chân
thành. Chúng ta cần phải tẩy sạch những thứ an toàn giả tạo vốn có thể đánh đổi
đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa bằng những thứ chóng qua, bằng những lợi
ích tạm thời. Chúng ta cần quét sạch những cám dỗ tầm thường về quyền lực và
tiền bạc khỏi tâm hồn chúng ta và khỏi Giáo hội. Để làm sạch lòng mình, chúng
ta cần để cho bàn tay mình lấm bẩn, phải thấy mình có trách nhiệm chứ không chỉ
đơn thuần đứng nhìn khi anh chị em của chúng ta đang đau khổ. Làm thế nào để
chúng ta thanh lọc tâm hồn của mình? Chúng ta không thể tự thanh tẩy chỉ bằng
nỗ lực bản thân; chúng ta cần Chúa Giêsu. Ngài có quyền năng để chiến thắng
những điều xấu xa của chúng ta, để chữa lành bệnh tật của chúng ta, để xây dựng
lại đền thờ tâm hồn chúng ta.
Để xác
nhận điều này, và như một dấu hiệu về quyền năng của mình, Chúa Giê-su nói:
“Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại.” (câu
19). Chỉ mình Đức Giê-su Ki-tô có thể tẩy sạch chúng ta khỏi những sự dữ; Ngài
là Đấng đã chết và đã sống lại; Ngài là Thiên Chúa! Anh chị em thân mến, Chúa
không để chúng ta chết trong tội lỗi của mình. Ngay cả khi chúng ta quay lưng
với Ngài, Ngài cũng không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Ngài tìm kiếm chúng ta, chạy
theo chúng ta, để kêu gọi chúng ta ăn năn và để tẩy rửa tội lỗi của chúng ta.
Chúa phán: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi
đường lối để được sống” (Êzêkiel 33:11). Chúa muốn chúng ta được cứu và trở
thành những đền thờ sống động của tình yêu của Ngài, trong tình huynh đệ, trong
sự phục vụ, trong lòng thương xót.
Chúa
Giê-su không chỉ tẩy sạch tội lỗi cho chúng ta, mà còn ban cho chúng ta quyền
năng và sự khôn ngoan của chính Ngài. Ngài giải phóng chúng ta khỏi những quan
niệm hẹp hòi và mang tính chia rẽ về gia đình, về đức tin và cộng đồng, những
quan niệm vốn gây chia rẽ, chống đối và loại trừ nhau, hầu chúng ta có thể xây
dựng một Giáo hội và một xã hội cởi mở với mọi người và quan tâm đến những anh
chị em đang cần chúng ta nhất. Đồng thời, Ngài tăng sức cho ta để chống lại sự
cám dỗ trả thù, thứ chỉ đẩy chúng ta vào vòng xoáy của những cuộc trả đũa vô
tận. Trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài sai chúng ta ra đi, không phải
để cải đạo người khác, mà để sống tư cách người môn đệ của sứ mạng, tức những
người nam, người nữ được kêu mời làm chứng tá rằng Tin Mừng có sức mạnh thay
đổi cuộc sống. Chúa Phục sinh biến chúng ta thành khí cụ của lòng thương xót và
hòa bình của Chúa, thành những nghệ nhân kiên nhẫn và can đảm của một trật tự
xã hội mới. Theo cách này, nhờ quyền năng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần,
những lời tiên tri của Thánh Phao-lô Tông Đồ nói với các tín hữu Cô-rin-tô được
ứng nghiệm: “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người,
và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1: 25).
Các cộng đoàn Ki-tô hữu gồm những người đơn sơ và thấp hèn chính là dấu hiệu
cho thấy vương quốc của Ngài sắp đến, vương quốc của tình yêu, công lý và hòa
bình.
“Các
ông hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga
2,19). Chúa Giê-su đang nói về đền thờ là thân thể Ngài, tức cũng là về Giáo
hội. Chúa hứa với chúng ta rằng, nhờ quyền năng của sự phục sinh, Ngài có thể
xây dựng lại bản thân chúng ta cũng như các cộng đoàn của chúng ta từ những
đống đổ nát do bất công, chia rẽ và hận thù để lại. Đó là lời hứa mà chúng ta
cử hành trong Bí tích Thánh Thể này. Với con mắt đức tin, chúng ta nhận ra sự
hiện diện của vị Thiên Chúa chịu đóng đinh và phục sinh ở giữa chúng ta. Và
chúng ta học cách ôm lấy đức khôn ngoan mang tính giải thoát của Ngài, học cách
nép mình trong vết thương của Ngài, và tìm thấy sự chữa lành và sức mạnh để
phục vụ cho sự xuất hiện của vương quốc Ngài trong thế giới chúng ta. Nhờ những
thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành (xem 1 Phi 2:24). Nơi những vết
thương đó, hỡi anh chị em thân mến, chúng ta tìm thấy sự xoa dịu của tình yêu
thương xót của Ngài. Bởi vì, như người Samari nhân hậu của nhân loại, Ngài muốn
xức dầu cho mọi tổn thương, để chữa lành mọi ký ức đau buồn và truyền cảm hứng
cho một tương lai hòa bình và đầy tình huynh đệ trên mảnh đất này.
Giáo
hội Iraq, nhờ hồng ân Thiên Chúa, đã và đang làm nhiều điều để loan truyền sự
khôn ngoan tuyệt vời này của thập giá, bằng cách truyền bá lòng thương xót và
sự tha thứ của Đức Ki-tô, đặc biệt cho những người cần nhất. Ngay cả trong hoàn
cảnh nghèo đói và khó khăn, nhiều anh chị em đã hào phóng giúp đỡ cách cụ thể
và liên đới với những người nghèo đói và đau khổ. Đó là một trong những lý do
khiến tôi đến đây như một người hành hương ở giữa anh chị em, để cảm ơn và xác
nhận niềm tin và chứng tá của anh chị em. Hôm nay, tôi có thể nhìn thấy và chạm
đến thực tế rằng Giáo hội ở Iraq đang sống, rằng Đức Ki-tô đang sống và đang
hoạt động giữa lòng đoàn dân thánh thiện và trung tín của Ngài ở đây.
Anh chị
em thân mến, tôi phó thác anh chị em, gia đình và cộng đoàn của anh chị em
trong sự bảo vệ từ mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã liên kết với cuộc khổ
nạn và cái chết của Con Mẹ và được chia sẻ niềm vui phục sinh của Người. Xin Mẹ
cầu bầu cho chúng ta và dẫn chúng ta đến với Ngài, Đấng là quyền năng và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa.