BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC PHANXICÔ TRONG THÁNH LỄ VỌNG PHỤC SINH 2022 : NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA ĐƯỢC GỌI LÀ GIÊSU

(xuanbichvietnam.net) - Tháng Tư 18th, 2022.

Thánh lễ Vọng Phục Sinh, hôm 16/4/2022, do Đức Hồng y Giovanni Battista Re chủ tế, trước sự hiện diện của 30 Giám mục, 30 Hồng y, 200 linh mục và đông đảo tu sĩ và giáo dân. Đức Thánh Cha giảng trong thánh lễ này. Ngài mời gọi chúng ta “hãy để các phụ nữ trong Tin Mừng nắm tay chúng ta, để cùng với họ khám phá bình minh của ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trong bóng tối của thế giới”. Các phụ nữ này “nhìn thấy”, “lắng nghe” và “loan báo”. Và “qua ba hành động này, chúng ta cũng bước vào sự Phục Sinh của Chúa”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh và đồng thời nhắc nhớ “niềm hy vọng của chúng ta được gọi là Giêsu”.

Dưới đây là bài giảng do chính Đức Thánh Cha công bố :

Nhiều nhà văn đã gợi lên vẻ đẹp của những đêm đầy sao. Trái lại, những đêm chiến tranh hằn lên những vệt sáng của sự chết. Thưa anh chị em, trong đêm nay, chúng ta hãy để các phụ nữ trong Tin Mừng nắm tay chúng ta, để cùng với họ khám phá bình minh của ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trong bóng tối của thế giới. Khi màn đêm tan dần và ánh bình minh ló dạng, các phụ nữ này đã đi đến mộ để xức dầu cho xác Chúa Giêsu. Và ở đó, họ có một cảm nghiệm đảo lộn : trước tiên, họ khám phá ra ngôi mộ trống ; tiếp đến họ thấy hai nhân vật y phục sáng chói, loan báo cho họ rằng Chúa Giêsu đã phục sinh ; và lập tức họ chạy đi loan báo tin này cho các môn đệ khác (x. Lc 24, 1-10). Họ nhìn thấy, họ lắng nghe, họ loan báo. Qua ba hành động này, chúng ta cũng bước vào sự Phục Sinh của Chúa.

Các phụ nữ nhìn thấy. Lời loan báo đầu tiên về sự Phục Sinh không được diễn tả như một công thức để hiểu, nhưng như một dấu chỉ để chiêm ngắm. Trong một nghĩa trang, gần một ngôi mộ,  nơi mà mọi thứ lẽ ra phải trật tự và yên tĩnh, các phụ nữ « đã nhận thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi họ bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu » (c. 2-3). Do đó, lễ Phục Sinh bắt đầu bằng cách làm đảo lộn các sơ đồ của chúng ta. Nó được đi kèm bằng món quà về một niềm hy vọng đáng ngạc nhiên. Nhưng không dễ dàng đón nhận nó. Đôi khi – chúng ta phải thừa nhận – niềm hy vọng này không tìm thấy chỗ trong tâm hồn chúng ta. Như các phụ nữ trong Tin Mừng, những vấn nạn và nghi ngờ chiếm ưu thế trong chúng ta, và phản ứng đầu tiên của chúng ta trước dấu chỉ bất ngờ này là sợ hãi, « cúi gầm xuống đất » (x. cc. 4-5).

Chúng ta quá thường nhìn cuộc sống và thực tại với đôi mắt cúi gầm xuống đất ; chúng ta chỉ nhìn chằm chằm vào ngày hôm nay đang trôi qua, chúng ta không hứng thú với tương lai, chúng ta khép kín trong những nhu cầu của mình, chúng ta rơi vào tù ngục của sự vô cảm, trong khi tiếp tục phàn nàn và nghĩ rằng mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi. Như thế, chúng ta vẫn bất động trước ngôi mộ của sự cam chịu và thuyết đinh mệnh, và chúng ta chôn vùi niềm vui sống. Tuy nhiên, trong đêm nay, Chúa muốn ban cho chúng ta những đôi mắt khác, được soi sáng bởi niềm hy vọng rằng nỗi sợ hãi, đau đớn và sự chết sẽ không có tiếng nói cuối cùng trên chúng ta. Nhờ sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhảy vọt từ cõi hư vô đến sự sống, « và sự chết sẽ không còn có thể cướp đi sự hiện hữu của chúng ta nữa » (K. Rahner, Cosa significa la Pasqua, Brescia 2021, tr. 28) : nó đã được hoàn toàn và mãi mãi ôm lấy bởi tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Đúng là nó có thể làm chúng ta sợ hãi và tê liệt. Nhưng Chúa đã phục sinh ! Chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên, hãy vén bức màn cay đắng và buồn bã khỏi đôi mắt của chúng ta, hãy mở ra cho niềm hy vọng của Thiên Chúa !

Thứ hai, các phụ nữ lắng nghe. Sau khi họ thấy mồ trống, hai người đàn ông y phục sáng chói đã nói với họ : “Tại sao các bà lại tìm Đấng Hằng Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn ở đây nữa, Người đã phục sinh” (c. 5-6). Thật tốt khi chúng ta nghe và lặp lại những lời này : Người không còn ở đó nữa ! Mỗi lần chúng ta có tham vọng hiểu được mọi sự về Thiên Chúa, có thể khiến Ngài đi vào các sơ đồ của chúng ta, thì chúng ta hãy lặp lại : Người không còn ở đó nữa ! Mỗi lần chúng ta chỉ tìm kiếm Ngài trong cảm xúc, rất thường là thoáng qua, hay trong một thời điểm nhu cầu nào đó, để tiếp đến gạt Ngài sang một bên và quên mất Ngài trong các hoàn cảnh cụ thể và những lựa chọn hằng ngày, thì chúng ta hãy lặp lại : Người không còn ở đó nữa ! Và khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta giam Ngài trong các lời nói của  chúng ta, trong các công thức và các thói quen của chúng ta, nhưng chúng ta quên tìm kiếm Ngài nơi những góc tối nhất của cuộc sống, nơi có những người đang khóc, đang đấu tranh, đang đau khổ và hy vọng, thì chúng ta hãy lặp lại điều này : Người không còn ở đó nữa !

Chúng ta cũng hãy lắng nhe câu hỏi được đặt ra cho các phụ nữ : « Tại sao các bà tìm kiềm Đấng Hằng Sống ở giữa kẻ  chết ? ». Chúng ta không thể cử hành lễ Phục Sinh nếu chúng ta tiếp tục ở lại trong sự chết ; nếu chúng ta tiếp tục là tù nhân của quá khứ ; nếu trong đời sống chúng ta không có can đảm để cho bản thân được Thiên Chúa tha thứ, Đấng tha thứ tất cả, can đảm thay đổi, đoạn tuyệt với những việc làm của sự dữ, quyết định theo Chúa Giêsu và tình yêu của Người ; nếu chúng ta tiếp tục giảm thiểu đức tin thành một bùa hộ mệnh, biến Thiên Chúa thành một kỷ niệm đẹp của quá khứ, thay vì gặp gỡ Ngài hôm nay như vị Thiên Chúa hằng sống, Đấng muốn biến đổi chúng ta và biến đổi thế giới. Một Kitô giáo tìm kiếm Chúa ở giữa các di tích của quá khứ và nhốt Ngài trong ngôi mộ của thói quen là một Kitô giáo không có lễ Phục Sinh. Nhưng Chúa đã phục sinh ! Chúng ta đừng kề cà quanh các ngôi mộ, nhưng hãy đi khám phá lại Ngài, là Đấng Hằng  Sống ! Và cũng đừng sợ tìm kiếm Ngài nơi các khuôn mặt của anh chị em chúng ta, trong câu chuyện của người người hy vọng và ước mơ, trong nỗi đau đớn của những người than khóc và đau khổ : Thiên Chúa ở đó !

Cuối cùng, các phụ nữ loan báo. Họ loan báo gì ? Niềm vui về sự Phục Sinh. Lễ Phục Sinh không đến để an ủi tâm hồn những ai than khóc cái chết của Chúa Giêsu, nhưng để mở rộng lòng họ cho việc loan báo đặc biệt về cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên sự dữ và sự chết. Vì thế, ánh sáng của sự Phục Sinh không muốn giữ các phụ nữ trong sự ngây ngất vui sướng cá nhân, nó không chịu những thái độ tĩnh tại, nhưng sinh ra những môn đệ truyền giáo “từ mộ trở về” (x. c. 9) và mang đến cho mọi người Tin Mừng về Đấng Phục Sinh. Đó là lý do tại sao, sau khi đã thấy và đã nghe, các phụ nữ đã chạy đi loan báo cho các môn đệ niềm vui về sự Phục Sinh. Họ biết rằng người ta có thể coi họ là những người điên, đến độ Tin Mừng nói rằng “lời của họ có vẻ là hoang tưởng” (c. 11), nhưng họ không bận tâm đến thanh danh của mình, bảo vệ hình ảnh của mình ; họ không so đo tình cảm, không tính toán lời nói của mình. Trong lòng họ chỉ có ngọn lửa để đưa tin, để loan báo : “Chúa đã phục sinh !”.

Thật đẹp biết bao, một Giáo hội chạy như thế trên các nẻo đường của thế giới ! Không sợ hãi, không chiến thuật và không cơ hội chủ nghĩa ; chỉ với mong muốn mang lại cho mọi người niềm vui của Tin Mừng. Đó là điều mà chúng ta được mời gọi : cảm nghiệm về Chúa Phục Sinh và chia sẻ kinh nghiệm đó với người khác ; lăn tảng đá khỏi mộ, trong đó chúng ta thường niêm phong Chúa, để loan truyền niềm vui của Người cho thế giới. Chúng ta hãy làm cho Chúa Giêsu, Đấng Hằng Sống, sống lại khỏi những ngôi mộ mà chúng ta đã nhốt Người ; hãy giải thoát Người khỏi những thủ tục mà chúng ta thường giam cầm Người ; hãy thức tỉnh khỏi giấc ngủ của cuộc sống yên hàn mà đôi khi chúng ta đã kéo dài nó, để nó không quấy rầy và gây bất biện cho chúng ta nữa. Hãy đưa Người vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta : bằng những cử chỉ của hòa bình trong thời kỳ được đánh dấu bằng sự khủng khiếp của chiến tranh ; bằng những công việc hòa giải trong các mối tương quan bị phá vỡ và những công việc trắc ẩn đối với những người nghèo túng ; bằng những hành động công bằng giữa những bất bình đẳng và những hành động chân lý giữa những dối trá. Và, nhất là, bằng những công việc yêu thương và tình huynh đệ.

Thưa anh chị em, niềm hy vọng của chúng ta được gọi là Giêsu. Người đã bước vào ngôi mộ tội lỗi của chúng ta, Người đã đạt tới điểm xa nhất mà chúng ta bị lầm lạc, Người đã bước đi trong những nỗi sợ hãi rối mù của chúng ta, Người đã gánh vác sức nặng của những ngột ngạt của chúng ta và, từ sâu thẳm tối tăm nhất của cái chết của chúng ta, Người đã đánh thức chúng ta đến sự sống và biến đổi tang tóc của chúng ta thành vũ điệu. Chúng ta hãy cử hành lễ Phục Sinh với Chúa Kitô ! Người đang sống và hôm nay nữa, vẫn vượt qua, biến đổi và giải thoát. Cùng với Người, sự dữ không còn quyền lực nữa, sự thất bại không còn có thể ngăn cản chúng ta bắt đầu lại, cái chết trở thành một cuộc vượt qua hướng đến khởi đầu của một đời sống mới. Bởi vì cùng với Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, không có đêm tối nào là vô tận ; và ngay cả trong bóng tối dày đặc nhất, trong bóng tối này ngôi sao mai vẫn chiếu sáng.

Trong bóng tối mà quý vị đang sống này, thưa ngài Thị trưởng, quý ông và quý bà Nghị sĩ, bóng tối đen tối của chiến tranh, của sự tàn ác, tất cả chúng ta cùng cầu nguyện, chúng tôi cầu nguyện với quý vị và cho quý vị đêm nay. Chúng tôi cầu nguyện cho biết bao đau khổ. Chúng tôi chỉ có thể mang lại cho quý vị tình bằng hữu của chúng tôi, lời càu nguyện của chúng tôi và nói với quý vị : “Hãy can đảm lên ! Chúng tôi đồng hành với quý vị !”. Và  cũng nói với quý vị điều vĩ đại nhất mà  chúng ta cử hành hôm nay : Chúa Kitô đã phục sinh !

——————————

Tý Linh chuyển ngữ (nguồn : vatican.va)

 


Tin Tức Giáo Hội - Tháng 4, 2022