Tiếp
Kiến Chung Của Đức Thánh Cha: Các Đan Sĩ Là Con Tim Sống Động Của Việc Loan Báo
Tin Mừng
Photo:
Vatican Media
G. Trần Đức
Anh, O.P. | RVA 26/04/2023
Sáng
thứ Tư, ngày 26 tháng Tư vừa qua, gần 40.000 tín hữu đã tham dự cuộc gặp gỡ với
Đức Thánh cha Phanxicô tại Quảng trường thánh Phêrô, dưới trời nắng. Ngài vẫn
giữ thói quen đi xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu trước
khi bắt đầu buổi tiếp kiến.
Như
thường lệ, buổi tiếp kiến mở đầu với phần lắng nghe Lời Chúa: mọi người nghe
một đoạn ngắn, trích từ sách Ngôn sứ Isaia đoạn 53 (11-12):
“Người công chính, tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người
trở nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn
người làm gia sản […] bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội
nhân”; nhưng thực ra nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ
tội lỗi”.
Bài giáo lý
Trong
bài huấn dụ tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài giáo lý về “sự hăng say
loan báo Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của tín hữu”, Bài thứ mười hai này
có tựa đề: “Các chứng nhân: đời sống đan tu và sức mạnh của sự chuyển cầu.
Gregorio Narek”.
Mở đầu
bài huấn dụ, Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Chúng
ta tiếp tục loạt bài giáo lý liên quan đến các chứng nhân về lòng nhiệt thành
tông đồ. Chúng ta đã bắt đầu từ thánh Phaolô và tuần vừa qua chúng ta đã bàn
đến các vị tử đạo, loan báo Chúa Giêsu bằng cuộc sống, đến độ dâng hiến mạng
sống cho Chúa và Tin mừng. Nhưng có một chứng tá lớn khác trong lịch sử đức
tin: chứng tá của các đan sĩ nam nữ, những anh chị em, đã từ bỏ bản thân và thế
gian để noi theo gương Chúa Giêsu trên con đường thanh bần, khiết tịnh và vâng
phục và để chuyển cầu cho tất cả mọi người.
Tầm quan trọng của đời đan tu
Chính
cuộc sống của các vị đã nói lên ý nghĩa, nhưng chúng ta có thể tự hỏi: làm sao
những người sống trong đan viện có thể giúp đỡ việc loan báo Tin mừng? Phải
chăng tốt hơn, họ nên dùng năng lực của mình vào sứ mạng truyền giáo? Trong
thực tế, các đan sĩ là con tim sống động của việc loan báo: kinh nguyện của họ
là dưỡng khí cho toàn thể các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô, là sức mạnh vô hình
nâng đỡ công cuộc truyền giáo. Không phải tình cờ mà vị bổn mạng của các xứ
truyền giáo là một nữ đan sĩ, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chúng ta hãy nghe
cách thức thánh nữ khám phá ơn gọi của mình:
“Tôi đã
hiểu rằng Giáo hội có một con tim, một con tim nồng cháy tình yêu. Tôi hiểu
rằng chỉ có tình yêu mới thúc đẩy các chi thể của Giáo hội đi tới hành động và
nếu tình yêu ấy tắt lịm, thì các tông đồ sẽ không còn loan báo Tin mừng nữa,
các vị tử đạo sẽ không đổ máu đào của mình nữa. Tôi đã hiểu và biết rằng tình
yêu tự nó bao gồm tất cả mọi ơn gọi [...]. Vì thế, với tất cả sự vui mừng và
ngất trí trong tâm hồn, tôi thốt lên: Ôi, lạy Chúa Giêsu, tình yêu của con, sau
cùng con đã tìm được ơn gọi của con. Ơn gọi của con là tình yêu. [...] Trong
con tim của Giáo hội, là mẹ của con, con sẽ là tình yêu” (Thủ bản tự thuật ‘B’,
8-9-1896).
Thánh Gregorio Narek
Tình
yêu này đối với tất cả mọi người linh hoạt toàn thể cuộc sống của các đan sĩ
được biểu lộ trong kinh nguyện chuyển cầu của các vị. Về điểm này, tôi muốn đề
nghị với anh chị em một mẫu gương là thánh Gregorio Narek, Tiến sĩ Hội thánh.
Ngài là một đan sĩ người Armeni, đã sống vào khoảng năm 1000, để lại cho chúng
ta một cuộc sách kinh, trong đó có tràn đầy niềm tin của dân tộc Armeni, dân
tộc đầu tiên đã đón nhận Kitô giáo; một dân tộc, gắn chặt với thập giá của Chúa
Kitô, đã chịu đau khổ qua dòng lịch sử. Thánh Gregorio đã trải qua trong đan
viện Narek hầu như cả đời. Tại đó, ngài học dò xét sự sâu thẳm của tâm hồn con
người, và liên kết thơ văn và kinh nguyện, đã đánh dấu tột đỉnh văn chương cũng
như linh đạo Armeni.
Chia sẻ vận mệnh của người đời
Khía
cạnh gây ấn tượng mạnh nhất nơi thánh nhân chính là tình liên đới đại đồng mà
ngài diễn giải. Ngài chia sẻ vận mạnh của mọi người và dành cuộc sống để chuyển
cầu cho họ. Thánh nhân viết: “Tôi mang trong mình toàn thể trái đất, tôi là đại
diện của toàn thế giới để dâng kinh nguyện của họ”. Ngài tự định nghĩa là
“người dâng kinh nguyện của toàn thế giới” (Sách Ai Ca, 28). Ngài sống kết hiệp
với tất cả và khẩn cầu lòng thương xót cho mọi người” (Xc ibid. 32), đi từ
những lầm than của con người mà thánh nhân không thấy nơi những người khác,
nhưng trước tiên thấy nơi chính mình. Ngài nói: “Tôi tự nguyện vác lấy tất cả
những tội lỗi, từ tội lỗi của người cha đầu tiên đến những người cuối cùng
trong dòng dõi và tôi coi mình là người chịu trách nhiệm” (ibid.,72). Ngài
khóc, ngoài tội của mình, nhưng cả những tội của tất cả mọi người. Cầu nguyện
trong nước mắt nảy sinh từ một tâm hồn cảm thương. Như thế, ý thức và tham gia
vào nhu cầu cứu độ tất cả mọi người, chúng ta đồng hóa đặc biệt với những người
rốt cùng, những người yếu đuối và tội lỗi để chuyển cầu cho họ (Xc ibid.31.47).
Chúng ta gánh lấy tội của tất cả mọi người để khẩn xin ơn tha thứ và chữa lành,
trong tư cách là người anh em của tất cả mọi người. Chúng ta làm như vậy đối
với cả những kẻ thù, cầu nguyện thế này: “[Lạy Chúa], xin nhớ đến những người,
trong dòng dõi nhân loại, là kẻ thù của chúng con, nhưng vì thiện ích của họ,
xin Chúa ban ơn tha thứ và thương xót họ” (ibid., 83).
Trình bày lên Chúa những đau khổ và nhu cầu
Ngoài
ra, đối với thánh Gregorio Narek, cầu xin mà thôi thì chưa đủ, điều quan trọng
là xin cách nào. Thánh nhân liệt kê tỉ mỉ những lo âu, nhu cầu, tội lỗi: để
lòng Chúa thương xót xóa bỏ những điều ấy, ngài trình bày chi tiết những lầm
than của con người. Và thánh nhân tranh đấu với Chúa, thưa với Chúa rằng: “Đối
với Chúa, đánh tan những lầm than ấy thật là dễ dàng, điều mà cánh tay phải run
rẩy của con không vẽ được! Vì thế, con mô tả chúng không bỏ sót điều gì, để
Chúa là Đấng Phúc Lành, quảng đại xóa bỏ những lầm than ấy” (ibid. 28). Qua đó
vị thánh đan sĩ dạy chúng ta không phải chuyển cầu một cách vội vã, nhưng trình
bày cho Chúa những tình cảnh, những câu chuyện, lo âu, các vấn đề. Thánh nhân
dạy chúng ta sốt sắng trong việc lôi kéo lòng thương xót trên thế giới, mời gọi
chúng ta cầu nguyện cho người không cầu nguyện và không biết Thiên Chúa.
Tại sao cần chuyển cầu?
Nhưng
chúng ta có thể tự hỏi: tại sao lại cần làm như thế, vì Thiên Chúa không lo
liệu nếu chúng ta không cầu nguyện sao? Ở đây, chúng ta đụng chạm đến một mầu
nhiệm lớn. Vì Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của chúng ta; và như thế, để thi
hành chương trình cứu độ của Chúa, Ngài cần có một người nào đó, tự do, khẩn
cầu và dâng lễ cho cả những người khác, mang đến cho Ngài những người ở xa, để
Ngài có thể tác động trong tâm hồn họ, trong cuộc sống của họ. Thánh Gregorio
Narek cảm thấy điều đó một cách mạnh mẽ và ngài không cầu nguyện một mình,
nhưng chìm đắm trong một lời khẩn cầu cộng đoàn, hiệp thông với các thiên thần
và các thánh (Xc ibid.m 81-82), với mỗi người sinh thì và túng quẫn (Xc ibid.,
85.50) là những người đầu tiên cần lời cầu nguyện của người khác (Xc ibid.,
73). Thánh nhân thưa với Chúa: “Xin đón nhận con cùng với họ, như những người
đang rất cần tình thương bao la của Chúa đối với con người” (ibid., 33). Cả
chúng ta cũng hãy cảm thấy đang cần Thiên Chúa như mọi người và là những người
chuyển cầu cho mọi người nơi Thiên Chúa.
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài
huấn giáo của Đức Thánh cha, buổi tiếp kiến được nối tiếp với phần tóm tắt bài
giáo lý và những lời chào thăm của ngài.
Bằng
tiếng Pháp, sau khi nhắc đến tên của một số cộng đoàn hiện diện, ngài nhắn nhủ
mọi người rằng: “Trong mùa Phục sinh này, chúng ta hãy cầu xin ơn có một tâm
hồn cảm thương từ đó nảy sinh một kinh nguyện chuyển cầu trở thành tình liên
đới và nâng đỡ những người đang chịu đau khổ”.
Khi
chào các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc nhở rằng “trong vài ngày nữa, tại
Đền thánh quốc gia kính thánh Giuse ở thành phố Kalisz, anh chị em sẽ cử hành
ngày tử đạo của hàng giáo sĩ Ba Lan trong thời Thế chiến thứ II. Tôi cầu mong
chứng tá của các vị tử đạo Ba Lan khích lệ các linh mục, những người thánh
hiến, các tín hữu giáo dân, đặc biệt những người trẻ, can đảm và quảng đại phục
vụ Thiên Chúa và anh chị em mình”.
Khi
chào bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha nhắc đến các tín hữu đến từ Anh quốc, Đan
Mạch, Malta, Kenya, Kuwait, Úc, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Hoa Kỳ.
Đồng thời, ngài nói thêm rằng: “Trong niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh, tôi
khẩn cầu trên anh chị em và gia đình tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha
chúng ta”.
Trong
số các tín hữu Việt Nam được nhắc tới, có 13 người đến từ Úc, và 40 người khác
đến từ Việt Nam, trong đoàn có 4 linh mục.
Sau khi
chào thăm nhiều phái đoàn từ Ý, Đức Thánh cha nói: “Như thường lệ, tôi nghĩ đến
các bạn trẻ, bệnh nhân và người cao tuổi cũng như các đôi tân hôn. “Lấy hứng từ
cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu Kitô với hai môn đệ trên đường Emmaus, anh chị em
hãy biết gặp gỡ Chúa Giêsu trong kinh nguyện và trong suy tư, và tâm hồn của
anh chị em, như các môn đệ Emmaus, cũng sẽ nồng cháy vì những ước muốn, lòng
hăng say phấn khởi và những điều chắc chắn mà Thầy Chí Thánh biết gợi lên.”
“Sau
hết, chúng ta hãy kiên trì trong sự gần gũi và cầu nguyện cho Ucraina yêu quý
và đau thương tiếp tục phải chịu những đau khổ”.
Buổi
tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.