SỰ hiỆn diỆN cỦa Chúa Kitô

trong Thánh ThỂ

Quan điểm của các nhà Cải Cách

 

Giáo Hội Công Giáo dạy phải tin rằng Chúa Kitô hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể và hiện diện bằng sự biến thể. Nhưng các nhà Cải Cách ở thế kỷ XVI lại có những quan niệm khác, hoặc về chính sự hiện diện hoặc về sự kiện làm phát sinh sự hiện diện. Bài này trình bày những quan niệm khác biệt đó, dựa vào những nhà Cải Cách lớn là Zwingli, LutherCalvin.

I. Ulrich Zwingli

Quan niệm của Zwingli về sự hiện diện thâu tóm vào mấy điểm chính sau đây : Chúa Kitô chỉ hiện diện trong tâm trí người tham dự nhờ đức tin, vì thân xác của Chúa Kitô ở trên trời không thể xuống thế realiter và essentialiter trong bánh và rượu ; các hình bánh rượu chỉ biểu thị mình và máu Chúa hiến dâng vì ta. Như vậy, quan điểm của Zwingli dựa trên đức tin chủ quan và từ đó đưa đến cách giải thích biểu trưng về những lời Tin Mừng liên hệ tới Thánh Thể.

Theo Zwingli, sự hiện diện thực sự chỉ có cho đức tin chứ không có trong thực tại. Ông dùng một hình ảnh so sánh : để có lửa xẹt ra từ đá lửa, người ta phải đánh vào đá  ấy ; cũng vậy, để có được sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, người ta phải tìm kiếm Ngài ở đó bằng đức tin.

Đức tin này cũng là quy tắc chú giải Lời Chúa (“fides magistra et interpres verborum”). Khi chú giải chương VI của Tin Mừng Gioan, Zwingli đã đề ra một nguyên tắc hướng dẫn như sau : “Chính đức tin áp đặt ý nghĩa của đoạn văn này, nếu thực sự chắc chắn chỉ có một con đường cứu độ duy nhất là tin rằng Con Thiên Chúa là bảo chứng của ơn cứu độ chúng ta, và tin tưởng vào Ngài, đến nỗi để được ơn cứu độ, người ta không được gán một điều gì cho những yếu tố của trần gian, tức là những sự vật khả giác” (Dict. de Théol. cath., art. Zwingli, col. 3828). Ông còn nói mạnh hơn : “Đức tin đến từ Thiên Chúa vô hình và hướng tới Thiên Chúa vô hình. Thế nên nó là điều hoàn toàn xa cách cái khả giác. Tất cả những gì là vật thể, tất cả những gì là khả giác, đều không thể là đối tượng của đức tin” (ibid.).

Từ nguyên tắc trên đây, Zwingli cho rằng lời Chúa nói trong Ga 6 không phải là ăn thịt và uống máu Ngài, nhưng là ăn uống lời Tin Mừng bằng đức tin. “Các bạn thấy là mình và máu Chúa Kitô không là gì khác hơn là lời đức tin, tức là mình Người bị sát tế vì ta và máu Người đổ ra cho ta, đã cứu chuộc ta và giải hòa ta với Thiên Chúa. Nếu ta mạnh mẽ tin điều đó thì linh hồn ta được nuôi dưỡng và được tưới tắm bằng thịt và máu Chúa Kitô” (ibid. col. 3826). Zwingli còn trưng dẫn lời Chúa nhấn mạnh trong Ga 6,63 : “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì”. Như vậy, người ta có thể căn cứ vào lời của chính Chúa Giêsu để bác bỏ mọi cách giải thích duy thực về sự hiện diện. Bánh chỉ tượng trưng cho thịt của Chúa. Rượu chỉ tượng trưng cho máu của Chúa. Người ta ăn uống không phải Mình Máu thật của Chúa, nhưng là ăn uống thiêng liêng.

Cách giải thích này cũng được Zwingli áp dụng vào lời truyền phép. Lời của Chúa : “Này là Mình Thầy” chỉ có ý nói rằng : đây là dấu chỉ hoặc biểu tượng thuần túy của thân xác Chúa (Hoc est corpus meum = Hoc significat corpus meum). Tuy nhiên, nhờ đức tin của con người mà Chúa Kitô hiện diện cách thiêng liêng và nuôi dưỡng linh hồn họ.

Zwingli còn củng cố cách giải thích theo nghĩa biểu tượng này bằng cách nại tới Luca và Phaolô. Khác với Matthêu và Marcô, hai tác giả Luca và Phaolô ghi nhận lời Chúa Giêsu nói thêm sau lời truyền phép : “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19 và 1 Cr 11,25). Do đó, đây chỉ là một nghi thức tưởng niệm thuần túy. Nhất là Zwingli dựa vào 1 Cr 10,14-22. Phaolô quảng diễn ý tưởng về việc dự phần, chia sẻ hay hiệp thông (koinonia). Theo Zwingli, koinonia ở đây không hiểu theo nghĩa năng động là hiệp thông hay dự phần vào mình máu Chúa, nhưng theo nghĩa thụ động, tức là hiệp thông trong Giáo Hội, như thấy ở câu 17 (“vì tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”). Việc các tín hữu chia sẻ cùng một tấm bánh chỉ muốn nói lên rằng họ chỉ là chi thể của cùng một thân thể, liên kết với nhau như bằng một bí tích.

Zwingli cũng căn cứ vào đoạn Xh 12,11tt để biện minh cho cách giải thích của mình. Nếu bữa ăn Vượt Qua của người Do-thái biểu thị sự đi ngang qua của Giavê, thì cũng vậy, bánh trong bữa Tiệc Ly biểu thị lễ Vượt Qua Mới của Đức Kitô. Không thể hiểu cách khác, nếu nhớ rằng phép Thánh Thể được thiết lập trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do-thái, và cả hai sự kiện tương ứng với nhau từng điểm một. Các Tông Đồ hẳn đã hiểu theo nghĩa biểu trưng này, chứ không hiểu là Chúa Giêsu ban cho họ mình máu thật của Ngài dưới hình bánh hình rượu.

Đồng quan điểm với Zwingli, hai nhà Cải Cách khác là Karl-stadtOecolampade cũng hiểu lời truyền phép theo nghĩa bóng, nhưng mỗi người nhấn mạnh một khía cạnh riêng. Karlstadt nhấn mạnh “Hoc” (“Hoc” hiểu là mình Chúa, vì khi nói câu này, Chúa chỉ tay vào mình chứ không vào bánh). Oecolampade nhấn mạnh “corpus” với ý nghĩa “figura corporis”. Còn Zwingli, như đã nói trên, nhấn mạnh “est” với ý nghĩa “significat”.

II. Martin Luther

Khác với các bạn hay các đồ đệ thuộc nhóm Cải Cách, Luther luôn luôn khẳng định sự hiện diện thực sự, và mạnh mẽ bảo vệ quan điểm của mình. Theo Luther, cách giải thích Lời Chúa của các người trên đây đều không có cơ sở, thậm chí là nghịch lý. Cách giải thích của Karlstadt thì kỳ quặc, không thể chấp nhận. Còn những cách giải thích của Zwingli và Oecolampade đều không đúng với ý nghĩa đích thực của bản văn. Luther chống lại tất cả các cách giải thích đó, nhất là của Zwingli.

Luther đã dựa vào đâu khi chủ trương sự hiện diện thực sự của Chúa ? – Dựa vào đức tin của toàn thể Giáo Hội, nhất là dựa vào phân tích bản văn, vào nghĩa tự nhiên và trong sáng của chính lời Chúa nói : “Này là mình Thầy”, “Này là máu Thầy”. Người ta không thể đưa ra bất cứ lý do nào để hiểu những lời này khác với những gì chúng được nói ra. Ông viết : “Bản văn này không chỉ nói : Này là mình Đức Kitô…, nhưng nó chỉ đích danh bánh được bẻ ra và nói : bánh này là mình Đức Kitô, thậm chí : bánh chúng ta bẻ ra không chỉ là mình Đức Kitô, mà còn là mình Đức Kitô được phân phát” (trích trong Charles Boyer, Luther et sa doctrine, Rome, 1970, pp. 173-174). “Là” (est) không thể tương đương với “biểu thị” (significat), không thể hiểu theo nghĩa tượng trưng. Vào giây phút long trọng thiết lập một bí tích mà cũng là giao ước mới của mình, Đức Kitô gán cho những lời của Ngài một ý nghĩa được mọi người thừa nhận. Và nếu Ngài nói “Này là mình Thầy” thì phải hiểu rằng đó chính là thân mình Ngài.

Về điểm này, Luther đã bảo vệ chủ trương của mình tới cùng. Sau nhiều cuộc tranh luận với các nhà Cải Cách khác, sau những cố gắng hòa giải của Bucer, năm 1537, Luther viết trong khoản 6 của Các điều khoản Smalkalde như sau : “Về bí tích bàn thờ, chúng tôi tin rằng bánh và rượu là mình thật và máu thật của Chúa chúng ta, rằng không chỉ các kitô-hữu đạo đức, mà cả những người vô đạo cũng lãnh nhận nữa” (ibid., p. 175).

Nếu chủ trương của Luther về sự hiện diện dừng lại ở đó, thì không khác với đức tin Công Giáo. Tuy nhiên, những cách cắt nghĩa liên hệ tới sự hiện diện đã làm Luther xa rời đức tin này. Có thể thấy ba khác biệt chính trong quan điểm của Luther : 1/ phủ nhận sự biến thể (transsubstantiatio) và chủ trương lưỡng-thể-đồng-tại (consubstantiatio, companatio, impanatio) ; 2/ cắt nghĩa sự hiện diện của Chúa bằng lý thuyết phổ-tại-tính (ubiquisme) ; 3/ giới hạn sự hiện diện của Chúa lúc cử hành tiệc thánh và lúc chịu lễ (in usu). Trong ba dị biệt này, dị biệt cơ bản liên hệ tới biến thể. Các dị biệt khác tùy thuộc vào đó.

Theo giáo lý Công Giáo, Đức Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Người. Sự biến đổi này được gọi là “biến thể”. Luther phủ nhận tín điều này, được ông coi là sản phẩm của kinh-viện. Thay vào đó, ông chấp nhận ít nhiều ý kiến của J. Wyclif và của Pierre d’Ailly, theo đó bánh và rượu không biến đổi nhưng tồn tại đồng thời với mình và máu Chúa Kitô. Mình Chúa Kitô hiện diện cùng với (cum) bánh hoặc trong (in) bánh hoặc dưới (sub) bánh. Đó là một sự đồng-hiện-hữu, đồng-bản-thể, lưỡng-thể-đồng-tại. Bánh và thân mình Chúa Kitô, một cách nào đó, trở thành một hữu thể duy nhất. Luther viết : “Cho dù thân mình và bánh là hai bản tính khác nhau, bản tính nào cho bản tính đó, và cho dù khi chúng tách biệt nhau, bản tính này chắc chắn không phải là bản tính kia, nhưng khi chúng kết hợp với nhau và trở thành một hữu thể mới mẻ đầy đủ, chúng mất đi sự khác biệt trong những gì liên hệ đến hữu thể mới mẻ độc nhất này … là vì bây giờ không còn thuần túy là bánh trong lò nữa, nhưng là bánh – xác thịt (pain–chair) hoặc bánh – thân mình (pain–corps), tức là bánh đã trở thành một hữu thể duy nhất và một sự vật bí tích duy nhất với thân mình Chúa Kitô” (ibid., p. 181).

Để biện minh cho quan điểm của mình, Luther nại tới Kinh Thánh. Bánh tồn tại vì Kinh Thánh nói tới bánh trong Thánh Thể. Phaolô chẳng hạn đã viết : “Khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự phần vào thân thể Chúa sao ?” (1 Cr 10,16). Như vậy cùng một lúc có cả bánh lẫn thân thể Chúa.

Thực ra, nếu Luther có một quan điểm dứt khoát về sự hiện diện, thì về cách thức trở nên hiện diện, ông không hẳn có một thái độ như vậy. Tiên vàn ông chỉ không chấp nhận sự biến-thể như một tín điều, vì Kinh Thánh không nói. Nhưng trong cuộc tranh cãi với vua Henry VIII, ông mạnh mẽ phủ nhận sự biến-thể vì thấy trái ngược với Kinh Thánh. Về sau, nhân chống lại Zwingli, Karlstadt …, ông coi vấn đề này không cần thiết và không quan trọng lắm. “Cho dù tôi chủ trương như Wyclif là bánh còn lại đó, tôi cũng chủ trương ngược lại như người công giáo là thân thể Đức Kitô ở đó”“Tôi thích cùng với giáo hoàng chủ trương chỉ có máu, hơn là chỉ muốn có rượu ở đó” (ibid., p. 180). Dường như Luther coi những quan điểm của mình cũng như của người khác về cách thức hiện diện chỉ là những ý kiến thuần túy.

III. Jean Calvin

Quan điểm của Calvin là quan điểm dung hòa giữa Zwingli và Luther, cộng thêm với những suy nghĩ riêng của ông. Giống như Luther, Calvin cho rằng Chúa Kitô hiện diện thực sự trong Thánh Thể và chỉ hiện diện trong lúc cử hành. Nhưng ông không đồng ý với Luther về cách giải thích sự hiện diện dựa vào lý thuyết phổ-tại-tính và về quan niệm lưỡng-thể-đồng-tại. Giống như Zwingli, Calvin nhấn mạnh đức tin, đến nỗi nếu không có đức tin thì không có sự hiện diện. Nhưng ông phủ nhận quan niệm của Zwingli về sự hiện diện thuần túy tượng trưng. “Chúng ta phải tuyên xưng rằng nếu sự thể hiện mà Thiên Chúa làm cho ta trong bữa Tiệc thánh là thật, thì bản chất bên trong của Bí Tích liên kết với những dấu chỉ hữu hình. Cũng như bánh được ban nơi tay ta, thân xác Đức Kitô cũng được chuyển đạt cho ta, để ta trở thành người dự phần vào đó” (trích trong Max Thurian, L’Eucharistie, Delachaux et Niestlé, 1959, p. 258).

Có thể tóm tắt quan niệm của Calvin về sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể như sau : Đó là một sự hiện diện thật sự, chứ không phải là kết quả của tư tưởng và đức tin của ta.

Đó cũng là một sự hiện diện “bản thể”. Calvin viết : “Tất cả chúng ta cùng tuyên xưng rằng khi lãnh nhận bí tích này trong đức tin, theo lệnh Chúa truyền, chúng ta thực sự được dự phần vào bản thể riêng của mình và máu Đức Giêsu-Kitô” (ibid., p. 260).  Tuy nhiên bản thể ở đây không có nghĩa như chúng ta hiểu. Theo giáo lý công giáo, hiện diện bản thể là toàn thể Chúa Kitô cùng với nhân tính và thần tính của Ngài trong đó, đặc biệt nhấn mạnh sự hiện diện bản thể của mình và máu Chúa, tức là khía cạnh nhân tính. Calvin bác bỏ giáo lý ấy, vì, theo ông, Đức Kitô cùng với thân xác vinh hiển của Ngài đã lên trời, vào ngày Thăng Thiên, và chỉ xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận thế, nên không thể đến kết hợp ở một nơi với những hình Thánh Thể. Hiện diện “bản thể” không phải là hiện diện bằng thân xác (présence corporelle), nhưng là hiện diện bằng thần lực của Chúa, bằng Thần Khí của Chúa. Có thể coi đó là một sự hiện diện thiêng liêng (présence spirituelle), vì có liên hệ với Chúa Thánh Thần. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà sự “liên kết” giữa mình máu Chúa Kitô và các dấu chỉ bí tích được thực hiện. Chúa Thánh Thần giống như một “con kênh hoặc ống dẫn qua đó tất cả những gì Chúa Kitô là và có xuống với ta” (ibid., p. 261). Vai trò của Chúa Thánh Thần được Calvin nhấn mạnh. Như vậy, khi ta lãnh nhận Thánh Thể thì, đúng ra, không phải là lãnh nhận thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, nhưng là Thần Khí của Ngài. Thần Khí này là dây liên kết (vinculum communicationis) các tín hữu với Chúa Kitô, giữa đức tin của người chịu lễ và Chúa Kitô ở trên trời, qua các dấu chỉ bánh rượu. Chúng ta lãnh nhận thần lực của Chúa Kitô mà như lãnh nhận chính thân xác của Ngài, như chính thân xác ấy đang hiện diện.

Cho đến cuối đời, Calvin vẫn mạnh mẽ tin vào sự hiện diện thực sự của Mình và Máu Chúa Kitô. Năm 1562, tức là hai năm trước khi mất, ông còn viết : “Cho dù thân xác Chúa Kitô ở trên trời, thì ở trần gian chúng ta vẫn được nuôi dưỡng thực sự bằng thân xác ấy, vì do quyền năng khôn dò và tỏa rộng khắp nơi của Thần Khí của mình, Chúa Kitô trở thành của ta đến nỗi Ngài ngự trong ta mà vẫn không thay đổi chỗ ở … Tôi không thấy có gì phi lý khi nói rằng chúng ta thật sự lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, và như vậy Chúa Kitô là lương thực cho ta theo bản thể, miễn là chúng ta nhận rằng Chúa Kitô xuống với ta không chỉ qua các biểu tượng bên ngoài, mà còn nhờ tác động âm thầm của Thần Khí Ngài, để chúng ta lên với Ngài bằng đức tin” (ibid., pp. 266-267).

 

PhỤ lỤc

Ngày nay, giáo huấn chính thức của giáo phái Luther vẫn dạy về sự hiện diện thực sự. Một số người theo phái Calvin cũng nhận sự hiện diện thực sự theo nghĩa công giáo, chẳng hạn 30 đại diểu của Giáo Hội Cải-cách Hòa-lan (1950), tu hội Taizé.

Phong trào hiệp nhất thúc đẩy những cuộc gặp gỡ trao đổi giữa các Giáo Hội, qua đó dần dần hình thành những quyết định chung về giáo lý, trong đó có giáo lý về Thánh Thể : Dombes (Công-giáo và Tin-lành Pháp), Hội Đồng Đại-kết các Giáo Hội ở Genève (năm 1982, với sự tham dự của phía Công-giáo, Ủy vụ Foi et Constitution đã đưa ra tuyên bố chung về phép Rửa-tội, Thánh Thể và thừa tác vụ, gọi chung là “Document de Lima”), Ủy vụ quốc tế Công-giáo và Tin-lành Luther bàn về “Le repas du Seigneur”.

Sau nhiều cố gắng, nhóm Dombes chẳng hạn đã công bố một bản văn chung về Thánh Thể (1972), trong đó có phần nói về sự hiện diện bí tích của Chúa Kitô, như sau :

 

Sự hiện diện bí tích của Đức Kitô

17. Cử hành Thánh Thể là ân huệ của con người Đức Kitô. Quả thực, Chúa nói : “Các con cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con” – “Tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Thế nên chúng tôi nhất trí tuyên xưng sự hiện diện thực sự, sống động và hoạt động của Đức Kitô trong bí tích này.

18. Sự biện biệt mình và máu Đức Kitô đòi hỏi đức tin. Tuy nhiên, sự hiện diện của Đức Kitô nơi Giáo Hội trong Thánh Thể không tùy thuộc vào đức tin của từng người, vì chính Đức Kitô, bằng lời nói và trong Thần Khí, liên kết mình với biến cố bí tích, dấu chỉ sự hiện diện của Ngài.

19. Vì hành vi của Đức Kitô là ban mình và máu Ngài, tức là chính Ngài, nên thực tại được ban dưới các dấu chỉ bánh và rượu là mình và máu Ngài . Chính nhờ lời sáng tạo của Đức Kitô và quyền năng của Chúa Thánh Thần mà bánh và rượu trở thành bí tích và vì vậy “dự phần  vào mình và máu Đức Kitô” (1 Cr 10,16). Từ đây, trong chân lý cuối cùng của chúng, dưới dấu chỉ bên ngoài, chúng là thực tại được ban, và còn là như thế để người ta ăn uống. Cái được ban như mình và máu Đức Kitô thì tiếp tục được ban như mình và máu Đức Kitô, và đòi phải được coi như thế.

20. Nhận thấy sự khác biệt về thực hành trong các Giáo Hội , nhưng rút ra những hệ quả tự thỏa thuận trước đây …, chúng tôi xin :

      – phía công giáo nhắc nhở, đặc biệt trong huấn giáo và giảng thuyết, rằng ý định đầu tiên của việc lưu giữ Thánh Thể là để phân phát cho các bệnh nhân và các người vắng mặt 3 ;

      – phía thệ phản : phải vận dụng cách tốt nhất chứng tỏ sự kính trọng cần có đối với những yếu tố đã dùng để cử hành Thánh Thể, tức là ăn uống chúng sau đó, không loại trừ việc sử dụng chúng cho các bệnh nhân rước lễ.

(Nhóm Dombes, Vers une même foi eucharistique, Accord entre catholiques et protestants, Les Presses de Taizé, 1972, pp. 21-23)

 

Linh mục Micae Trần Đình Quảng

 

 

 

1 Điều này không có nghĩa là là Đức Kitô được định vị trong bánh và rượu, cũng không nghĩa là các sự vật  này biến đổi về phương diện lý hóa (x. Thomas, S.Th. III, 76, 3 à 5 và III, 77, 5-8 ; Calvin, Inst. Chrét., I, 11.13 và IV, 14.18

2 Một vài Giáo Hội Đông Phương (Giáo Hội copte chẳng hạn) không thực hành việc lưu giữ Thánh Thể.

3  Huấn thị Eucharisticum mysterium (25.5.1967) số 49 và 50.

 


Mục Lục