CHÚA THÁNH THẦN,

HỒN CỦA CÁNH CHUNG KITÔ GIÁO

 

1. Thần Khí của lời hứa

Chúng ta cùng nhau nghe đoạn thư Rôma 8 mà chúng ta muốn suy niệm :

“Cả chúng ta cũng rên siết trong lòng : chúng ta đã lảnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa : vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi ?” (Rm 8,23-25).

Trong Kinh Thánh, người ta nhận thấy về con người Đức Kitô có một sức căng giữa lời hứa và sự hoàn thành, thì về Chúa Thánh Thần cũng có một sức căng tương tự. Cũng như Đức Giêsu tiên vàn được hứa trong Kinh Thánh, rồi được bày tỏ trong xác phàm, và cuối cùng được chờ đợi trở lại lần cuối, cũng thế, Chúa Thánh Thần, trước đây "đã được Chúa Cha hứa", được ban trong lễ Ngũ Tuần, và giờ đây lại được chờ đợi và kêu cầu "bằng những tiếng rên khôn tả" của con người và toàn thể tạo thành, tất cả khi nếm thử những hoa quả đầu mùa, thì chờ đợi hồng ân của Người viên mãn.

Trong khoảng thời gian-không gian này kéo dài từ lễ Hiện Xuống tới ngày Quang Lâm, Chúa Thánh Thần là lực đẩy chúng ta tiến tới, giữ chúng ta trong thế bước đi, ngăn cản chúng ta buông xuôi và trở thành một người "định cư", làm cho chúng ta hát lên với một tình cảm mới "Những thánh ca lên đền": "Vui chừng nào khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ đi về nhà Chúa!". Thánh Thần là Đấng tạo động lực và, một cách nào đó, chắp thêm đôi cánh cho niềm hy vọng của chúng ta ; hơn nữa, Người là chính nguyên lý, hồn của niềm hy vọng của chúng ta.

Trong Tân Ước, hai tác giả Luca và Phaolô nói về Thần Khí như về một “lời hứa” ; nhưng, như chúng ta sẽ thấy, có sự khác biệt quan trọng. Trong Phúc Âm Luca và trong sách Công Vụ, chính Đức Giêsu nói về Thần Khí là “lời hứa của Chúa Cha”. "Và nầy, Thầy sẽ gửi cho anh em những gì Cha Thầy đã hứa" ; “Đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là : ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1,4-5).

Đức Giêsu nhắc tới điều gì khi nói về Chúa Thánh Thần như về lời hứa của Chúa Cha ? Chúa Cha đã thực hiện lời hứa này ở đâu? Có thể nói tất cả Cựu Ước là một lời hứa về Thánh Thần. Công trình của Đấng Mêsia luôn được trình bày như là đỉnh điểm của việc tuôn đổ Thần Khí Thiên Chúa trên khắp cả thế gian. Việc so sánh với những gì Phêrô nói trong ngày lễ Ngũ Tuần cho thấy Luca đặc biệt nghĩ đến lời tiên tri Gioel: “Trong những ngày cuối cùng, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm” (Cv 2,17).

Nhưng không chỉ có lời tiên tri đó. Làm thế nào không nghĩ tới những gì có thể đọc thấy trong các tiên tri khác ? "Cho đến ngày, từ trên cao, Thần Khí sẽ được đổ xuống trên chúng ta " (Is 32,15). "Ta sẽ đổ Thần Khí  trên con cháu ngươi" (Is 44, 3). "Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi" (Êd 36,27).

Về nội dung lời hứa, như vẫn thường làm, Luca nhấn mạnh khía cạnh đặc sủng của ân huệ Thánh Thần, đặc biệt lời tiên tri. Lời hứa của Chúa Cha là "quyền năng từ trên cao" sẽ làm cho các môn đệ có thể đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất. Nhưng Luca không bỏ qua những khía cạnh sâu xa, thánh hóa và cứu độ hơn nơi hành động của Thần Khí, chẳng hạn như tha thứ tội lỗi, ban một luật mới và một giao ước mới, như thấy trong việc d0ối chiếu Sinai với lễ Ngũ Tuần. Câu của Phêrô: “đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (Cv 2,39), đưa về lời hứa cứu độ, chứ không chỉ lời hứa nói tiên tri hay một vài đặc sủng.

2. Thần Khí, hoa quả đầu mùa và ân huệ mở đầu

Từ Luca sang Phaolô, chúng ta bước vào một viễn tượng mới, sâu sắc hơn nhiều trên bình diện thần học. Thánh Tông Đồ liệt kê các đối tượng khác nhau của lời hứa : sự công chính hóa, tử hệ thần linh, sự thừa tự ; nhưng Đấng tóm tắt mọi sự, đối tượng tuyệt hảo của  lời hứa, chính là Chúa Thánh Thần, Đấng mà có khi ngài gọi là "lời hứa của Thần Khí" (Ga 3,14), có khi là "Thần Khí của lời hứa" (Ep 1,13).

Đây là hai ý tưởng mới được thánh Tông Đồ đưa vào trong khái niệm về lời hứa. Ý tưởng thứ nhất là lời hứa của Thiên Chúa không phụ thuộc vào việc giữ luật, nhưng vào đức tin, do đó vào ân sủng. Thiên Chúa không hứa ban Thần Khí cho ai giữ luật, nhưng cho người tin vào Đức Kitô: “Anh em đã nhận được Thần Khí vì đã làm những gì Luật dạy, hay vì đã tin nhờ được nghe ? […] Nếu nhờ Lề Luật mà người ta được hưởng gia tài, thì không còn phải là nhờ lời hứa nữa" (Gl 3,2.18).

Chính xuyên qua khái niệm về lời hứa mà thần học về Chúa Thánh Thần nơi Phaolô được kết nối với phần còn lại của tư tưởng của ngài và là chứng minh cụ thể cho điều đó. Người Kitô hữu biết rõ điều này : họ đã có kinh nghiệm mới về Thần Khí sau lời rao giảng Tin Mừng, chứ không phải vì bắt đầu tuân thủ Lề Luật trung thành hơn trước.

Ý tưởng mới thứ hai, theo một nghĩa nào đó, khiến người ta bối rối. Như thể Phaolô muốn ngay từ đầu loại trừ mọi cám dỗ "nhiệt tình", khi tuyên bố lời hứa vẫn chưa được hoàn tất, ít nhất không hoàn toàn ! Về vấn đề này, hai khái niệm áp dụng cho Chúa Thánh Thần mang tính mạc khải : hoa quả đầu mùa (aparchè) và ân huệ mở đầu (arrabôn). Chữ thứ nhất trong bản văn Rôma 8 đang bàn: “Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như hoa quả đầu mùa, chúng ta cũng rên siết trong lòng khi trông đợi ơn cứu chuộc thân xác chúng ta” (Rm 8,23) ; chữ thứ hai trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô (bản của Phụng vụ Giờ kinh dịch là ‘bảo chứng’): “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2Cr 1,21-22); “Đấng đã tạo thành chúng ta vì mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí cho chúng ta làm bảo chứng” (2Cr 5,5).

Thánh Tông Đồ muốn nói gì với chúng ta? Việc Đức Kitô đến thực hiện không làm cạn kiệt lời hứa. Bằng một kiểu nói hoàn toàn tương phản, ngài nói chúng ta "lãnh nhận... trong khi," chúng ta lãnh nhận, và chúng ta chờ đợi. Chính vì những gì chúng ta lãnh nhận chưa phải là sự viên mãn, nhưng chỉ là những hoa quả đầu tiên, một sự dự báo, mà niềm hy vọng nẩy sinh nơi chúng ta. Hay đúng hơn, mong muốn, chờ đợi, khát vọng còn mãnh liệt hơn trước đây, vì bây giờ chúng ta biết Thần Khí là gì. Trên ngọn lửa khao khát của con người, sự xuất hiện của Thần Khí trong ngày lễ Ngũ Tuần, bằng cách nào đó, như  đổ thêm nhiên liệu.

Chính xác như đối với Đức Kitô. Ngài đến thực hiện mọi lời hứa, nhưng không chấm dứt sự chờ đợi. Sự chờ đợi được phục hồi, dưới hình thức chờ đợi Ngài trở lại trong vinh quang. Sự chỉ định "lời hứa của Chúa Cha" đặt Chúa Thánh Thần vào chính trọng tâm của cánh chung Kitô giáo. Do vậy, người ta chỉ có thể dè dặt đối với khẳng định của một số nhà chuyên môn, theo đó "trong quan niệm của những người Kitô hữu gốc Do thái, Thần Khí chủ yếu là sức mạnh của thế giới tương lai, còn trong quan niệm của các Kitô hữu Hy lạp, Người là sức mạnh của thế giới cao hơn." Phaolô chứng minh hai quan niệm không nhất thiết xung khắc nhau, ngược lại có thể cùng tồn tại. Trong Ngài, Thần Khí cùng một lúc là thực tại của thế giới cao hơn, thần linh, và sức mạnh của thế giới sẽ đến.

Trong quá trình chuyển đổi từ hoa quả đầu mùa sang sự viên mãn, hoa quả đầu mùa sẽ không bị vứt bỏ để nhường chỗ cho sự viên mãn, đúng hơn chính hoa quả ấy sẽ trở thành viên mãn. Nói cách khác, chúng ta sẽ giữ lại những gì chúng ta đã có và sẽ có được những gì chúng ta chưa có. Chính Thần Khí sẽ được đổ tràn viên mãn.

Nguyên tắc thần học "ân sủng là khởi đầu của vinh quang", áp dụng cho Chúa Thánh Thần, có nghĩa là các hoa quả đầu mùa khởi đầu cho sự hoàn thành, khởi đầu của vinh quang, một phần của vinh quang này. Trong trường hợp này, không nên dịch arrabôn bằng "bảo chứng" (pignus), nhưng chỉ bằng khai ân (arra) mà thôi. Bảo chứng không phải là một sự bắt đầu hoàn trả, nhưng là một sự việc được ban trong lúc chờ hoàn trả. Sau khi việc hoàn trả được thực hiện, người ta trả lại bảo chứng. Khai ân thì không như vậy. Chúng không được trả lại lúc hoàn trả, nhưng được bổ sung. Chúng đã là một phần của hoàn trả. “Nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như một bảo chứng của tình yêu bằng hoạt động của Thần Khí của Người, thì phải chăng Người sẽ không lấy đi bảo chứng này khi toàn bộ thực tại sẽ được ban cho chúng ta? Không. Đúng hơn, Người sẽ bổ túc những gì Người đã ban "(Augustinô).

Tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta được nếm thử trước ở trần gian này, nhờ vào "những khai ân của Thần Khí", có cùng một phẩm chất với tình yêu mà chúng ta sẽ được thưởng thức trong cuộc sống vĩnh cửu, nhưng không có cùng cường độ. Việc lãnh nhận Thần Khí cũng giống như vậy.

Như ta thấy, một sự biến đổi sâu sắc đã xảy ra trong ý nghĩa của lễ Ngũ Tuần. Ban đầu, lễ Ngũ Tuần là lễ của hoa quả đầu mùa, nghĩa là ngày người ta dâng lên Thiên Chúa những hoa quả đầu tiên của vụ thu hoạch. Ngay cả ngày nay nó vẫn còn là lễ của những hoa quả đầu tiên, nhưng là hoa quả đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, trong Thần Khí của Người. Vai trò của người cho và người nhận đảo ngược, hoàn toàn hài hòa với những gì đang diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ lề luật sang ân sủng, từ sự cứu độ như một công việc của con người đến ơn cứu độ như một món quà cho không của Thiên Chúa.

Đây là lý do tại sao việc giải thích lễ Hiện Xuống, lễ của những hoa quả đầu mùa, lại không có gì tương đương trong bối cảnh Kitô giáo, nếu có thể nói được như vậy. Thánh Irênê đã cố gắng đi theo chiều hướng này khi nói rằng vào ngày lễ Hiện Xuống, “Thần Khí dâng cho Chúa Cha những hoa quả đầu tiên của mọi dân tộc”, nhưng điều đó hầu như không được tư tưởng Kitô giáo tiếp nối.

3. Chúa Thánh Thần, hồn của Truyền Thống

Không giống như mọi khía cạnh khác của Thánh thần học, sự đóng góp của thời kỳ Giáo phụ, liên quan đến Thần Khí như là lời hứa, không quan trọng, sở dĩ thế vì các Giáo Phụ tỏ ra ít quan tâm đến viễn tượng lịch sử và cánh chung so với viễn tượng bản thể học. Thánh Basiliô đã viết một bản văn đẹp về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sự hoàn thành cuối cùng: "Cũng vào lúc Chúa trên trời tỏ hiện mà người ta mong đợi, Chúa Thánh Thần sẽ không vắng mặt... Vào thời điểm này, ai có thể bỏ qua những điều lành mà Thiên Chúa chuẩn bị cho những người xứng đáng, đến nỗi không hiểu rằng ngay cả triều thiên dành cho người công chính là ân sủng của Chúa Thánh Thần". Nhưng nếu người ta chú ý quan sát, thánh nhân chỉ nói rằng Chúa Thánh Thần cũng sẽ tích cực tham gia vào hành động cuối cùng của lịch sử nhân loại, khi thời gian đi đến vĩnh cửu. Không có suy tư nào về những gì Chúa Thánh Thần thực hiện ngay từ bây giờ, trong thời gian, để thúc đẩy nhân loại hướng tới sự hoàn thành. Thiếu ý thức về đà tiến của Chúa Thánh Thần, về sức mạnh thúc đẩy dân Chúa trên đường về quê hương.

Chúa Thánh Thần thúc đẩy các tín hữu tỉnh thức khi chờ đợi Đức Kitô trở lại, dạy cho Giáo Hội kêu lên: "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20). Khi Thần Khí cùng với Giáo Hội cầu xin Marana-tha, thì cũng giống như khi Người nói Abba trong lòng người tín hữu : phải hiểu tiếng đó theo nghĩa là Người bảo nói, Người trở thành tiếng nói của Giáo Hội. Thật vậy, Đấng Bảo Trợ không thể tự mình kêu lên Abba, vì Người không phải là con của Chúa Cha ; và Người không thể kêu lên Marana-tha, "Lạy Chúa, xin ngự đến", vì Người không phải là tôi tớ Đức Kitô, nhưng là "Chúa", đồng hàng với Đức Kitô, như chúng ta tuyên xưng trong kinh tin kính.

Đức Giêsu nói về Đấng Bảo Trợ: "Người sẽ loan báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy đến” (Ga 16,13), nói khác đi, Người sẽ cho biết về trật tự mới các sự việc lộ ra từ lễ Vượt Qua. Do đó, Chúa Thánh Thần là động lực của cánh chung Kitô giáo, giữ cho Giáo Hội hướng về phía trước, hướng về ngày Chúa trở lại. Chính điều đó mà suy tư của Kinh Thánh và thần học ngày nay đã tìm cách làm nổi bật. Moltmann viết : Cuộc sống mới do Thần Khí gợi lên chính nó đã mang tính cánh chung, mà không phải chờ đến giây phút cuối cùng của ngày Quang Lâm ; ở chỗ nó khởi đầu một cuộc sống sẽ xuất hiện hoàn toàn, khi cách hiện hữu do Thần Khí xác định được thiết lập, không còn bị xác thịt ngăn trở. Thần Khí không chỉ là lời hứa theo nghĩa tĩnh, nhưng là sức mạnh của lời hứa, là Đấng làm cho ta nhận thức được khả năng giải thoát, cảm thấy những xiềng xích còn khá nặng nề và không chịu nổi đến mức nào, và thúc đẩy ta đập tan chúng.

Nhãn quan của Phaolô về Chúa Thánh Thần như lời hứa và hoa quả đầu mùa cho phép ta khám phá ra ý nghĩa đích thực của Truyền Thống Giáo Hội. Truyền Thống trước hết không phải là một tập hợp những sự việc "được truyền đạt", mà tiên vàn là nguyên lý năng động của truyền đạt. Nói đúng hơn, nó là chính đời sống  Giáo Hội : thực sự, được Thần Khí linh hoạt, dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền, nó phát triển trong sự trung thành với Đức Giêsu Kitô. Thánh Irênê viết rằng mạc khải "giống như một kho tàng quý giá được giữ trong một chiếc bình có giá trị, nhờ Thần Khí Thiên Chúa, luôn tươi trẻ và cũng làm cho chiếc bình chứa đựng nó tươi trẻ". Chiếc bình giá trị tươi trẻ với nội dung của nó chính là sự rao giảng của Giáo Hội và Truyền Thống.

Do đó, Chúa Thánh Thần là hồn của Truyền Thống. Nếu người ta hủy bỏ hoặc lãng quên Chúa Thánh Thần, những gì còn lại của Truyền Thống này chỉ là chữ chết. Như thánh Tôma Aquinô quả quyết, "không có ân sủng bên trong của Chúa Thánh Thần, ngay cả Phúc Âm sẽ vẫn là chữ giết chết", nếu như vậy thì chúng ta nên nói gì về Truyền thống ?

Quả thật Truyền Thống là một sức mạnh kiên trì và bảo tồn quá khứ, nhưng cũng là một sức mạnh canh tân và tăng trưởng ; nó vừa là trí nhớ vừa là dự đoán. Nó giống như làn sóng của việc rao giảng tông đồ tiến tới và lan truyền qua nhiều thế kỷ. Sóng chỉ có thể được thu trong chuyển động. Đóng băng truyền thống vào một thời điểm nhất định trong lịch sử có nghĩa là biến nó trở thành "truyền thống chết", không còn là "truyền thống sống động" nữa như thánh Irênê nói.

4. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta chan chứa hy vọng

Với thông điệp của mình về đức cậy, Đức  Bênêđictô XVI cho chúng ta biết hậu quả thực tế bắt nguồn từ bài suy niệm của chúng ta : hy vọng, luôn hy vọng, và nếu chúng ta đã hy vọng cả ngàn lần vô ích, hãy lại bắt đầu hy vọng nữa! Thông điệp (có tựa đề "Spe salvi": "Chúng ta đã được cứu nhờ hy vọng", chính xác là trích từ đoạn thư Phaolô mà chúng ta đã bình giải) bắt đầu bằng những lời này:

"Sự cứu chuộc được ban cho chúng ta theo nghĩa sự hy vọng đã được ban chúng ta, một sự hy vọng đáng tin cậy, dựa vào đó chúng ta có thể đối diện với hiện tại của chúng ta : hiện tại, thậm chí một hiện tại khó nhọc, có thể được sống và chấp nhận nếu nó dẫn đến tận cùng  và nếu chúng ta có thể chắc chắn về tận cùng này, nếu tận cùng này là tuyệt vời đến mức có thể biện minh cho những nỗ lực của con đường này ".

Một loại tương đương và thay đổi lẫn nhau hình thành giữa hy vọng và được cứu thoát, như giữa hy vọng và tin. Đức Giáo Hoàng viết: "tin là hy vọng," như vậy theo quan điểm thần học, là xác nhận trực giác thi phú của Charles Péguy, người bắt đầu bài thơ về nhân đức thứ hai bằng những lời này : “Thiên Chúa nói : Đức tin mà ta yêu nhất, chính là đức cậy. "

Cũng như chúng ta phân biệt hai loại đức tin : đức tin thô và đức tin thật sự tin (tức là những điều chúng ta tin và chính hành vi tin), chúng ta cũng phân biệt hai loại đức cậy. Có một đức cậy khách quan cho thấy điều được hy vọng – di sản vĩnh cửu - và một đức cậy chủ quan là chính hành vi hy vọng điều này. Đức cậy chủ quan này là một lực đẩy về phía trước, một đà tiến bên trong, một sự mở rộng tâm hồn, hướng về tương lai. Một Giáo Phụ xưa có nói: "Một sự di cư yêu thương của tâm trí hướng tới những gì người ta hy vọng".

Phaolô giúp chúng ta khám phá mối quan hệ sống còn giữa đức cậy và Chúa Thánh Thần. Ngài coi ba nhân đức đối thần bắt nguồn từ hành động của Chúa Thánh Thần. Ngài viết: "Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên côn chính như chúng tôi hy vọng. Quả thật, trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái" (Gl 5,5-6 ; x. Rm 5,5).

Do đó, Chúa Thánh Thần xuất hiện như là nguồn gốc và sức mạnh đời sống thần học của chúng ta. Đặc biệt chính nhờ Người mà chúng ta có thể "tràn đầy hy vọng". Thánh Tông Đồ cũng đã viết trong thư Rôma: "Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần anh em được tràn trề hy vọng" (Rm 15,13). "Thiên Chúa của nguồn hy vọng", một định nghĩa quả là bất thường về Thiên Chúa!

Hy vọng đôi khi được gọi là "người bà con nghèo" trong số các thần đức. Đúng là đã có một thời điểm suy tư mãnh liệt về đề tài hy vọng, mà cuối cùng đưa đến một "thần học về hy vọng". Nhưng không có suy tư về tương quan giữa hy vọng và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, người ta không thể hiểu được nét đặc thù của niềm hy vọng Kitô giáo và sự khác biệt của nó đối với bất kỳ ý tưởng hy vọng nào khác, nếu không xem xét nó trong mối tương quan sâu sắc của nó với Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần tạo ra nét khác biệt giữa "nguyên lý hy vọng" và thần đức hy vọng. Các nhân đức gọi là thần đức không chỉ vì chúng có Thiên Chúa là cứu cánh, mà còn vì có Thiên Chúa là nguyên lý ; Thiên Chúa không chỉ là đối tượng, mà còn là nguyên nhân. Chúng được Thiên Chúa khích động, truyền đạt.

Chúng ta cần hy vọng để sống và cần Chúa Thánh Thần để hy vọng ! Một trong những nguy hiểm chính trên con đường thiêng liêng là chán nản bởi cùng những tội lỗi lặp đi lặp lại, những ý định ngay lành kế tiếp nhau dường như vô ích. Niềm hy vọng cứu thoát chúng ta, cho ta sức mạnh để luôn khởi sự lại từ đầu, để mỗi lần tin rằng sẽ có một sự hoán cải tốt đẹp, thực sự. Chính như vậy mà Thiên Chúa mủi lòng, đến cứu chúng ta bằng ân sủng của Ngài.

"Đức tin không làm ta ngạc nhiên. (Vẫn là nhà thơ của hy vọng nói, hoặc đúng hơn, làm cho Thiên Chúa nói). Ta đã bùng nổ lớn lao trong sáng tạo của Ta... Thiên Chúa nói, bác ái không làm Ta ngạc nhiên. Những thụ tạo tội nghiệp này quá bất hạnh đến nỗi, trừ phi chúng có trái tim bằng đá, làm sao chúng có thể không có chút bác ái nào đối với nhau ? Nhưng Thiên Chúa nói, hy vọng là điều khiến Ta ngạc nhiên. Chớ gì những đứa trẻ đáng thương này thấy như mọi sự đang qua và tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn. Điều đó, quả là đáng ngạc nhiên và chính Ta cũng ngạc nhiên về điều đó. Quả thực ân sủng của Ta phải có một sức mạnh không thể tin nổi".

Chúng ta không thể hài lòng vì chỉ hy vọng cho mình. Chúa Thánh Thần muốn biến chúng ta thành những người gieo rắc niềm hy vọng. Không có món quà nào đẹp hơn là làm lan tỏa hy vọng trong nhà của chúng ta, trong cộng đồng của chúng ta, trong Giáo Hội địa phương và phổ quát. Hy vọng giống như một số sản phẩm hiện đại tái tạo không khí, làm thơm tho cả căn phòng.

Tôi kết thúc loạt bài suy niệm Mùa Chay bằng một bản văn của Đức Phaolô VI tóm tắt nhiều điểm mà chúng ta đã đề cập:

"Chúng ta thường tự hỏi... chúng ta cảm thấy nhu cầu đầu tiên và cuối cùng nào cho Giáo Hội được chúc phúc và rất thân yêu của chúng ta. Chúng ta phải nói lên điều đó với tâm trạng lo lắng và khi cầu nguyện, vì đó là mầu nhiệm và đời sống của Giáo Hội, như các bạn biết : Thần Khí, Chúa Thánh Thần, làm linh hoạt và thánh hóa Giáo Hội, hơi thở thần linh của nó, làn gió thổi các cánh buồm của nó, nguyên lý thống nhất của nó, nguồn ánh sáng bên trong và sức mạnh của nó, nâng đỡ và an ủi nó, nguồn mạch đặc sủng và ca hát của nó, bình an và niềm vui của nó, bảo chứng và khúc dạo đầu cho nó về cuộc sống hạnh phúc và vĩnh cửu. Giáo Hội cần lễ Ngũ Tuần vĩnh cửu của mình; Giáo Hội cần lửa trong tâm hồn, lời nói trên môi, lời tiên tri trong ánh mắt. Giáo Hội cần phải lại có được sự băn khoăn, ham thích, chắc chắn về chân lý của mình”.

Xin nhờ công nghiệp của cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, Đấng Phục Sinh ban cho tất cả chúng ta, trong ngày Phục Sinh thánh này, một sự tuôn trào mới mẻ Thần Khí của Ngài.

(lấy ý trong R. Cantalamessa, Bài giảng thứ tư Mùa Chay năm 2009, tại Phủ Giáo hoàng)

Lm Micae Trần Đình Quảng

 


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều