SUY NIỆM THẦN HỌC VÀ TU ĐỨC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc


 

I. DANH XƯNG CỦA THÁNH THẦN.

 

Trong kinh nguyện, Giáo Hội cầu xin Chúa Thánh Thần bằng tên của Người : “Xin hãy đến, lạy Thần Khí Thánh Thiện !”. Thánh Thần là tên thường dùng nhất để kêu cầu Người. Hoặc, như trong thánh thi lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội gọi Người là “Thần Khí Tác Tạo).

 

Chúng ta không tự ý đặt ra danh từ “Thần Khí”. Nhưng đó là tên Đức Giêsu dùng khi Ngài nói đến Đấng mà Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta nhờ lời cầu bầu của Ngài, Đấng mà chính Ngài sẽ gởi đến.

 

Các tác giả cổ xưa trong Cựu Ước, đặc biệt là các ngôn sứ, đã nói đến Thần Khí Thiên Chúa.

 

Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, cùng một chữ vừa có nghĩa là “gió”, vừa ám chỉ sinh khí của hơi thở, vừa ám chỉ thực tại tinh thần thâm sâu nhất.

 

Qua câu chuyện với Nicôđêmô, Đức Giêsu  vận dụng các ý nghĩa khác nhau của cùng một từ ngữ, giúp chúng ta cảm nghiệm Thần Khí trong đời sống, và hiểu được bản thể của Thần Khí.

 

“Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu không sinh ra bởi Nước và Thần Khí, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa. Sự gì sinh ra từ xác thịt là xác thịt, sự gì sinh ra từ Thần Khí là Thần Khí. Đừng ngạc nhiên, khi  Ta nói với ngươi phải tái sinh từ trên cao. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng không biết nó  từ đâu đến và  lại đi đâu. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần thì cũng thế”

(Ga 3, 6-8).

 

Hình ảnh gió là rõ ràng nhất. Nó soi sáng cho chúng ta về vai trò của Thánh Thần. Giống như gió chuyển động và chỉ một hướng tới, trong lòng kẻ tin và tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, chính Thánh Thần là sự chuyển động, lôi cuốn hướng tới mục tiêu mà Ngài xác định. Bình thường, gió không thổi mạnh đến nỗi làm cho chúng ta không cưỡng lại được. Cũng vậy, tác động của Thánh Thần kích thích tự do của chúng ta mãnh liệt, nhưng không ràng buộc. Giống như Êlia ở núi Horeb, chúng ta thường nhận ra sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, không phải trong cuồng phong bão táp, nhưng trong tiếng rì rào êm dịu của cơn gió thoảng đưa. Vậy chúng ta phải sống thế nào để có thể tiếp nhận và chiều theo Thánh Thần.

 

Để nhận biết Thánh Thần muốn chúng ta quay về hướng nào, chúng ta phải làm im bặt những tiếng ồn ào bên ngoài cũng như bên trong thường xuyên xâm chiếm chúng ta. Phải để lòng thật lặng im và thật tỉnh thức để nhận ra được hơi gió thoảng của Tình Yêu Thiên Chúa đang đưa dẫn chúng ta đi theo chiều hướng nào, trong thế giới và xuyên qua thế giới này, để đến với Thiên Chúa cùng với tất cả những ai mà Người đặt để trên con đường của chúng ta.

 

Chính Thánh Thần đưa chúng ta về cùng Thiên Chúa. Khi nói : “Ngươi không biết gió từ đâu và đi đâu” (Ga 3, 8), Đức Giêsu không cố ý nói tới Thánh Thần, cho bằng nói tới kẻ sinh bởi Thánh Thần, được Thánh Thần tác động và thúc đẩy.

 

Ai phó thác cuộc sống mình cho Thánh Thần, có thể bề ngoài vẫn giống như người hành động bởi những nguyên do nhân loại, nhưng thực ra sáng kiến trong cuộc sống của con người ấy đến từ Thiên Chúa. Những kẻ khác có thể hiểu sai, nhưng chính người đó thì biết rất rõ.

 

Chúng ta biết chắc rằng chuyển động của Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta, lôi cuốn chúng ta, kéo chúng ta hướng tới Thiên Chúa, với tất cả những người mà chúng ta được sai đến trong thế gian này.

 

Thánh Ignatiô, Giám mục thành Antiôkia, vào cuối đời, trên con đường đến Rôma, nơi ông sắp chịu tử vì đạo, đã viết cho các kitô-hữu sống trong thành phố này như sau : “Trong tôi, có Nước Hằng Sống vẫn róc rách và thì thầm : Hãy đi về với Cha !” (Ep. Aux Rom 7, 2).

 

Trong câu chuyện với Nicôđêmô, hình ảnh hơi thở, không minh nhiên như là hình ảnh cơn gió, nhưng cũng nói lên điều đó. Đức Giêsu nói đến sự tái sinh. Điều chứng tỏ một đứa trẻ chào đời còn sống, chính là việc hô hấp. Chính hơi thở của Thiên Chúa làm cho con người trở thành hữu thể sống động.

 

Khi Đức Giêsu chết trên thập giá, Người trút hơi thở cuối cùng, thánh Gioan bảo rằng Người trút bỏ Thần Khí.

 

Kinh Thánh dùng hình ảnh này hai lần, một lần lúc khởi đầu Cựu Ước, lần khác khi bắt đầu “Lịch Sử Vượt Qua”. Trình thuật về Tạo Dựng cho chúng ta thấy Thiên Chúa nắn đúc con người với bùn đất trong vườn địa đàng, và thổi vào mũi nó hơi thở sự sống : “Từ lúc đó, con người trở thành hữu thể sống động” (St 2, 4).

 

Buổi chiều Phục Sinh, khi Đức Kitô sống lại hiện ra với các môn đệ và sau khi đã nói “Bình an cho các con”… Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ : “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22).

 

Chúng ta là những kẻ đã được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, chúng ta được sống bằng Thánh Thần, như sống bằng chính hơi thở của Thiên Chúa. Và Hơi Thở thần linh này luôn gìn giữ chúng ta trong vương quốc của Thiên Chúa, như hơi thở của thân xác bảo tồn sự sống thể xác : “Điều gì sinh từ xác thịt là xác thịt, điều gì sinh bỏi Thánh Thần là thần linh” (Ga 3, 6).

 

Tuy nhiên, chúng ta không nên dừng lại ở hình ảnh. Thánh Thần không chỉ là một “cơn gió”, một “sinh khí”, Thánh Thần là một Chủ Vị. Chữ Thánh Thần ám chỉ “thực tại” thiêng liêng, yếu tố “chủ vị” nhất.

 

Thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu điều này : “Ai trong loài người biết rõ những bí mật của con người, nếu không phải là tinh thần ở trong con người. Cũng thế, không ai biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngoại trừ Thánh Thần Thiên Chúa. Thánh Thần dò thấu mọi sự, đến cả những thực tại thần linh thâm sâu nhất” (1Cr 2, 10-11).

 

Để có thể dần dần đi vào những cõi thâm sâu trong Thiên Chúa, chúng ta nên tiếp tục khám phá các danh xưng của Thánh Thần.

 

Ngài là Thần Trí Tác Tạo. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa Cha tạo dựng mọi sự nhờ Lời của Người. Nhưng Thánh Linh cũng xuất hiện như một thần lực sung mãn từ lúc khởi nguyên. Đó là hình ảnh đầu tiên của sách Kinh Thánh : “Lúc khởi nguyên Thiên Chúa tạo dựng trời và đất. Và đất còn là hỗn mang, còn có bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thánh Thần của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 1-2). Chúng ta gặp lại hình ảnh đầu tiên đó trong trang đầu của sách Tin Mừng : “Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, lúc Ngài bước lên khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời mở ra, và Thánh Thần xuống trên Ngài dưới hình bồ câu ; và từ trời có tiếng phán ra : “Này là Con Ta rất yêu dấu, có tất cả tình yêu của Ta” (Mc 1, 11).

 

Thần Trí Tác Tạo viếng thăm tinh thần con người, đổ đầy các tâm hồn, vì đó là “lãnh địa” của Người, do chính Người tạo nên. Kinh “Veni Creator” nhấn mạnh : xin Ngài hãy viếng thăm những kẻ thuộc về Ngài, xin Ngài hãy đổ đầy ân sủng trên những tâm hồn Ngài đã tạo dựng.

 

Trong vũ trụ được tạo thành này, nơi mà mọi sự đều có cùng đích, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta quy hướng về Ngài, nhờ Đức Kitô và trong Thánh Thần : “Mọi sự đều thuộc về anh em, thế gian, sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai, mọi sự đều thuộc về anh em, nhưng anh em  thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3, 21-23). “Lạy Chúa, Ngài đã tạo dựng nên chúng con vì Ngài, và tâm hồn chúng con không bao giờ an nghỉ cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”  (Augustinô, Conf. 1, 1).

 

Tâm hồn của chúng ta, thực tại thâm sâu nhất trong chúng ta, tự bản chất rất phù hợp với việc Thánh Thần đến, Người là Đấng muốn biến nó thành nơi cư ngụ, vượt trên mọi khả thể và đòi hỏi tự nhiên. Thánh Thần biết rõ các tâm hồn Người đã tạo nên. Người cư ngụ như ở trong nhà Người, vì các tâm hồn thuộc về Người.

 

Và Thần Trí Tác Tạo ấy là Thần Trí Thánh Thiện. Đó là Thánh Thần của Thiên Chúa, như Phaolô vẫn thường nói. Trong Kinh Thánh, sự thánh thiện thuộc về yếu tính của Thiên Chúa. Thánh Vịnh thường lập lại “Người là Đấng Thánh của Israel”. Trong sách Tin Mừng, Đức Giêsu được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Người thị kiến trong sách Khải Huyền cũng tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh, là Đấng Chân Thật. Sự thánh thiện vừa diễn tả khía cạnh siêu việt của huyền nhiệm Thiên Chúa, vừa ám chỉ sự tiếp xúc của Ngài với con người.

 

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không ngừng lập lại với Dân Người : “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta, Giavê, Thiên Chúa các ngươi là Đấng Thánh” (Lv 19, 2). Nhưng con người không thể đến gần sự thánh thiện bằng những lề luật bên ngoài.

 

Khoảng cách vô hạn mà tội lỗi đã tạo ra giữa Thiên Chúa chí thánh và sự yếu đuối của chúng ta đã được Chúa Kitô xóa bỏ. Trên thập giá, Người đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa nhờ Máu của Người. Thánh Thần là dấu chỉ của sự giải hòa ; chúng ta đã được “ghi ấn tín Thánh Thần” (Ep 1, 13)

Lại một lần nữa, hình ảnh bất động không diễn tả nỗi thực tại sinh động.

 

Không phải chỉ là dấu vết, nhưng là sự hiện diện thường hằng của một Chủ Vị là chính sự Thánh Thiện của Thiên Chúa. Đối với chúng ta là những kẻ tội lỗi, Người hiện diện gần kề khôn tả.

 

Một danh xưng khác của Chúa Thánh Thần biểu lộ sự hiện diện của một Chủ Vị. Kinh nguyện của Giáo Hội thích lập lại danh xưng này : “Ngài là Đấng Bầu Chữa”. Theo sách Tin Mừng, chính Đức Giêsu gán cho Người danh xưng này.

 

Từ ngữ “Paraclet” gợi lên hình ảnh của một người luôn luôn hiện diện để cứu giúp. Khi ở giữa các môn đệ, Đức Giêsu là một Đấng Bầu Chữa đối với họ. Ngài hiện diện để khuyến khích, nâng đỡ và củng cố các môn đệ. Nhưng Đức Giêsu chỉ ở giữa họ một thời gian. Khi rời bỏ họ, Ngài đã hứa : “Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác để Người hiện diện với các ngươi luôn mãi” (Ga 14, 16). Và sự hiện diện thường xuyên,không giống như sự hiện diện nhất thời của Đức Giêsu khi còn tại thế, là một sự hiện diện không thể thay thế được : “Ta bảo thật với các ngươi, ta ra đi thì  tốt cho các ngươi hơn  ; vì nếu Ta không ra  đi, Đấng Bầu Chữa sẽ không đến với các ngươi ; nhưng nếu Ta ra đi, Ta sẽ gởi Ngài đến với các ngươi” (Ga 16, 1).

 

Đấng Bầu Chữa đang hiện diện, luôn luôn canh chừng và tác động. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể nương tựa vào sự hiện diện của Người.

 

Đức Giêsu hứa ban sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trong các trường hợp bị bách hại : “Thánh Thần của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi”.

 

Đừng nghĩ rằng Thánh Thần chỉ giúp chúng ta trong cơn nguy khốn, Ngài còn giúp đỡ chúng ta lúc chúng ta hạnh phúc. Người luôn hiện diện. “Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Ta sẽ dạy các ngươi tất cả, sẽ nhắc lại cho các ngươi tất cả những điều Ta đã nói với các ngươi” (Ga 14, 26).

 

Mọi nhiệm vụ tông đồ, mọi sự chia sẻ đời sống, mọi gặp gỡ với con người, phải khai mở chúng ta để chúng ta có được cảm nghiệm kỳ diệu ấy : “Thánh Thần của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi”.

 

Thánh Thần không những chỉ giúp chúng ta trong việc chúng ta đến với con người và đón nhận biến cố, nhưng còn trợ giúp để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Cha… Biết đến với Chúa Cha cũng quan trọng như biết đến với con người. Nhưng thường chúng ta ít nghĩ tới. Nếu một mình chúng ta, thì chúng ta bất lực, nhưng chúng ta không ở một mình, có Thánh Thần hiện diện giúp đỡ chúng ta : “Thánh Thần đến giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta, vì chúng ta kh6ng biết phải cầu nguyện thế nào cho đúng, nhưng chính Thánh Thần cầu bầu cho chúng ta bằng những lời rên rỉ khôn tả ; và Đấng thấu suốt các tâm hồn nhận ra ước muốn của Thánh Thần, và Ngài cầu bầu theo ý của Thiên Chúa cho các thánh” (Rm 8, 26-27).

 

 

 

II. SỨ VỤ CỦA CHÚA THÁNH THẦN.

 

Chúa Thánh Thần chưa được minh nhiên mạc khải trong thời Cựu Ước, nhưng Người đã hoạt động từ thời khai thiên lập địa. Người là “Khí Thần” mà Thiên Chúa ban cho mọi loài, để hiện hữu và sinh hoạt. Người là Sức Mạnh thần linh của Thiên Chúa không ngừng tác động, làm thay đổi các cục diện lịch sử. Người là Thần Trí mà Thiên Chúa cho nhân loại được chia sẻ, nhất là phần nhân loại được tuyển chọn là Dân Thiên Chúa, và các vị lãnh đạo trong Dân. Người là Thánh Thần ngôn sứ hoạt động nơi các tiên tri, để các ngài có thể nói thay cho Thiên Chúa, biểu lộ giáo huấn của Thiên Chúa và giáo huấn Dân theo thánh ý của Thiên Chúa.

 

Thời Cựu Ước chỉ là thời chuẩn bị, nên Thánh Thần chưa được ban đầy đủ. Phải chờ đến thời đại Tân Ước cũng là thời đại cánh chung, thời viên mãn, thời Giao Ước mới và vĩnh cửu. Vào thời sau hết, Thiên Chúa nói với nhân loại qua một Người Con là Đức Giêsu Kitô (Dt 1, 2). Người Con ấy là Ngôn Sứ cuối cùng và hoàn hảo nhất, là vị Tiên Tri đầy Thánh Thần. Người Con ấy được gọi là Đấng Kitô, vì được xức dầu Thánh Thần. Thánh Thần bắt đầu được mạc khải như một ngôi vị thần linh, mà hoạt động gắn liền và đi đôi với sứ mạng của Đức Giêsu.

 

Chúa Cha sai Chúa Con đến trần gian. Chúa Con đến trần gian nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần :  “Thánh Thần  sẽ  đến  trên Người    Quyền Năng  Đấng Tối Cao  trên Người  rợp  bóng” (Lc 1, 35). Đức Giêsu Kitô bắt đầu công việc rao giảng Nước Thiên Chúa trong sức mạnh và ánh sáng của Thánh Thần Thiên Chúa. Người đã làm mọi việc trong Thánh Thần, nói mọi lời trong Thánh Thần. Quan trọng hơn cả là “nhờ Thần Khí Hằng Có mà Người hiến mình làm lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14). Và Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết nhờ bởi Thần Khí (Rm 8, 11).

 

Thời gian thực sự dành cho Thánh Thần là lúc Đức Giêsu đã ra đi (Ga 16, 17), lúc Người đã được tôn vinh (Ga 7, 39). Bấy giờ Chúa Cha mới thực sự sai Thánh Thần đến, do lời cầu xin của Đức Giêsu Kitô (Ga 14, 16).  Cũng  có thể  nói rằng chính Đức Giêsu sai Thánh Thần  đến từ nơi Cha  (Ga 15, 26).

 

Giai đoạn hậu Phục Sinh là giai đoạn của Hội Thánh ; nên sứ vụ của Thánh Thần gắn liền, thậm chí trùng hợp với sứ vụ của Hội Thánh. Trên một bình diện, Thánh Thần có cùng sứ vụ với Hội Thánh : sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô (Ga 15, 26-27). Nói khác đi, đó là hai mặt của cùng một sứ vụ : hữu hình và vô hình ; hai mặt không thể tách rời.

 

Sứ vụ làm chứng ấy, Thánh Thần đã thi hành cách hữu hiệu và lạ lùng thời khai sinh Giáo Hội. Ngày hôm nay Người vẫn tiếp tục không ngừng thi hành sứ vụ. Chúa Thánh Thần có nhiều cách làm chứng cho Chúa Kitô mà chúng ta không thể biết hết được, vì Người “như gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3, 8). Nhưng thường Người làm chứng bằng cách tác động bên trong chứng từ của Hội Thánh, để chứng từ này trở thành chứng từ thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

 

Trên một bình diện khác, Chúa Thánh Thần có sứ mạng đối với Hội Thánh. Người là Đấng An Ủi mà Chúa Cha ban cho Hội Thánh trong lời cầu xin của Đức Giêsu (Ga 14, 16). Người ở cùng Hội Thánh, ở trong Hội Thánh (Ga 14, 17), để nâng đỡ, khích lệ và giáo huấn Hội Thánh, đưa Hội Thánh mỗi ngày một đi sâu vào mạc khải của Chúa Kitô (Ga 16, 13), đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Người thực hiện sứ vụ ấy nơi từng người kitô-hữu (đặc biệt hơn cả nơi các thừa tác viên của Hội Thánh, nơi Hàng Giáo Phẩm).

 

Chúa Thánh Thần không ngừng xây dựng và làm cho Hội Thánh được hình thành. Mọi người nhờ Thần Khí độc nhất mà gia nhập Thân Mình độc nhất là Hội Thánh (1Cr 12, 13). Thánh Thần trang bị Hội Thánh bằng khí giới Lời Chúa, bằng các đặc sủng (1Cr 12, 4-11) và các bí tích.

 

Chúa Thánh Thần hướng dẫn Hội Thánh thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa, thực hiện mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô. Nhiều khi, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần rất cụ thể ; Người thúc đẩy đến với dân ngoại (Cv 8, 29-30 ; 10, 1-9 ; 11, 12). Thánh Thần còn giúp cho Hội Thánh đề ra những quuyết định sáng suốt, giải quyết những khủng hoảng hay các vấn đề nan giải trong Hội Thánh (Cv 15, 28-29), giúp Hội Thánh đặt hàng giáo phẩm và niên trưởng lãnh đạo Hội Thánh (Cv 20, 28).

III. SỰ HIỆN DIỆN TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN NƠI CHÚNG TA.

 

Thánh Phaolô lập đi lập lại nhiều lần “chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”, “Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta” (1Cr 3, 16 ; 6, 19 ; Rm 8, 11) :

 

“Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, va Thần Khí của Thiên Chúa cư ngụ trong anh em” (1Cr 3, 16).

 

“Thân mình anh em là Đền Thờ của Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em, Đấng anh em lãnh lấy từ Thiên Chúa, và anh em không thucộ về mình nữa” (1Cr 6, 19).

 

Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta như một vị khách thần linh. Người hay đến thăm viếng chúng ta, và bằng nhiều cách, qua con đường tư tưởng hay tâm tình. Nếu chúng ta quen đón, thì Người thường xuyên đến. Nếu chúng ta không đón, Người sẽ không đến.

 

Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta như một người yêu. Người rất yêu dấu chúng ta, muốn sự lành cho chúng ta, muốn tất cả những gì tốt nhất cho chúng ta. Người hiện diện thâm sâu trong chúng ta, như một người yêu trong một người yêu, và còn hơn thế nữa.

 

Chúa Thánh Thần còn hiện diện trong chúng ta như một hồng ân,  như một quà tặng ; tặng phẩm lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, mà Đức Giêsu mang đến cho chúng ta. Chúa Thánh Thần là hồng ân lớn nhất ; Chúa Kitô biết điều đó, nên Người thúc giục chúng ta cầu nguyện ; bao giờ Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta nhiều hơn là chúng ta xin, “Người ban Thánh Thần cho chúng ta” (Lc 11, 13).

 

Chúa Thánh Thần là mối dây ràng buộc, nối kết chúng ta với Chúa Kitô và Thiên Chúa. Thánh Thần đưa chúng ta vào trong Chúa Kitô, vào trong Thiên Chúa. Hay nói ngược lại, Chúa Thánh Thần đưa Chúa Kitô, đưa Thiên Chúa vào trong chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà có Chúa Kitô ở trong chúng ta, chúng ta là những người mang Chúa Kitô. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng  ta bao  trùm chúng ta,  ảnh hưởng trên  con người chúng  ta,  biến  đổi con  người chúng ta (Lc 9, 28-29).

 

Phaolô còn nói “Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nhờ Thánh Thần, bởi Thánh Thần dò thấu mọi sự, cả những điều sâu thẳm nhất” (1Cr 2, 10-11).

 

Nếu nơi Thiên Chúa là Đấng vô phương dò thấu, mà Chúa Thánh Thần còn dò thấu mọi sự, huống chi là tâm hồn chúng ta. Người biết rõ chúng ta cần gì, muốn gì. Mọi sự, dù chỉ manh nha nơi chúng ta, Người đều biết. Chúng ta có thể lừa dối người đời, nhưng không thể lừa dối Thánh Thần. Từ “dò thấu” cừa chỉ chiều sâu, vừa chỉ sự thấu suốt. Chúa Thánh Thần là ánh sáng chiếu soi, làm cho mỗi người chúng ta trở nên trong suốt, không còn u tối nữa.

 

Vì là Đấng thấu suốt mọi sự, Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý, Thầy dạy yêu thương, Thầy dạy lắng nghe, Thầy dạy thực hiện thánh ý Thiên Chúa, Thầy dạy nói với Thiên Chúa và nói về Thiên Chúa : “đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sai đến nhân danh Ta, chính Người sẽ dạy cho các ngươi mọi sự” (Ga 14, 26 ; 16, 13). Người dạy cho chúng ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Người dạy cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa, không những cách lý thuyết, mà còn kinh nghiệm, cảm nghiệm được tình yêu ấy. Chúng ta chỉ có thể có những kinh nghiệm thiêng liêng nhờ Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận ra biết bao nhiêu hồng ân mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta (1Cr 2, 12).

 

Thánh Thần dạy chúng ta nói về mầu nhiệm, về sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Các điều ấy chúng tôi nói lên, không bằng những lời lẽ học đòi nơi sự không ngoan của người đời, nhưng là bang72 những lòi lẽ của Thần Khí dạy cho, đem những điều thần thiêng giải bày cho những người thần thiêng” (1Cr 2, 13).

 

Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn cách sống làm con Thiên Chúa : “Phàm ai được Thần Khí dẫn đưa, thì họ là con cái Thiên Chúa” (Rm 8, 11).

 

 

IV. CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG THIẾT LẬP CÁC TƯƠNG GIAO.

 

Thế giới chúng ta, đặc biệt là những người trẻ, rất cần những giá trị thiêng liêng, cần sự sống tinh thần.

 

- Thánh Thần là Vị Thiên Chúa “nâng con người lên”, “thần linh hóa con người”, làm cho con     người trở nên thiêng liêng cao cả.

 

- Thánh Thần còn là vị Thiên Chúa thiết lập các tương giao, là đó là điều mà mỗi người kitô-hữu chúng ta chờ đợi nơi Ngài để sống đạo cách sâu xa và thực tế.              

 

Tác động của Chúa Thánh Thần : Trao đổi, tương giao, đối thoại, tiếp xúc, gặp gỡ (Communication).

 

a. Tương giao với Chúa Kitô và Thiên Chúa.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hướng về Chúa Kitô, lắng nghe, tin tưởng Chúa Kitô, và muốn làm đẹp lòng Ngài.

 

Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên giống bà Maria trong gia đình Bêtania, sung sướng hạnh phúc được ở gần bên Chúa, tiếp xúc, nói chuyện với Chúa.

 

Thánh Thần làm cho chúng ta hướng về Chúa Cha, muốn làm vinh danh Cha, chúc tụng, ngợi khen Cha, muốn tỏ bày lòng hiếu thảo với Chúa Cha (abba).

 

Trường hợp chúng ta đang ở xa Thiên Chúa, Thánh Thần thúc đẩy chúng ta, làm cho chúng ta mạnh dạn trở về. Thánh Thần là “nhịp cầu”, là “gạch nối”, là “thang” đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần, chúng ta không còn cảm thấy Thiên Chúa xa vời, không còn thấy lòng khô khan nguội lạnh.

 

Thánh Thần là ơn thông hiệp, kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên mật thiết, khăng khít với Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở thảnh người môn đệ, người bạn hữu, người yêu của Chúa Kitô. Được kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta nên một với Thiên Chúa.

 

b. Với Hội Thánh.

 

“Đâu có Hội Thánh, đó có Thánh Thần”.

 

Có giáo phụ nói : “Đâu có Thánh Thần, đó có Hội Thánh”.

 

Hội Thánh gắn liền với Chúa Thánh Thần. Hội Thánh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

 

Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ yêu mến Hội Thánh, gắn bó với Hội Thánh, sẵn sáng phục vụ Hội Thánh. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta vui sướng tiếp xúc với Hội Thánh, sống trong Hội Thánh. Tiếp xúc với Hội Thánh sâu xa hơn cả là tiếp nhận và sống các bí tích trong Hội Thánh. Có Chúa Thánh Thần, chúng ta sung sướng tiếp xúc với các kitô-hữu khác trong Hội Thánh.

 

c. Tiếp xúc với những người lân cận, những người chúng ta gặp gỡ.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta yêu những người sống gần chúng ta, khiến chúng ta cảm thấy dễ chịu, thoải mái, hạnh phúc trong đời sống Cộng Đoàn.

 

Chúa Thánh Thần làm cho tâm hồn nên quảng đại, chấp nhận, tha thứ, quý mến, muốn làm điều lành cho anh chị em.

 

Chúa Thánh Thần là dây liên kết trong tình bác ái, là sức mạnh tình yêu hiệp thông, nối kết làm cho chúng ta nên một. Thông thường, Chúa Thánh Thần bối kết chúng ta với Chúa Kitô trước, rồi từ đó nối kết chúng ta với anh chị em.

 

d. Chúa Thánh Thần cũng làm cho chúng ta vui sướng khi gặp gỡ.

 

Thánh Thần cho chúng ta cảm nếm niềm vui gặp gỡ, và niềm vui đó lan toả đến tha nhân. Họ sung sướng vì cảm thấy được yêu thương và kính trọng.

 

Chúa Thánh Thần dạy chúng ta cách tiếp xúc với tha nhân, không thuần tuý là xã giao mà là cách tiếp xúc có chiều sâu, đem lại sự sống, sinh lợi ích cho tha nhân cũng như cho mình.

 

e. Chúa Thánh Thần cũng dạy chúng ta cách tiếp xúc với người chưa biết Chúa Kitô.

 

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên giống Chúa Kitô ngay trong việc tiếp xúc. Ngài làm cho người chưa biết Chúa “cảm nghiệm” một điều gì đó nơi chúng ta khiến họ vui mừng, được an ủi, an tâm.

 

V. CHÚA THÁNH THẦN, THẦY DẠY YÊU THƯƠNG.

 

Thiên Chúa là “Lòng Mến”, Thiên Chúa là “Tình Yêu”. “Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 7t).

 

Nếu chúng ta không yêu thương, thì chúng ta không biết Thiên Chúa, và không có sự sống đời đời.

 

Nhưng tình yêu nơi chúng ta không bắt nguồn từ chúng ta, mà bắt nguồn từ Thiên Chúa. “Thiên Chúa  đã yêu  mến chúng  ta trước  và đã  sai Con  của Người  đến  làm lễ hy   sinh vì  chúng  ta” (1Ga 4, 10).

 

1Ga 4, 11-13 nhấn mạnh “Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu mến nhau. Nếu chúng ta yêu mến nhau, Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Dấu hiệu chúng ta lưu lại trong Người, Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta”.

 

Phaolô cũng khẳng định lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta” (Rm 5, 5).

 

“Yêu thương như Thiên Chúa” (x. 1Ga 4, 11), “yêu thương như Đức Giêsu” (Ga 15, 12) là những đòi hỏi quá lớn đối với chúng ta, chúng ta không thể nào thực hiện được. Chỉ có một cách duy nhất là, nhờ Chúa Thánh Thần, là “Sức Mạnh Tình Yêu của Thiên Chúa”, của Đức Kitô ở trong chúng ta, yêu mến chúng ta. Chúng ta yêu mến nhờ Thánh Thần, bằng tình yêu của Thánh Thần. Đó mới là “đức ái siêu nhiên”. Và đó là điều Thiên Chúa muốn.

 

Chỉ khi nào có một cái nhìn siêu nhiên như thế về đức ái, chúng ta mới hiểu được Bài Ca Đức Ái trong 1Cr 13, 1-13.

 

Trong bài ca này, một đàng Phaolô dùng ngôn ngữ rất siêu nhiên, phải có quan điểm rất siêu nhiên mới hiểu được.

 

- Nếu có mọi thứ tài mà không có lòng mến, thì chỉ như cái thùng rỗng kêu to (c. 1).

 

- Nếu có nhiều ơn, cả những ơn trọng đại, mà không có lòng mến, thì vẫn là số không.

 

- Nếu cho đi tất cả, hy sinh mạng sống, mà không có lòng mến, cũng chỉ là hư vô.

 

Lòng mến ở đây phải hiểu theo nghĩa hoàn toàn siêu nhiên, và đó là Tình Yêu của Thiên Chúa trong chúng ta, là Thánh Thần của Thiên Chúa trong chúng ta.

 

Nhưng đàng khác, khi kê khai những đặc tính của lòng mến (khoan dung, không ghen tuông, không ích kỷ, không tự mãn, kính tin, trông cậy, kiên nhẫn, không chấp nhất, không ba hoa, không khiếm nhã, biết chia vui… (c. 4-7), chúng ta thấy một ngôn ngữ hết sức tự nhiên, gần gũi, thực tế.

 

Ngôn ngữ tự nhiên không đi ngược với ngôn ngữ siêu nhiên, nhưng hài hòa với ngôn ngữ siêu nhiên, được lồng vào ngôn ngữ siêu nhiên. Những yếu tố tự nhiên tốt đẹp nơi chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, và phải luôn luôn bắt nguồn từ đó.

 

Nói cách khác, Chúa Thánh Thần, Vị Thầy dạy yêu mến, làm việc nơi con người chúng ta bằng những đường lối nhân bản, phù hợp với con người. Chúa Thánh Thần, Tác Giả của biến cố Nhập Thể, sẽ làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô, Hình Ảnh trọn hảo của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên những người con, giống Con  Yêu Dấu của Thiên Chúa. Bài học yêu thương theo chiều đứng, và yêu thương theo chiều ngang gắn liền và đi đôi với nhau. Tình yêu đối với anh em là bằng chứng tình yêu đối với Thiên Chúa (1Ga 4, 20-21). Tình yêu đối với Thiên Chúa là “nguồn sống” của tình yêu đối với anh em.

 

VI. CHÚA THÁNH THẦN, SỨC MẠNH TÌNH YÊU LÀM CHO CHẾT VÀ LÀM CHO SỐNG.

 

Thánh Thần là sức mạnh tình yêu mà qua đó Chúa Cha trao ban trọn vẹn bản thân mình cho Chúa Con, và Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ Cha và dâng lại cho Cha, vì thế Chúa Thánh Thần là Tình Yêu Hiệp Thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

1.Sự hiệp thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi không là một tương quan đóng kín (chu trình kín), nhưng là tình yêu mở rộng. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa cởi mở, vì Thánh Thần của Người là thần linh cởi mở (Esprit ouvert).

 

Chính Sức Mạnh Tình Yêu đã mở toang Mầu nhiệm Thiên Chúa cho chúng ta, để chúng ta được thông dự, được đưa vào lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính nhờ sự mở toang này, mới có Mạc Khải, mới có cứu độ (x. 1Cr2, 10-11).

 

Có thể nói cách khác : Sức Mạnh Tình Yêu Là Chúa Thánh Thần đã khiến Chúa Cha ban cho chúng ta Đức Giêsu Kitô, và Chúa Thánh Thần đã đưa Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta từ nơi Thiên Chúa. Người cũng sẽ đưa chúng ta về với Thiên Chúa cùng với Đức Giêsu Kitô.

 

Để Thánh Thần có thể đưa chúng ta về với Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Người phải đến và ở lại với chúng ta. Nhưng Người chỉ đến khi Chúa Giêsu ra đi : “Nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa không đến với các ngươi” (Ga 16, 7).

 

Chúa Thánh Thần của thời đại Tân Ước gắn liền với thập giá Đức Kitô. Trước hết, chính Chúa Thánh Thần làm cho cái chết bi thảm của Chúa Giêsu trở thành “của lễ vô tì tích dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14). Trong Cựu Ước, Lửa là dấu hiệu Giao Ước dã được Thiên Chúa ký kết ; Lửa cũng là dấu hiệu Thiên Chúa đã đón nhận của lễ hiến dâng. Trong Tân Ước, Thánh Thần là dấu hiệu Thiên Chúa đã nhận Của Lễ của Chúa Giêsu Kitô : Chúa Cha nhận sự Dâng Hiến của Chúa Con (x. Dt 9, 11-14 ; 5, 7-9… ; Cv 2, 33).

 

Theo Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong thông điệp “Dominum et Vivificatem” (1981), Chúa Thánh Thần được mạc khải và hiện diện như “Tình Yêu” hoạt động trong thẳm sâu của mầu nhiệm Vượt Qua, như  Nguồn Sức Mạnh Cứu Độ của thập giá Đức Kitô, như Hồng Ân “sự sống mới và vĩnh cửu” (số 41). Chúa Thánh Thần như dòng nước chảy ra từ cạnh sườn Ađam Mới là Đức Kitô. Nước ấy chảy đến đâu, thì vừa thanh tẩy, vừa mang lại sự sống ở đó.

 

Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, là “Khí Thần” của Thiên Chúa, đến với chúng ta qua Chúa Kitô, thì cũng đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa qua Chúa Kitô.

 

Để được nhận làm “Con Thiên Chúa” (Rm 8,15 ; Ga 4, 4-7), cùng với Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, Kitô hóa chúng ta, làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.

 

2. Chúa Thánh Thần thực hiện việc này : trước hết, bằng cách “kết án” chúng ta. Người là Vị Thẩm Phán Chí Công. Người thấu suốt tâm hồn chúng ta ; làm cho chúng ta nhận ra sự thực về bản thân mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Người làm cho chúng ta thấy tội của mình, nhưng không làm cho chúng ta thất vọng vì chính Người là Nguồn Hy Vọng, Người vừa làm cho  chúng ta biết  Chúa,  vừa cho  chúng  ta biết  mình : “Người đưa chúng ta vào tất cả sự thật” (Ga 16, 13).

 

Chính Người khi kết án chúng ta, Người cho chúng ta thấy mình cần ơn cứu độ, khơi dậy nơi chúng ta lòng tin tưởng và niềm hy vọng, thúc đẩy chúng ta đến với Chúa Kitô.

 

Chúa Thánh Thần không những “tố cáo” chúng ta mà còn thanh luyện tâm hồn chúng ta. Người là Lửa thiêu huỷ những gì còn bợn nhơ trong cuộc đời chúng ta. Công việc này của Người làm chúng ta đau đớn, nhưng bù lại, Người làm cho chúng ta được thông phần Hy Tế thập giá của Chúa Kitô.

 

Chúa Thánh Thần còn dạy dỗ chúng ta. Người là Thầy Dạy Nội Tâm. Người bảo tồn và nội giới hóa giáo huấn của Chúa Kitô. Người làm cho chúng ta mỗi ngày hiểu Chúa Kitô, yêu Chúa Kitô hơn. Người đưa Chúa Kitô vào trong tâm hồn chúng ta và đưa chúng ta vào tất cả sự thật, vào quỹ đạo Tình Yêu Ba Ngôi.

 

Chúa Thánh Thần  là Thần Khí  Anh Dũng  giúp chúng  ta chiến  thắng các  việc vàn của xác thịt (Gl 5, 16-25).

 

Chúa Thánh Thần còn là Đấng Soi Sáng, ban cho chúng ta nhãn quan của Thiên Chúa, tư tưởng của Đức Kitô (1Cr 2, 14-16).

 

Chúa Thánh Thần đổi mới tâm trí chúng ta hướng về lãnh vực thần thiêng (Rm 8, 5-9), ban cho chúng ta “nhạy cảm thiêng liêng”, đồng thời làm cho chúng ta nhạy cảm về những giá trị con người (valeurs humaines). Chúa Thánh Thần vừa “thần linh hóa” vừa “nhân bản hóa” chúng ta. Thần linh hóa bằng con đường nhân bản, nhân bản hóa bằng con đường thần linh. Người làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là con người và là Người Con của Thiên Chúa.

 

VII. CHÚA THÁNH THẦN VÀ THẬP GIÁ CHÚA KITÔ.

 

Khi nhìn lên Thập Giá Chúa Kitô, có lẽ ít người ý thức về vai trò của Chúa Thánh Thần. Thường chúng ta chỉ nghĩ đến cái chết đau thương của Chúa Giêsu hay công nghiệp của Ngài. Có lẽ vì không nghĩ tới Chúa Thánh Thần và tương quan giữa Người với cái chết của Chúa Giêsu, nên chúng ta khó nhận ra sự sống phát sinh từ cái chết của Chúa.

 

Dưới ánh sáng của khoa Thánh-Linh-học hôm nay, mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô trở nên phong phú và sống động hơn. Ở đây, chúng ta nỗ lực nhìn mầu nhiệm Thập Giá dưới ánh sáng của Ba Ngôi Thiên Chúa, và đặc biệt chú trọng tới vai trò của Chúa Thánh Thần.

 

A.CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA.

 

Chúng ta thường nói Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Thiên Chúa. Thành ngữ đó đúng, nhưng chúng ta cũng có thể dùng một cách nói khác, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về Thiên Chúa : Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh Yêu Thương của Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa.

 

Chúa Giêsu là người hiểu sức mạnh yêu thương này hơn ai hết, vì Ngài ở nơi Thiên Chúa (Ga 1, 1). Chính Chúa Giêsu đã nói : “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế, đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Câu nói đó nằm trong văn mạch đề cập đến cuộc khổ nạn của Chúa : “Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải bị giương cao như vậy…” (Ga 3, 14). Rõ ràng là khi nói về thập giá của mình, điều đầu tiên Chúa nói là về Tình Yêu của Chúa Cha, Sức Mạnh Yêu Thương nơi Chúa Cha.

 

Phaolô, chắc chắn đã thâm hiểu mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô, nên đã có một câu nói tương tự về cái chết của Chúa : “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy…” (Rm 8, 32). Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu xa câu nói đó của Phaolô, khi liên tưởng  đến  dụ ngôn  những người tá điền gian ác  trong  các  sách Tin Mừng  Matthêu và  Marcô (Mt 21, 33-46 ; Mc 12, 1-12). Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng các sứ giả ấy, kẻ thì bị hành hạ, kẻ thì bị giết chết. Cuối cùng Ngài phải liều lĩnh sai chính Con Một của mình đến, hy vọng Người Con ấy sẽ được kiêng nể. Nhưng rồi Con Một Người cũng bị giết chết. Quả thật là một sự liều mình của Thiên Chúa. Chúng ta không thể hiểu được tình yêu lạ lùng này, nếu không nghĩ đến Chúa Thánh Thần như một sức mạnh yêu thương vô bờ nơi Thiên Chúa.

 

B. CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH YÊU THƯƠNG CỦA ĐỨC KITÔ, CON THIÊN CHÚA.

 

Thần Khí Chúa Kitô cũng là Tình Yêu đối với Chúa Cha, làm cho Chúa Kitô không ngừng khao khát Chúa Cha. Tâm hồn, trái tim của Người luôn hướng về Cha. Sự khao khát đó bộc lộ rõ trong những lời cuối cùng của Chúa Kitô : “Ta khát” (Ga 19, 28).

 

Giờ mà Chúa Kitô không ngừng hướng tới là Giờ Vượt Qua, để được trở về cùng Cha, kết hiệp với Cha, nên một với Cha. Trong Ngài như có một ngọn lửa tình yêu thiêu đốt, nung nấu, ban cho Ngài sức mạnh. Tình Yêu ấy là Thần Khí hằng có nơi Ngài. Tác giả thư Dothái thấy rất rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong cái chết dâng hiến  của Chúa Giêsu : “… Máu của Đức Kitô, Đấng nhờ Thần Khí hằng có mà hiến mình làm hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa…” (Dt 9, 14).

 

Thông điệp Dominum et vivificatem của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cũng nhấn mạnh : Thánh Thần là Tình Yêu hoạt động thẳm sâu trong lòng Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, biến đau khổ thành Tình Yêu Cứu Độ (Dominum et Viv. Số 39). Chúa Thánh Thần như ở trong lòng Hy Tế Thập Giá : ở trong linh hồn, trong trái tim vị Thượng Tế ; Chúa Thánh Thần ở trong  của lễ hy sinh vô tí tích, và vì thế, Hy tế trở thành Hy tế vĩnh cửu, bất diệt.

 

Chúa Kitô yêu mến Chúa Cha như thế nào, thì Ngài yêu mến nhân loại như vậy. Vì đó là “cùng một tình yêu” nơi Ngài, cùng một Thánh Thần nơi Ngài. Như Ngài sẵn sàng dâng hiến mạng sống cho Chúa Cha làm của lễ, Ngài sẵn sàng hy sinh sự sống vì chúng ta. Cái chết của Ngài là một sự tự hiến để trở nên của ăn  cho chúng ta. “Không tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu đã khiến Người sẵn sàng trả giá đắt (1Cr 6, 20).

 

Khi  người lính  cầm lưỡi  đòng  đâm thấu  cạnh sườn  Chúa Giêsu,  tức  thì  máu và nước chảy  ra (Ga 19, 34). Nước là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, như tình yêu lai láng, chảy đến đâu thì mang sự sống đến đó. Người đầu tiên dưới chân thập giá, uống từ dòng nước lai láng ấy, là Mẹ Maria, là người tín hữu kitô đầu tiên, là người đầu tiên được cứu độ.

 

Chính dòng nước chảy từ cạnh sườn ấy đã biến thập giá thành Thánh Giá, thành Nguồn Ơn Cứu Độ.   chính Thánh  Thần cũng  biến cái  chết bi  thảm  của Chúa Giêsu thành  cái chết  vinh  quang (Ga 16, 14), cái chết mang lại sự sống. Các giáo phụ đã ví thập giá của Chúa Giêsu như cây trường sinh. Và chỉ có thể hái được hoa quả trường sinh từ Thập Giá Đức Kitô mà thôi. Hoa quả trường sinh này, chính là Thánh Thần ban sự sống, chính là Thần Khí của Thiên Chúa, cũng là Thần Khí Đức Kitô mà chúng ta lãnh nhận từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa. Chính vì thế mà Thánh Giá Chúa Kitô là nguồn suối của tình yêu, bình an, hạnh phúc.

 

VIII. THÁNH THẦN PHỤC SINH.

 

Kỳ công lớn nhất của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ là “làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Một trong những thành ngữ quan trọng được Giáo Hội sơ khai dùng để chỉ Thiên Chúa là “Đấng đã Phục Sinh Đức Giêsu”.

 

Thiên Chúa Phục Sinh Đức Giêsu bằng Tình Yêu của Người. Tình Yêu ấy là Thánh Thần. Thiên Chúa phục sinh Đức Giêsu nhờ Quyền Năng của Người. Quyền Năng ấy cũng là Thánh Thần. Tình Yêu nơi Thiên Chúa là Quyền Năng. Quyền Năng nơi Thiên Chúa là tình Yêu.

 

Chúa Cha sinh ra Chúa Con trong Tình Yêu và bằng Tình Yêu là Chúa Thánh Thần. Sự Nhiệm Sinh Vĩnh Hằng này được mạc khải qua biến cố Nhập Thể ; lúc Đức Giêsu chịu phép rửa, nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha ; nhưng cao điểm của mạc khải là cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu.

 

Thánh Thần là sự sống (Thần Khí) mà Chúa Cha ban cho Đức Giêsu. Chính sự sống vô biên này làm cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết. Chính vì thế mà Thánh Thần được gọi là Thánh Thần Phục Sinh,  Thánh Thần của Đấng Phục Sinh Đức Giêsu (Rm 8, 11), hay Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh. Cha sinh ra Con trong Tình yêu và bằng Tình Yêu. Cha Phục Sinh Con trong tình Yêu và bằng Tình yêu. Trong những bài giảng đầu tiên, các Tông Đồ trích thánh vịnh 2 để trình bày biến cố Phục Sinh : “Ngươi là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con” (Cv 13, 33).

 

Cả con người Đức Giêsu, nhờ sự Phục Sinh, được đưa vào sự Nhiệm Sinh Vĩnh Hằng (Rm 1, 4). Từ nay Đức Giêsu không còn chết nữa, sự chết không cầm giữ được Người nữa (Cv 2, 24). Người không ngừng nhận lãnh sự sống thần linh từ nơi Cha, ngay cả cho thân xác Người. Sự viên mãn của Thần tính đậu lại nơi Người (Cl 1, 19), và Người đã trở nên Thần Khí tác sinh (1Cr 15, 45).

 

Chính Thánh Thần Phục Sinh của Đức Kitô hoạt động nơi chúng ta. Người tháp nhập chúng ta vào với Đức Kitô Tử Nạn - Phục Sinh . Người làm cho chúng ta cùng chết với Đức Kitô để cùng sống lại với Người .

 

Chỉ có một Thánh Thần duy nhất ; mà Thánh Thần ấy là Thần Khí Phục Sinh ; nên Người tác động trên chúng ta như một Sức Mạnh Phục Sinh, một Quyền Năng, một Sức Mạnh làm cho sống. Chúng ta luôn sống động nhờ Thánh Thần Phục Sinh. Nếu trong ta có sự chết, đó là vì không có Thánh Thần Phục Sinh trong ta. Có Thánh Thần Phục Sinh là có Sự Sống, mà dấu chỉ là niềm vui và bình an. Thánh Thần Phục Sinh giống như “nhựa sống” không ngừng  châu  lưu  trong Thân Mình Chúa Kitô là Hội Thánh. Ai được tháp nhập vào với Chúa Kitô và ở trong Hội Thánh, thì được nuôi dưỡng bằng nhựa sống ấy. Hội Thánh là Thân Mình Đức Kitô không theo nghĩa thể lý, mà là Thân Mình mầu nhiệm. Sống mầu nhiệm Hội Thánh là nên một với Đức Kitô và sống bằng Thần Khí Phục Sinh của Người.

 

IX. CHÚA THÁNH THẦN VÀ SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO.

 

A. SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ ?

 

Để có thể trả lời câu hỏi này cho đúng và đầy đủ, chúng ta phải dựa vào các tác giả Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng. Mỗi tác giả Tin Mừng đều có quan điểm riêng, nhưng các quan điểm ấy bổ túc cho nhau, cho ta một cái nhìn đa dạng và phong phú về việc truyền giáo.

 

Trước hết đối với Marcô,  sứ vụ truyền giáo là sứ vụ rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15), sứ vụ loan báo Chúa Kitô, làm cho mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng Kitô (Mc 8, 29), nhận biết Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa (Mc 15, 39).

 

Đối với Matthêu, truyền giáo là thiết lập và xây dựng Hội Thánh Chúa Kitô, làm cho nhiều người trở nên môn đệ Chúa Kitô (Mt 28, 19-20 ; 16, 18) : việc rao giảng Tin Mừng được bổ túc bằng huấn giáo và cử hành bí tích.

 

Trong các tác phẩm của Luca,  sứ vụ truyền giáo được coi như một chứng từ (Lc 24, 48 ; Cv 1, 8), đặc biệt là về sự Phục Sinh của Đức Kitô (Cv 1, 22). Tác giả nhấn mạnh “sức biến đổi của Tin Mừng Phục Sinh”, kêu gọi hoán cải để được cứu thoát khỏi tội lỗi và sự dữ.

 

Tác giả Tin Mừng Gioan thì nhấn mạnh việc tiếp nối sứ vụ của Đức Kitô : “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con” (Ga 20, 21). Sứ vụ của các tông đồ xây dựng trên sứ vụ của Đức Kitô, và lấy sứ vụ của Đức Kitô làm mẫu mực. “Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai chúng đến trong thế gian” (Ga 17, 18).

 

Mục tiêu của sứ vụ truyền giáo là làm cho nhân loại có được sự sống đời đời : “Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, vàĐấng Cha đã sai, Giêsu kitô” (Ga 17, 3). Nhân loại được mời gọi hiệp thông với tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chính vì thế, công việc đầu tiên của truyền giáo là sống yêu thương và hiệp nhất : “Xin cho hết thảy chúng nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong Chúng Ta, và thế gian tin là Cha đã sai Con” (Ga 17, 21).

 

Như vậy, người tông đồ truyền giáo tiên vàn bằng tình yêu và cuộc sống trước khi truyền giáo bằng lời nói và việc làm.

 

 

B. THÁNH THẦN VÀ SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO.

 

1. Loan báo Chúa Kitô.

 

Hội Thánh không ngừng loan báo Chúa Kitô. Sứ mạng của Hội Thánh là làm cho nhân loại nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Việc loan báo Chúa Kitô không phải là công việc thuộc lãnh vực tự nhiên, mà là một công việc siêu nhiên, là công việc của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần chủ động loan báo cùng với Hội Thánh và qua Hội Thánh. Hội Thánh không ngừng công bố Tin Mừng Phục Sinh, không phải với sự hùng biện của khoa ngôn ngữ hay sự khôn ngoan theo kiểu thế gian, nhưng với sức mạnh và khả năng thuyết phục của Thánh Thần : Thánh Thần tác động trên những người loan báo, đồng thời tác động trên những người nghe (Cv 2, 37).

 

2. Xây dựng Hội Thánh.

 

Truyền giáo là ra đi, thâu nạp môn đồ về cho Chúa Kitô, làm cho những người gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô nhờ phép Thanh Tẩy, xây dựng Cộng Đồng, Nhiệm Thể Chúa Kitô, xây dựng Hội Thánh trên đá tảng Phêrô, trên nền móng các “Tông Đồ”.

 

Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh, nhưng Hội Thánh được xây dựng nhờ Thánh Thần. Hội Thánh sống bằng sự sống của Chúa Kitô là Thánh Thần. Thánh Thần được ban qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Rửa Tội và Thánh Thể.

 

Việc xây dựng Hội Thánh còn được thực hiện bằng việc huấn giáo, dạy dỗ để đức tin và đời sống đạo của người kitô-hữu ngày một sâu sắc hơn. Truyền giáo là dạy sống Tin Mừng (Mt 28, 20). Tất cả những điều này, chỉ thực hiện được cùng với Thánh Thần và trong Thánh Thần. Thánh Thần là ánh sáng chiếu soi tâm hồn kitô-hữu, để kitô-hữu mỗi ngày thêm hiểu Chúa Kitô, sống theo giáo huấn Chúa Kitô.

 

3. Làm chứng cho Chúa Kitô Từ Nạn - Phục Sinh.

 

Truyền giáo là “thông truyền”, là  chia sẻ cho người khác  kinh  nghiệm của mình về Đức Giêsu Kitô : kinh nghiệm tiếp xúc với Chúa, kinh nghiệm về tương quan giữa mình với Chúa, kinh nghiệm về hạnh phúc, về sự sống đã nhận lãnh từ Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Sự sống và tình yêu mà ta nhận lãnh từ Đức Kitô Phục Sinh chính là Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh. Chính vì thế, truyền giáo    chia  sẻ kinh nghiệm về Thánh Thần, chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng.

 

Kinh nghiệm này có thể là kinh nghiệm cá nhân, có thể là kinh nghiệm tập thể. Kinh nghiệm cá nhân thường rất giới hạn, nên mỗi người chúng ta nên đưa các dự tòng, tân tòng đến với các kitô-hữu khác, đưa họ vào cộng đồng Hội Thánh, để họ chia sẻ kho tàng mà Chúa ban cho Hội Thánh (Cv 2, 46-47).

 

Chứng tá đời sống thường đi đôi với tác động biến đổi của Chúa Thánh Thần.

 

4. Tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu.

 

Chúng ta loan báo Chúa Kitô, đi thâu nạp môn đồ cho Chúa Kitô, chia sẻ sự sống Chúa Kitô cho người khác, không phải do tùy hứng ; nhưng đó là một sứ vụ có gốc rễ sâu xa trong lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

Như Chúa Cha đã sai Chúa Kitô, Chúa Kitô sai chúng ta, vừa để tiếp nối sứ mạng của Chúa (mạc khải tình yêu của Cha) vừa để cho nhân loại nhận ra sứ mạng của Chúa, nhận biết Người là Đấng được Chúa Cha sai đến.

 

Chúng ta chỉ có thể tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, khi chúng ta hiểu Chúa Kitô và yêu Chúa Kitô. Chúng ta chỉ có thể hiểu và yêu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần của Chúa Kitô.

 

Điều sâu thẳm nhất, quan trọng nhất nơi Chúa Cha, cũng như nơi Chúa Kitô là tình yêu hiệp thông giữa các Ngài, là sự Duy Nhất giữa các Ngài. Đức Giêsu muốn cho nhân loại nhận ra sự duy nhất giữa Người và Chúa Cha, nhận ra Người bởi Cha, nhờ đó, được chia sẻ, được thông phần tình yêu hiệp thông, cũng chính là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

Chính sự hiệp thông giữa các môn đệ của Chúa là dấu chỉ để cho nhân loại nhận ra sự Hiệp Thông giữa Người với Chúa Cha. Kitô-hữu không những truyền giáo bằng lời nói và việc làm, mà còn truyền giáo bằng cuộc sống, bằng tình yêu hiệp nhất.

 

Chúa Thánh Thần chính là tình yêu hiệp thông trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Có Chúa Thánh Thần chúng ta có tình yêu hiệp thông ấy. Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp nhất nối kết chúng ta, làm cho chúng ta nên một với Chúa Kitô và nên một với nhau.

 

X. XIN HÃY ĐẾN.

 

Lời nói đầu tiên trong kinh nguyện Chúa Thánh Thần là một lời kêu xin “hãy đến” : Lạy Thần Khí Tác Tạo, xin hãy đến ! Lạy Thần Khí Thánh Thiện, xin hãy đến ! Hãy đến, hãy thăm viếng và hãy đổ đầy !

 

Chúng ta được đặt trước sự hiện diện của một chủ vị. Ngài đến, Ngài viếng thăm. Sách Tin Mừng viết : “Thế gian không nhận biết Ngài. Còn các con, các con nhận biết Ngài, bởi vì Ngài ở với các con và ở trong các con” (Ga 14, 17).

 

Nhận biết Thánh Thần là một Chủ Vị là yếu tố đầu tiên cần phải đưa vào kinh nghiệm thiêng liêng, và cũng là điều khó hơn là đối với Chúa Cha và Chúa Con.

 

Đối với chúng ta, Đức Giêsu Kitô là một con người quen thuộc. Người đã tự biểu lộ cho chúng ta cách khiêm nhường, để chúng ta nhận biết Ngài bằng những con đường giống như các anh em khác. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã trở thành một người trong chúng ta.

 

Chúng ta cũng dễ đến với Thiên Chúa là Cha, vì Chúa Giêsu dã không ngừng nói về Cha của Ngài. Chúa Giêsu giúp chúng ta khám phá và đến gần Chúa Cha bằng những hình ảnh trong các dụ ngôn, hoặc những lời lẽ rất đơn sơ. Vả lại, trong thế giới con người, kinh nghiệm về người cha là kinh nghiệm hết sức thông thường và gần gũi, và điều đó giúp chúng ta hiểu được Đấng Duy Nhất là “Thiên Chúa và là Cha của hết mọi người” (Ep 4, 6). Chính bởi Ngài mà có mọi tình phụ tử trên trời và dưới đất (Ep 3, 14). Thật là một hồng ân kỳ diệu cho những ai có được trong gia đình mình một người cha mạnh mẽ, tốt lành và dịu dàng, để qua đó, cảm nghiệm được tình yêu của Cha chúng ta ở trên trời.

 

Ngược lại chúng ta không có kinh nghiệm nào tương tự giúp chúng ta khám phá Chủ Vị Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần chỉ biểu lộ cho thế gian qua sự hiện diện và hành động của những con người sống bằng Thánh Thần, qua sự sống của Thân Thể Huyền Nhiệm Vĩ Đại là Giáo Hội. Khác với thần tính của Chúa Giêsu, những con người ấy không phải là biểu thị trọn vẹn của Ngôi Vị Thần Linh. Chúa Thánh Thần hiện diện và hành động trong thế gian qua những con người tội lỗi, vừa biểu lộ, vừa che lấp hiện diện của Ngài.

 

Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta : “Chúng con biết Ngài, Ngài ở với chúng con và trong chúng con”. Như thế Người mời gọi chúng ta cảm nghiệm Chúa Thánh Thần. Bằng đức tin, chúng ta khiêm tốn và không ngừng khám phá sự hiện diện thường xuyên của Thánh Thần nơi trọng tâm của đời sống chúng ta, trong lòng Giáo Hội và thế giới. Thánh Thần không những hiện diện, Ngài đến và xâm nhập.

 

Thánh Thần là một chủ vị đang đến. Ngài đã đến. Qua phép Rửa Tội, Ngài sở hữu cả con người chúng ta, thể xác và linh hồn. Thánh Phaolô mạnh dạn nhắc nhở chúng ta : “Anh chị em không biết rằng thân xác của anh chị em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao ?”. Chúng ta là Đền Thờ, vì Thánh Thần là Thiên Chúa : “Anh chị em  hãy chúc tụng Thiên Chúa  trong thân  xác anh chị em” (1Cr 6, 19-20).

 

Nhưng Thánh Thần không chỉ đến một lần thay cho mọi lần qua các bí tích không tái diễn đó. Ngài đến không ngừng. Đó là một tương quan khởi đầu được mời gọi liên tục phát triển, trở nên mãnh liệt và sâu đậm hơn. Vì thế chúng ta phải liên lỉ cầu xin Ngài hãy đến : “Lay Thần Khí Tác Tạo, xin hãy đến ! Lạy Thần Khí Thánh Thiện, xin hãy đến !”. “Xin hãy đến” là điệp khúc, là lời nguyện của Giáo Hội hướng lên Chúa Thánh Thần. Chúng ta đừng ngần ngại lặp đi lặp lại lời nguyện này tận đáy lòng chúng ta, suốt ngày sống của mình, trong những công việc khác nhau, qua những cuộc gặp gỡ khác nhau, trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta cầu nguyện để Ngài luôn hiện diện và hành động trong các công việc và những cuộc gặp gỡ ; Ngài là Đấng đang đến và mọi việc chỉ có ý nghĩa đích thực trong Ngài.

 

Ngài đến luôn mãi. Ngài không ngừng đến với chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại lời Phúc Âm : “Ai trong các ngươi, khi con mình xin bánh, thì lại cho đá ? Khi con mình xin cá, thì lại cho bọ cạp ? Ấy vậy, nếu các ngươi là những con người tội lỗi còn biết ban cho con mình những điều lành, phương chi Cha ở trên Trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai cầu xin Người”. (Lc 11, 11-13).

 

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến ! Ngài đến luôn. Nhưng phải biết nhận ra và tiếp đón Ngài. Ngài đến ngay cả khi chúng ta không cầu xin Ngài, lúc chúng ta không để ý đến Ngài. Phương chi là khi chúng ta kêu đến Ngài. Vậy tại sao khi chúng ta kêu xin Ngài, chúng ta lại không nhận ra và tiếp đón Ngài ? Những cái nhìn thiển cận của chúng ta không có khả năng phân biệt và tiếp nhận Ngài. Sau khi đã kêu cầu, chúng ta còn phải biết khai mở tâm hồn. Nhưng điều đó không tuỳ thuộc vào Ngài,mà tuỳ ở chúng ta. Phần Ngài vẫn luôn luôn đến với chúng ta.

 

Trong một trang sách hấp dẫn, thi sĩ Claudel gợi ra việc Thần Khí của Thiên Chúa đến : “Trong một đêm bão táp, ta cô đơn trong căn nhà biệt lập và bỏ hoang, thình lình có ai gõ cửa. Người ấy không gõ vào cửa thường sử dụng, nhưng gõ trên cánh cửa cũ kỹ, mà ta nghĩ rằng không bao giờ mở ra được nữa. Nhưng, có người đang gõ, đã gõ ! Người đã gõ vào con người ta, và điều này làm cho ta đau đớn, giống như thai nhi lần đầu tiên cử động trong dạ người phụ nữ.

 

Ai đã gõ ?Không nghi ngờ gì nữa, đó là Đấng đang đến như kẻ trộm giữa đêm. Và ta lắng nghe, lòng hồi hộp ; có thể là người chỉ gõ một lần nữa thôi ! Nhưng chỗi dậy và ra mở cánh cửa cũ kỹ, thật là một điều ngại ngùng. Chìa khóa đã mất. Cần phải có dầu để làm trơn ống khóa. Và rồi điều gì sẽ xảy ra khi ta mở tung cánh cửa ? Bóng đêm và gió sẽ lùa vào ; sẽ có một Đấng Vô Hình khiến ta không còn được thoải mái trong căn nhà của mình. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, xin Ngài chớ vào, tôi rất sợ gió !

 

Nhưng Người đã gõ. Gõ như thế nào ? Người gõ vào các tình cảm, gõ vào tài sản của chúng ta. Không những Thiên Chúa gõ cửa, Ngài còn xô cửa vào. Ngài không ngừng chờ chực lắng nghe. Nhưng mỗi lúc và mọi nơi, Ngài đếu chạm phải bức tường rắn rỏi và bất động. ‘Ôi lạy Chúa, chúng con sẽ cố gắng mở cửa cho Ngài, chúng con biết rằng Ngài cũng đau buồn khi phải gõ mạnh vào chunùg con’” (Je crois de Dieu, Gallimard, 1961, p. 322-323).

 

Khi chúng ta mở cửa, Thánh Thần sẽ “ùa vào”. Ngài là Hồng Ân đổ tràn trên chúng ta (Tt 3, 5). Lời kinh của Giáo Hội không thể sai lầm : “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy đổ đầy, xin làm cho sung mãn”. Cùng một điệp khúc láy mãi không thôi…

 

“Hãy tràn ngập” là hình ảnh của đại dương mênh mông lấp đầy các vực thẳm. Khi mở tâm hồn đón nhận Thánh Thần, con người sẽ được tràn trề sung mãn. Đó là cách diễn tả mà Thánh Luca rất ưa chuộng trong những trang đầu của sách Tin Mừng và trong Công Vụ các Tông Độ. Ngài giới thiệu cho chúng ta những nhân vật tràn đầy Thánh Thần : Gioan Tẩy Giả, cụ già Siméon, các Tông Đồ vào dịp Ngũ Tuần, thánh Stêphanô trong lúc tử đạo ; mọi người đều tràn đầy Thần Khí.

 

Ơn Thánh Thần không giới hạn. Chính chúng ta mới giới hạn, hẹp hòi, so đo, nhưng Ân Sủng luôn thúc đẩy chúng ta khai mở hơn nữa, và Thiên Chúa không ngừng lấp đầy chúng ta. Cứ như thế Thánh Thần đến không ngừng và làm cho sung mãn.

 

“Xin hãy đến, xin hãy đổ đầy, xin hãy viếng thăm !”