Mục 3
Bí Tích Thánh
Thể
Articulus 3
Sacramentum Eucharistiae
VI. BÀN TIỆC VƯỢT QUA
CONVIVIUM PASCHALE
1382. Thánh lễ, một cách không thể tách biệt, vừa là việc tưởng
niệm Hy tế thập giá muôn đời tồn tại, vừa là bàn tiệc thánh thiêng để hiệp
thông với Mình và Máu Chúa. Nhưng việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng
đến sự kết hợp mật thiết của các tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ
là lãnh nhận chính Đức Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta.
1383. Bàn thờ, quanh đó Hội Thánh được quy tụ để cử
hành bí tích Thánh Thể, nói lên hai phương diện của cùng một mầu nhiệm: bàn thờ
hy tế và bàn tiệc của Chúa; hơn nữa, bàn thờ Kitô giáo là biểu tượng của chính
Đức Kitô đang hiện diện giữa cộng đoàn các tín hữu, vừa như lễ vật được dâng
lên để chúng ta được giao hoà, vừa như lương thực trên trời trao ban chính mình
cho chúng ta. Thánh Ambrôsiô nói: “Bàn thờ của Đức Kitô là gì, nếu không phải
là hình ảnh Thân thể của Đức Kitô?”[1],
và trong đoạn văn khác, thánh nhân nói: “Bàn thờ tượng trưng Thân thể của Đức
Kitô và Thân thể của Đức Kitô thì ở trên bàn thờ”[2].
Phụng vụ diễn tả tính thống nhất này của hy tế và rước lễ trong nhiều lời
nguyện. Giáo Hội Rôma cầu nguyện trong Kinh nguyện Thánh Thể như sau:
“Lạy Chúa toàn
năng, chúng con nài xin Chúa sai Sứ thần dâng lễ vật này lên bàn thờ cao sang
trước tôn nhan uy linh Chúa, để hết thảy khi tham dự bàn tiệc này là rước Mình
và Máu cực thánh Con Chúa, chúng con được tràn đầy ân phúc bởi trời”[3].
“Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn”: Rước lễ
1384. Chúa tha thiết mời chúng ta đón rước Người trong bí tích
Thánh Thể: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống Máu
Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53).
1385. Để đáp lại lời mời đó, chúng ta phải dọn mình cho
giây phút cực trọng cực thánh này. Thánh Phaolô khuyên ta nên tự vấn lương tâm:
“Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì phạm đến Mình và
Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy,
ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt
mình” (1 Cr 11,27-29). Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải lãnh nhận bí
tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ.
1386. Trước sự cao trọng của bí tích này, tín hữu chỉ có thể lặp
lại, một cách khiêm tốn và với đức tin sốt sắng, lời viên đại đội trưởng[4]:
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời,
thì linh hồn con sẽ lành mạnh”[5].
Trong phụng vụ thánh của thánh Gioan Kim Khẩu, các tín hữu cầu nguyện cũng
trong tinh thần ấy:
“Lạy Con Thiên
Chúa, hôm nay xin cho con được hiệp thông vào bàn tiệc huyền nhiệm của Chúa.
Bởi vì con không tiết lộ cho các kẻ thù điều kín nhiệm của Chúa, cũng không
tặng Chúa cái hôn của Giuđa. Nhưng như người trộm lành, con kêu lên cùng Chúa:
Lạy Chúa, xin nhớ đến con trong Nước Chúa”[6].
1387. Để dọn mình đón nhận bí tích này cách xứng đáng, các tín hữu
phải giữ chay theo quy định của Hội Thánh[7].
Thái độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang
trọng và niềm vui của giây phút được Chúa là thượng khách của chúng ta.
1388. Căn cứ vào ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nếu
hội đủ các điều kiện cần thiết[8], rước
lễ khi tham dự Thánh lễ.[9] “Việc
tham dự Thánh lễ cách hoàn hảo hơn, được nồng nhiệt khuyến khích, đó là sau khi
vị chủ tế rước lễ, các tín hữu rước Mình Chúa bởi cùng một hy tế”[10].
1389. Hội Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh lễ vào các ngày
Chúa nhật và các lễ buộc[11] và
rước lễ mỗi năm ít là một lần, nếu có thể được trong mùa Phục Sinh[12],
sau khi đã chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Hòa Giải. Nhưng Hội Thánh tha thiết
khuyến khích các tín hữu rước lễ vào các ngày Chúa Nhật và các lễ khá long
trọng, hay thường xuyên hơn nữa, kể cả việc rước lễ hằng ngày.
1390. Vì Đức Kitô hiện diện cách bí tích dưới mỗi hình dạng, nên
việc rước lễ dưới hình bánh mà thôi vẫn nhận được trọn vẹn hiệu quả ân sủng của
bí tích Thánh Thể. Vì các lý do mục vụ, cách rước lễ này đã được quy định cách
hợp pháp trong nghi lễ La tinh, như là hình thức thông thường nhất. Nhưng “dấu
chỉ của việc rước lễ được đầy đủ hơn khi được trao ban dưới hai hình dạng. Vì
theo cách này, dấu chỉ của bàn tiệc Thánh Thể trở nên rõ nét hơn”[13].
Đây là cách rước lễ thông thường trong các nghi lễ Đông phương.
Hiệu quả của việc rước lễ
1391. Việc rước lễ làm tăng trưởng sự hiệp thông của chúng ta
với Đức Kitô. Lãnh nhận bí tích Thánh Thể khi rước lễ mang lại hiệu
quả chính yếu là kết hợp thân mật với Đức Kitô Giêsu. Thật vậy, Chúa nói: “Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga
6,56). Sự sống trong Đức Kitô có nền tảng nơi bàn tiệc Thánh Thể: “Như Chúa Cha
là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi,
cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
“Trong các ngày lễ
của Chúa, khi lãnh nhận Mình của Chúa Con, các tín hữu công bố cho nhau Tin
Mừng: bảo chứng của sự sống đã được trao ban, cũng như xưa kia Thiên thần báo
cho bà Maria Mađalêna: ‘Đức Kitô đã phục sinh!’ Giờ đây cũng vậy, sự sống và sự
phục sinh cũng được trao ban cho ai lãnh nhận Đức Kitô”[14].
1392. Những gì lương thực vật chất mang lại cho sự sống thể xác,
thì việc rước lễ thực hiện điều này cách kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng của
chúng ta. Việc hiệp thông với thân mình Đức Kitô phục sinh, một thân mình “nhờ
Chúa Thánh Thần, đã được sống và có sức ban sự sống”[15],
bảo toàn, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận được trong bí tích
Rửa Tội. Sự tăng trưởng như vậy của đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bằng
việc rước Thánh Thể, là Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta, mãi cho đến giờ
chết; lúc đó Bánh sẽ được ban cho chúng ta như Của ăn đàng.
1393. Việc rước lễ ngăn cách chúng ta khỏi tội lỗi. Mình Đức
Kitô chúng ta lãnh nhận khi rước lễ, là thân mình “bị nộp vì chúng ta” và Máu
chúng ta uống, là máu “đổ ra cho nhiều người được tha tội.” Vì vậy, bí tích
Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Đức Kitô, nếu đồng thời không thanh
tẩy chúng ta khỏi các tội đã phạm và gìn giữ chúng ta khỏi các tội trong tương
lai:
“Mỗi lần chúng ta
rước lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết[16].
Nếu chúng ta loan truyền cái chết của Chúa, thì cũng loan truyền ơn tha tội.
Nếu mỗi lần Máu Người đổ ra, là đổ ra để tha tội, thì tôi phải luôn lãnh nhận
Máu Người, để Người luôn tha tội cho tôi. Tôi là kẻ luôn phạm tội, nên tôi luôn
phải có một phương dược”[17].
1394. Như lương thực vật chất dùng để phục hồi sức lực bị tiêu hao,
thì bí tích Thánh Thể cũng tăng sức mạnh cho đức mến của chúng ta, vốn có xu
hướng bị suy yếu trong đời sống hằng ngày; và đức mến sống động này xóa
bỏ các tội nhẹ[18].
Khi tự hiến cho chúng ta, Đức Kitô một lần nữa ban sự sống cho tình yêu của
chúng ta và ban cho chúng ta khả năng phá huỷ những đam mê vô trật tự của chúng
ta đối với các thụ tạo và khả năng gắn bó với Người:
“Vì yêu thương, Đức
Kitô đã chết cho chúng ta, nên mỗi khi tưởng niệm cuộc tử nạn của Người trong
Thánh lễ, chúng ta xin Người ban tình yêu cho chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần ngự
đến; chúng ta khiêm tốn khẩn nguyện rằng, nhờ tình yêu mà Đức Kitô đã chết vì
chúng ta, và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta có
thể coi thế gian như đã bị đóng đinh, và chúng ta bị đóng đinh cho thế gian;
... khi đã lãnh nhận hồng ân tình yêu, chúng ta hãy chết cho tội lỗi và sống
cho Thiên Chúa”[19].
1395. Nhờ tình yêu mà bí tích Thánh Thể đã đốt lên trong chúng ta,
bí tích này gìn giữ chúng ta khỏi các tội trọng trong tương
lai. Chúng ta càng tham dự vào sự sống của Đức Kitô, và càng tiến thêm trong
tình bằng hữu với Người, thì càng khó phạm tội trọng mà cắt đứt sự liên kết với
Người. Bí tích Thánh Thể không được thiết lập để tha các tội trọng. Đó là chức
năng riêng của bí tích Hòa Giải. Bí tích Thánh Thể có chức năng riêng, là bí
tích của những người đang sống trong sự hiệp thông đầy đủ với Hội Thánh.
1396. Sự hợp nhất của Nhiệm Thể: Bí tích Thánh Thể làm nên Hội
Thánh. Những ai đã lãnh nhận Thánh Thể, đều được kết hợp cách chặt chẽ
hơn với Đức Kitô. Nhờ đó, Đức Kitô kết hợp mọi tín hữu thành một thân thể duy
nhất là Hội Thánh. Việc tháp nhập vào Hội Thánh như vậy, vốn đã được bí tích
Rửa Tội thực hiện, nay được việc rước lễ canh tân, củng cố và làm cho thâm sâu
hơn. Trong bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được kêu gọi để làm thành một thân thể
duy nhất[20].
Bí tích Thánh Thể thực hiện lời kêu gọi này: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17):
“Nếu anh em là Thân
Thể và là các chi thể của Đức Kitô, thì mầu nhiệm của anh em đang được đặt trên
Bàn của Chúa: anh em lãnh nhận mầu nhiệm của anh em. Anh em đáp Amen (Vâng,
đúng như thế) đối với điều anh em là, và anh em xác nhận bằng câu đáp đó. Anh
em nghe: ‘Mình Thánh Chúa Kitô’ và anh em đáp: ‘Amen’. Vậy hãy là chi thể của
Thân Thể Đức Kitô, để lời đáp Amen của anh em là chân thật”[21].
1397. Bí tích Thánh Thể đòi buộc dấn thân cho người nghèo:
Để lãnh nhận trong sự thật Mình và Máu Đức Kitô bị nộp vì chúng ta, chúng ta
phải nhận ra Đức Kitô trong những kẻ nghèo nhất, là các anh em của Người.[22]
“Bạn nếm Máu Thánh
Chúa, vậy mà bạn lại không nhận ra người anh em; ... Bạn làm hổ thẹn Bàn tiệc
này, khi người được coi là xứng đáng tham dự Bàn tiệc này, lại bị bạn coi là
không xứng đáng được chia phần ăn của bạn. Thiên Chúa đã giải thoát bạn khỏi
mọi tội lỗi và cho bạn vào bàn tiệc, vậy mà quả thật bạn đã chẳng nhân hậu hơn
chút nào”[23].
1398. Bí tích Thánh Thể và sự hợp nhất các Kitô hữu. Trước
sự cao cả của mầu nhiệm này, thánh Augustinô đã thốt lên: “Ôi bí tích tình
yêu! Ôi dấu chỉ hợp nhất! Ôi mối dây bác ái!”[24] Người
ta càng đau lòng vì sự chia rẽ trong Hội Thánh vốn làm cho các Kitô hữu không
thể tham dự chung với nhau bàn tiệc của Chúa, thì những lời nguyện dâng lên
Chúa càng khẩn thiết hơn, để những ngày hợp nhất trọn vẹn, của mọi kẻ tin vào
Người, được trở lại.
1399. Các Giáo Hội Đông phương, dù không hiệp thông trọn vẹn với
Giáo Hội Công giáo, vẫn cử hành bí tích Thánh Thể với một tình yêu cao cả. “Các
Giáo Hội ấy, mặc dù ly khai, vẫn có các bí tích đích thực, chủ yếu là chức tư
tế và bí tích Thánh Thể, nhờ sự kế nhiệm các Tông Đồ, nên vẫn liên kết rất chặt
chẽ với chúng ta”[25].
Vì vậy, “một hiệp thông nào đó trong các sự thánh, trong những
trường hợp thuận lợi và với sự chấp thuận của giáo quyền, không những là có
thể, mà còn được khuyến khích”[26].
1400. Các Cộng đoàn Giáo hội phát sinh từ cuộc Cải Cách, đã ly khai
khỏi Hội Thánh Công Giáo, “đặc biệt là vì thiếu bí tích Truyền Chức Thánh, nên không
còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể”[27].
Vì vậy, đối với Hội Thánh Công Giáo, việc rước lễ chung với những Cộng đoàn này
là không thể được. Nhưng khi các cộng đoàn này “tưởng niệm sự chết và sự sống
lại của Chúa trong Tiệc Thánh, họ tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa trong sự
hiệp thông với Đức Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người”[28].
1401. Khi có nhu cầu khẩn cấp, theo phán đoán của Đấng Bản Quyền
địa phương, các thừa tác viên Công giáo được phép ban các bí tích (Thánh Thể,
Hòa Giải, Xức Dầu bệnh nhân) cho các Kitô hữu không hiệp thông trọn vẹn với Hội
Thánh Công Giáo, nhưng họ phải tự ý xin lãnh nhận các bí tích đó: lúc đó, họ
phải tuyên xưng đức tin công giáo về các bí tích này và có sự chuẩn bị đầy đủ[29].
VII. BÍ TÍCH THÁNH THỂ – “BẢO CHỨNG CHO VINH QUANG TƯƠNG LAI”
EUCHARISTIA –
“FUTURAE GLORIAE PIGNUS”
1402. Trong một kinh nguyện cổ xưa, Hội Thánh tung hô mầu nhiệm
Thánh Thể như sau: “Ôi Tiệc Thánh, trong đó Đức Kitô được rước lấy làm lương
thực, việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người được nhắc lại, tâm trí được tràn
đầy ân sủng, và bảo chứng cho vinh quang mai sau được ban cho chúng ta”[30].
Nếu bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, nếu nhờ việc
rước lễ tại bàn thờ mà chúng ta được “tràn đầy ân phúc bởi trời”[31],
thì bí tích Thánh Thể cũng là sự tham dự trước vào vinh quang thiên quốc.
1403. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự
hoàn tất lễ Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay,
Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em
uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[32].
Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông
“Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana
tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân
sủng của Ngài đến và trần gian này qua đi”[33].
1404. Hội Thánh biết rằng giờ đây Chúa đã đến trong bí tích Thánh
Thể của Người, và Người ở đó giữa chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện diện này còn bị
che phủ. Chính vì vậy, chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể “đang khi chúng con
mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu
độ chúng con”[34],
trong khi chúng ta khẩn nguyện được “cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn
đời, khi Cha lau sạch nước mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Cha là
Thiên Chúa chúng con, thì muôn đời chúng con sẽ trở nên giống Cha và sẽ ca ngợi
Cha khôn cùng”[35].
1405. Về niềm hy vọng lớn lao này, niềm hy vọng về trời mới đất
mới, nơi công lý lưu ngụ cách chắc chắn[36],
chúng ta không có bảo chứng nào vững chắc hơn và dấu chỉ nào được biểu lộ rõ
ràng hơn, là bí tích Thánh Thể. Thật vậy, mỗi khi mầu nhiệm này được cử hành,
thì “công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”[37] và
“chúng ta bẻ cùng một tấm bánh, là phương dược trường sinh bất tử, và của ăn để
chúng ta không chết, nhưng đem lại sự sống muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô”[38].
TÓM LƯỢC
1406. Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai
ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống
muôn đời… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong
người ấy” (Ga 6,51.54.56).
1407. Bí tích Thánh Thể là trung tâm và tột đỉnh của đời sống
Hội Thánh, vì trong bí tích này, Đức Kitô liên kết Hội Thánh và tất cả các chi
thể của Người vào hy tế chúc tụng và tạ ơn được dâng lên Chúa Cha trên thập giá
một lần cho mãi mãi. Qua hy tế này, Người tuôn đổ các ân sủng cứu độ trên Thân
Thể của Người là Hội Thánh.
1408. Việc cử hành Thánh Lễ luôn bao gồm: việc công bố Lời Chúa;
việc tạ ơn Thiên Chúa Cha vì mọi ơn lành, nhất là vì Ngài đã ban Con của Ngài
cho chúng ta; việc thánh hiến bánh rượu và việc tham dự vào bàn tiệc phụng vụ
nhờ lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Các yếu tố này kết thành một hành vi
phụng tự duy nhất.
1409. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức
Kitô: nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện qua đời sống, cái Chết và sự
Phục sinh của Đức Kitô. Công trình này được hành động phụng vụ làm cho hiện
diện.
1410. Đức Kitô, vị thượng tế đời đời của Giao Ước Mới, Đấng đang
hoạt động nhờ thừa tác vụ của các tư tế, dâng hy tế Thánh Thể. Cũng chính Đức
Kitô, Đấng thật sự hiện diện trong hình bánh rượu, là lễ vật của hy tế Thánh
Thể.
1411. Chỉ các tư tế đã được phong chức thánh thành sự mới có
quyền chủ tọa thánh lễ và thánh hiến (truyền phép) để bánh và rượu trở thành
Mình và Máu Thánh Chúa.
1412. Dấu chỉ chính yếu của bí tích Thánh Thể là bánh mì và rượu
nho. Lời chúc lành của Chúa Thánh Thần được khẩn cầu xuống trên bánh và rượu
này và vị tư tế đọc lời thánh hiến (truyền phép) được Chúa Giêsu nói trong bữa
Tiệc ly: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con... Này là Chén Máu Thầy…”.
1413. Nhờ lời thánh hiến (truyền phép), đã có sự biến đổi bản
thể bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa. Trong hình bánh rượu đã được
truyền phép, chính Đức Kitô, hằng sống và vinh hiển, hiện diện cách đích thực,
thật sự và theo bản thể, với trọn mình, máu, linh hồn và thần tính của Người[39].
1414. Với tính cách là một hy tế, bí tích Thánh Thể được dâng
lên để đền tội cho người sống cũng như kẻ chết và để đạt được những ơn lành hồn
xác từ Thiên Chúa.
1415. Ai muốn đón nhận Đức Kitô qua việc hiệp lễ, phải ở trong
tình trạng ân sủng. Ai biết mình đang mắc tội trọng, không được rước lễ nếu
chưa lãnh nhận ơn tha tội trong bí tích Hòa Giải.
1416. Việc rước Mình và Máu Thánh Đức Kitô gia tăng sự kết hợp
của người rước lễ với Chúa, tha thứ cho họ các tội nhẹ và gìn giữ họ khỏi các
tội trọng. Vì việc rước lễ củng cố mối liên hệ tình yêu giữa người rước lễ với
Đức Kitô, nên việc lãnh nhận bí tích này cũng củng cố sự hiệp nhất của Hội
Thánh là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
1417. Hội Thánh tha thiết khuyên tín hữu nên rước lễ mỗi khi
tham dự Thánh lễ. Hội Thánh buộc tín hữu rước lễ mỗi năm ít là một lần.
1418. Vì Đức Kitô hiện diện thật sự trong bí tích bàn thờ, nên
chúng ta phải tôn vinh Người bằng một phụng tự tôn thờ. “Việc viếng Thánh Thể
là một bằng chứng bày tỏ lòng biết ơn, một dấu chỉ tình yêu và một bổn phận thờ
lạy đối với Đức Kitô, Chúa chúng ta”[40].
1419. Trước khi lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha, Đức Kitô ban cho
chúng ta, trong bí tích Thánh Thể, bảo chứng vinh quang nơi Người: việc tham dự
Thánh lễ uốn lòng chúng ta nên giống trái tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng ta
trên đường lữ thứ trần gian, làm cho chúng ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và
ngay từ bây giờ kết hợp chúng ta với Hội Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ diễm
phúc và với tất cả các Thánh.
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 5,
7: CSEL 73, 61 (PL 16, 447).
[2] Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 4,
7: CSEL 73, 49 (PL 16, 437).
[3] Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ Quy Rôma, 94: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[4] X. Mt 8,8.
[5] Nghi thức Hiệp lễ, 133: Sách Lễ
Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 474.
[6] Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi,
Prex ante Communionem: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and
Western (Oxford 1896) 394 (PG 63, 920).
[7] X. Bộ Giáo Luật, điều 919.
[8] X. Bộ Giáo Luật, các điều 916-917:
AAS 75 (1983 II) 165-166.
[9] Trong cùng một ngày, các tín hữu có thể rước lễ hai
lần, và chỉ hai lần mà thôi: Pontificia Commissio Codici Iuris Canonici
authentice interpretando, Responsa ad proposita dubia, 1 : AAS
76 (1984), 746.
[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 55: AAS 56 (1964) 115.
[11] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Orientalium
Ecclesiarum, 15: AAS 57 (1965) 81.
[12] X. Bộ Giáo Luật, điều 920.
[13] Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma, 240: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 68.
[14] Fanqýth, Breviarium iuxta ritum Ecclesiae Antiochenae
Syrorum, v. 1 (Mossul 1886) 237a-b.
[15] X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum
ordinis, 5: AAS 58 (1966) 997.
[16] X. 1 Cr 11,26.
[17] Thánh Ambrôsiô, De sacramentis, 4,
28: CSEL 73, 57-58 (PL 16, 446).
[18] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss.
Eucharistia, c. 2: DS 1638.
[19] Thánh Fulgentiô Ruspensê, Contra gesta
Fabiani, 28, 17: CCL 19A, 813-814 (PL 65, 789).
[20] X. 1 Cr 12,13.
[21] Thánh Augustinô, Sermo 272: PL 38,
1247.
[22] X. Mt 25,40.
[23] Thánh Gioan Kim Khẩu, In epistulam I ad
Corinthios, homilia 27, 5: PG 61, 230.
[24] Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium
tractatus, 26, 13: CCL 36, 266 (PL 35, 1613); x. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế Sacrosanctum Concilium, 47: AAS 56 (1964) 113.
[25] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 15 : AAS 57 (1965) 102.
[26] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 15: AAS 57 (1965) 102; x. Bộ Giáo Luật, điều
844,3.
[27] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 106.
[28] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 22: AAS 57 (1965) 106.
[29] X. Bộ Giáo Luật, điều 844,4.
[30] Lễ Trọng kính Mình và Máu thánh Chúa Kitô, Điệp
ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio
typica, v. 3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 502.
[31] Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ Quy Rôma, 96: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[32] X. Lc 22,18; Mc 14,25.
[33] Didaché, 10, 6: SC 248, 180 (Funk, Patres
apostolici, 1, 24).
[34] Nghi thức Hiệp lễ, 126 [Lời nguyện sau
kinh Lạy Cha]: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis
Vaticanis 1970) 472; x. Tt 2,13.
[35] Kinh nguyện Thánh Thể III, 116: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 465.
[36] X. 2 Pr 3,13.
[37] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[38] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Ephesios, 20, 2: SC 10bis, 76 (Funk 1, 230).
[39] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss.
Eucharistia, c. 3: DS 1640; Ibid., canon 1: DS 1651.
[40] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium fidei:
AAS 57 (1965) 771.