Ngày
09.10.2022 Đức Thánh Cha Tôn Phong Hai Hiển Thánh Mới
G. Trần Đức
Anh, O.P. | RVA 09/10/2022
Lúc gần
10 giờ sáng, Chúa nhật mùng 09 tháng Mười năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã
chủ sự thánh lễ trọng thể tại Quảng trường thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong
hai vị chân phước lên bậc hiển thánh. Đây là lễ phong thánh thứ hai và lễ cuối
cùng ngài cử hành trong năm nay. Lần đầu là lễ phong mười vị hiển thánh Chúa
nhật, ngày 15 tháng Năm.
Trên
mặt tiền Đền thờ, có treo hình hai vị thánh mới trên hai tấm thảm hình lớn.
Hiện
diện trong buổi lễ có hơn 30.000 tín hữu thập phương. Đồng tế với Đức Thánh cha
có 20 hồng y và 50 giám mục, và gần 400 linh mục, trong đó có nhiều vị thuộc
dòng thánh Scalabrini và Don Bosco. 180 linh mục và phó tế đảm nhận việc trao
Mình Thánh Chúa cho các tín hữu rước lễ. Trong số các tín hữu hiện diện cũng có
nhiều tu sĩ nam nữ người Việt thuộc hai dòng liên hệ.
Nghi thức phong thánh
Nghi
thức phong thánh diễn ra vào đầu thánh lễ. Sau lời chào phụng vụ của Đức Thánh
cha, mọi người hát kinh cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến, rồi Đức Hồng y
Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tiến lên trước Đức Thánh cha,
cùng với hai linh mục thỉnh nguyện viên của các án phong, và thưa rằng: “Hội
Thánh xin Đức Thánh cha ghi tên vào sổ bộ các thánh hai vị chân phước và để mọi
Kitô hữu kêu cầu các ngài như những vị thánh.”
Sau khi
xướng danh các vị, Đức Hồng y Semeraro lần lượt tóm tắt tiểu sử của hai vị:
Gioan Baotixita Scalabrini sinh
ngày 08 tháng Bảy năm 1839 tại tỉnh Como, bắc Ý, con thứ ba trong gia đình tám
người con, năm trai ba gái. Năm 1857, khi được 18 tuổi, Gioan gia nhập chủng viện
và thụ phong linh mục năm 1863, khi được 24 tuổi. Cha muốn đi làm thừa sai
nhưng Đức giám mục bản quyền không cho phép và bổ nhiệm tân linh mục làm giáo
sư tiểu chủng viện Como, đồng thời làm giám thị và phó giám đốc tại đây.
Năm
1870, cha Scalabrini được bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ thánh Bartolomeo, ở ngoại
ô thành Como. Quan tâm đầu tiên của cha là tổ chức lại các trường giáo lý để
huấn luyện các giáo lý viên chu đáo hơn, và cha soạn thủ bản cho họ. Cha cũng
thường viếng thăm các bệnh nhân và người già, lập một hội để giúp đỡ họ, đồng
thời cũng lập một nhà trẻ và một hội sinh hoạt cho các nam thiếu niên. Và đứng
trước tình trạng khó khăn của các nông dân và thợ thuyền, cha gợi ý thành lập
một hội tương trợ và dấn thân tìm công ăn việc làm cho những người mất việc.
Cha chạy đến cả những nhà công nghệ xin giúp đỡ trong lãnh vực này.
Mới làm
cha sở được 5 năm, cha Scalabrini được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo
phận Piacenza ngày 30 tháng Giêng năm 1876, lúc mới 36 tuổi. Đức cha ở lại
nhiệm sở này gần 30 năm trời cho đến khi qua đời.
Trong
thời gian dài làm chủ chăn tại Piacenza, Đức cha Scalabrini đã viết nhiều bài
báo về bao nhiêu vấn đề thời đó, phản ánh thực trạng tôn giáo, xã hội và chính
trị tại Ý thời đó.
Vốn là
người tinh tế quan sát và giải thích thực tại con người đồng thời, Đức cha
Scalabrini thành lập một viện câm điếc, một tổ chức trợ giúp các nữ công nhân
nông nghiệp, một hội tương trợ và quỹ nông thôn.
Tuy
nhiên, ký ức về Đức cha Scalabrini đặc biệt gắn liền với những giải pháp mục vụ
sáng suốt cho người di dân. Đức cha đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người Ý di
cư. Ngài thành lập một tu hội linh mục hoàn toàn lo việc săn sóc tinh thần cho
đông đảo người Ý di cư tại Mỹ. Đó là dòng thừa sai thánh Carlo. Về sau ngài
thành lập thêm tu hội nữ thừa sai thánh Carlo.
Đức cha
Scalabrini được phong chân phước ngày 09 tháng Mười Một năm 1997. Gia sản của
Đức cha Scalabrini ngày nay vẫn là các thừa sai nam nữ thánh Carlo: khoảng 650
năm tu sĩ đang hoạt động tại 34 quốc gia năm châu. Tiếp đến là khoảng 550 nữ
thừa sai thánh Carlo. Từ lâu các tu sĩ của hai dòng này không giới hạn hoạt
động vào những người Ý di cư, nhưng giúp đỡ những người di cư thuộc đủ mọi quốc
tịch trên thế giới.
Tu huynh Artemide Zatti sinh
năm 1880 trong một gia đình nông dân nghèo ở Boreto, bắc Ý. Năm 1897, khi được
17 tuổi, Artemide theo gia đình di cư tới miền Bahía Bianca bên Argentina.
Năm 20
tuổi, anh muốn gia nhập dòng ở Bernal, gần thủ đô Buenos Aires. Tại đó, có một
tu sĩ Don Bosco trẻ tuổi bị bệnh lao phổi, và Artemide tình nguyện săn sóc,
nhưng tu sĩ ấy đã bị bệnh quá nặng nên qua đời sau đó. Artemide cũng bị lây
bệnh lao phổi và được gửi đi dưỡng bệnh tại Viedma, nơi dòng Don Bosco có một
bệnh xá và một tiệm thuốc tây. Artemide giúp cha Evasio Garrone tại nhiệm sở
này.
Một hôm,
cha Evasio Garrone gợi ý với Armetide hãy cầu xin Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu cứu
giúp và nói: “Nếu Đức Mẹ chữa con lành bệnh, con hãy hiến trọn cuộc đời cho các
bệnh nhân này”. Thầy Armetide Zatti hăng hái hứa như vậy và được khỏi bệnh một
cách lạ lùng và thầy giữ lời hứa. Năm 1908, khi được 28 tuổi, thầy tuyên khấn
lần đầu, và ba năm sau đó khấn trọn đời.
Năm
1913, cha Garrone qua đời, và thầy Zatti đảm trách tiệm thuốc thánh Phanxicô và
bệnh xá thánh Giuse. Thầy tận tụy và vui tươi giúp đỡ người nghèo và các bệnh
nhân. Việc phục vụ của thầy không giới hạn tại nhà thương, nhưng mở rộng ra cả
thành phố. Trong những trường hợp cần thiết, thầy di chuyển ngày cũng như đêm,
tới bất kỳ khu xóm tồi tàn ở ngoại ô thành Viedma, và giúp đỡ các bệnh nhân
miễn phí. Tiếng tăm của thầy y tá thánh thiện lang rộng cả miền nam Argentina
và từ miền Patagonia, cực nam của Argentina, cũng có các bệnh nhân tới xin thầy
giúp đỡ. Thầy yêu mến các bệnh nhân một cách đặc biệt, nhìn thấy Chúa Giêsu nơi
họ. Thầy chu toàn các công tác này với tinh thần hy sinh cao độ, không biết mệt
mỏi.
Thầy
Zatti là một người rất dễ tiếp xúc, đầy thiện cảm và vui mừng vì có thể giao
tiếp với những người dân khiêm hạ. Nhưng đặc biệt thầy là một người của Chúa.
Một bác sĩ ở nhà thương, không có đức tin mạnh, nói rằng: “Khi tôi thấy thầy
Zatti, thì sự cứng lòng tin của tôi bị lay chuyển”. Một người khác nói: “Tôi
tin nơi Thiên Chúa từ khi tôi được quen biết thầy Zatti”.
Năm
1950, thầy Zatti đột nhiên cảm thấy mình già nua và bệnh tật. Thầy đau nhói ở hông
bên trái và kéo dài như vậy. Thầy biết rõ đó là bệnh ung thư tụy tạng và trấn
an mọi người: “Xin anh chị em đừng vất vả làm chi, vì không có thuốc chữa đâu”.
Thầy còn tiếp tục nhiệm vụ thêm một năm nữa.
Thầy
Artemide Zatti qua đời ngày 15 tháng Ba năm 1951, trong sự tỉnh táo hoàn toàn,
giữa sự quí mến và biết ơn của dân chúng. Thầy hưởng thọ 71 tuổi. Thầy được Đức
Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 14 tháng Tư năm 2002.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong
bài giảng sau các bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa, Đức Thánh cha đã quảng
diễn bài Tin mừng theo thánh Luca (17), thuật lại sự tích 10 người phong cùi
kêu xin Chúa Giêsu cứu giúp. Tất cả đều được chữa lành, nhưng chỉ có một người
trở lại lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa, và đó lại là một người Samaritano, một
người “lạc đạo” (Lc 17,15).
Đức
Thánh cha nhận xét rằng: Mười người phong cùi tiến bước chung với nhau, không
phân biệt giữa người Samaritano với chín người khác. Bệnh phong cùi không phải
chỉ là bệnh thể lý, nhưng cũng là một thứ bệnh xã hội, vì thời đó họ phải ở
ngoài cộng đoàn, không được vào những khu dân cư. Cả người Samaritano vốn bị
coi là “rối đạo” cũng ở chung với những người khác. “Bệnh tật và tình trạng
mong manh chung làm đổ những hàng rào và vượt lên trên mọi sự loại trừ”.
Đồng hành với người khác
Đức
Thánh cha nói: “Đây là một hình ảnh đẹp đối với cả chúng ta: nếu thành thực với
chính mình, chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đều là những người bị bệnh trong
tâm hồn, tất cả đều là những người tội lỗi, cần lòng thương xót của Chúa Cha.
Và chúng ta ngưng chia rẽ nhau dựa trên công trạng, vai trò chúng ta đảm trách;
những bức tường nội tâm, những thành kiến sẽ sụp đổ, và như thế, sau cùng chúng
ta khám phá mình là anh chị em với nhau”.
“Chúng
ta hãy nhớ điều này: đức tin Kitô luôn đòi chúng ta đồng hành với những người
khác, không bao giờ là những người tiến bước đơn độc; đức tin luôn đòi chúng ta
ra khỏi bản thân để tiến về Thiên Chúa và về anh chị em, không bao giờ chia rẽ
chúng ta với nhau, luôn đòi chúng ta nhìn nhận mình là những người cần được
chữa lành và tha thứ, và vì cùng chia sẻ sự giòn mỏng của người ở cạnh chúng
ta, không cảm thấy mình cao trọng hơn nhau”.
Áp dụng vào cuộc sống thường nhật
Và Đức
Thánh cha nhắc nhở rằng: “Anh chị em, chúng ta hãy kiểm chứng xem trong đời
sống chúng ta, trong gia đình, tại những nơi làm việc và gặp gỡ nhau mỗi ngày,
chúng ta có khả năng đồng hành với những người khác, lắng nghe, vượt thắng cám
dỗ tự đóng khung mình trong thái độ tự tham chiếu và chỉ nghĩ đến những nhu cầu
của chúng ta hay không.”
Cộng đoàn cởi mở không loại trừ ai
“Nhưng
đồng hành với nhau cũng là ơn gọi của Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi xem chúng
ta có thực sự là những cộng đoàn cởi mở và bao gồm đối với tất cả mọi người hay
không; chúng ta có làm việc chung được với nhau, linh mục và giáo dân, để phục
vụ Tin mừng hay không; chúng ta có một thái độ đón tiếp không những bằng lời
nói nhưng bằng những cử chỉ cụ thể, đối với người ở xa và với tất cả mọi người
đến gần chúng ta hay không... Chúng ta có làm cho họ cảm thấy là thành phần của
cộng đoàn hay là chúng ta loại trừ họ?”
Đức
Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi sợ khi thấy những cộng đoàn Kitô phân chia thế
giới thành những người tốt và những người xấu, thánh thiện và tội lỗi: như thế
rốt cuộc ta cảm thấy mình tốt hơn những người khác và đẩy ra ngoài bao nhiêu
người mà Thiên Chúa muốn ôm lấy họ. Xin anh chị em hãy luôn bao gồm trong Giáo
hội cũng như trong xã hội, đang còn nhiều chênh lệch và tình trạng gạt ra ngoài
lề”.
Lòng biết ơn
Đức
Thánh cha cũng nhắc đến thái độ biết ơn của người Samaritano sau khi được lành
bệnh và nhận xét rằng: “Đó cũng là một bài học lớn cho chúng ta, là những người
hằng ngày được hưởng các ơn của Thiên Chúa, nhưng thường thường chúng ta đi
đường của mình mà quên vun trồng một tương quan sinh động với Chúa. Đó là một
thứ bệnh tinh thần xấu xa: coi mọi sự là điều dĩ nhiên, cả đức tin và tương
quan của chúng ta với Thiên Chúa, đến độ trở thành những Kitô hữu không còn
biết ngạc nhiên nữa, không biết nói “cám ơn”, không còn biết nhận ra những kỳ
công của Thiên Chúa nữa.
Gương hai vị hiển thánh
Đề cập
đến hai vị hiển thánh được tôn phong, Đức Thánh cha nói rằng: “Hai vị nhắc nhớ
chúng ta về điều quan trọng là đồng hành với nhau và biết cám ơn.
Đức giám mục Scalabrini, - đã
thành lập dòng chăm sóc những người xuất cư -, đã khẳng định rằng khi đồng hành
với những người xuất cư, không cần chỉ nhìn những vấn đề nhưng cần nhìn cả
những ý định của Chúa Quan Phòng. Thánh nhân nói: “Chính nhờ những cuộc di cư
do những bách hại, Giáo hội đã vượt lên trên các ranh giới Jerusalem và Israel
để trở thành “công giáo”; nhờ những cuộc di cư ngày nay, Giáo hội sẽ là dụng cụ
hòa bình và hiệp thông giữa các dân tộc” (L’emigrazione degli operai italiani,
Ferrara 1899). Đức cha Scalabrini đã nhìn xa, nhìn về đằng trước, về một thế
giới và một Giáo hội không biên giới, không có người ngoại quốc.
Về phần Tu huynh Salesien Artemide Zatti, người
là một tấm gương sinh động về lòng biết ơn: sau khi được khỏi bệnh lao phổi, đã
hiến trọn cuộc đời để làm ơn cho những người khác, chữa lành các bệnh nhân với
lòng yêu thương và dịu dàng. Người ta kể là đã thấy thầy vác thi thể của một
người bệnh nhân trên vai. Đầy lòng biết ơn vì những gì đã lãnh nhận, thầy muốn
nói lời “cám ơn” khi đảm nhận các vết thương của người khác”.
“Chúng
ta hãy cầu nguyện để những người anh thánh thiện này giúp chúng ta cùng bước đi
với nhau, không có những bức tường chia rẽ; hãy vun trồng tâm tình cao thượng
rất đẹp lòng Chúa là tâm tình biết ơn”.
Lời cuối lễ
Cuối
thánh lễ, khoảng 11 giờ 45, Đức Thánh cha đã chủ sự kinh Truyền tin với cộng
đoàn. Số người tại quảng trường lúc này lên tới 60.000 người.
Trước
khi đọc kinh, Đức Thánh cha chào thăm tất cả các hồng y, giám mục, linh mục,
các tu sĩ nam nữ, đặc biệt là các nam nữ thừa sai thánh Carlo Borromeo và các
tu huynh Salesien Don Bosco. Ngài không quên chào thăm các phái đoàn chính
thức.
Và ngài
nói thêm rằng: “Hôm nay tại Fabriano, có lễ phong chân phước cho nữ tu Maria
Costanza Panas, đan sĩ dòng thánh Clara Capuxin, sống tại Đan viện Fabriano, từ
năm 1917 đến năm 1963 khi về trời. Chị đón tiếp những người đến gõ cửa Đan
viện, chiếu tỏa nơi mọi người sự thanh thản và tín thác. Trong những năm cuối
đời, khi bị bệnh nặng, chị dâng những đau khổ để cầu nguyện cho Công đồng chung
Vatican II, mà ngày 11 tháng Mười này, chúng ta kỷ niệm 60 năm khai mạc. Xin
chân phước Maria Costanza giúp chúng ta luôn tín thác nơi Thiên Chúa và đón
tiếp tha nhân.
Học bài học của quá khứ
Đức
Thánh cha cũng nói rằng: “Về việc khai mạc Công đồng chung Vatican II cách đây
60 năm, chúng ta không thể quên nguy cơ chiến tranh hạt nhân bấy giờ cũng đang
đe dọa thế giới. Tại sao không học bài học lịch sử? Hồi đó cũng có những xung
đột và căng thẳng lớn, nhưng rồi người ta đã chọn con đường hòa bình.”
Trong
Kinh thánh có ghi rằng: “Chúa phán: “Các ngươi hãy dừng lại trên đường và hãy
nhìn, hãy tìm hiểu những con đường quá khứ, để xem đâu là con đường đúng cần
theo, như thế các ngươi sẽ tìm được hòa bình cho cuộc sống của các ngươi” (Ger
6,16).
Cầu cho dân Thái Lan
Rồi Đức
Thánh cha nói: “Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân của hành động bạo lực điên rồ
xảy ra cách đây ba ngày, 06 tháng Mười, tại Thái Lan. Tôi xúc động phó thác cho
Cha của sự sống, đặc biệt các em bé và gia đình các em”.
Giờ
đây, chúng ta hãy hướng về Đức Trinh Nữ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta trở thành
những chứng nhân Tin Mừng, noi gương các thánh”.
Rồi Đức
Thánh cha xướng kinh Truyền tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người.