SÁCH
GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - CHƯƠNG BA: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA -
CAPUT TERTIUM HOMO DEO RESPONDET (giaolyductin.net
25/01/2013)
142. Qua mạc khải, “Thiên Chúa vô hình, do tình
thương chan hoà của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và liên lạc
với họ để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài”[1]. Đức tin là sự đáp lại thích đáng đối với lời mời gọi
ấy.
143. Bằng đức tin, conngười đem trí khôn và ýchí
của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy
thuận Thiên Chúa, Đấng mạc khải[2]. Thánh Kinh gọi việc
đáp lại này của con người đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, là “sự vâng phục
của đức tin”[3].
Articulus 1
Credo
144. Vâng phục (ob-audire: nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy
thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý,
bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó.
Còn Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.
Ông Abraham – “tổ phụ của tất cả những
người tin”
145. Thư gửi tín hữu Do thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc tổ
tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Abraham: “Nhờ đức tin, ông
Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận
làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)[4]. Nhờ đức tin, ông đã sống như kẻ mới nhập cư và người
lữ hành trong Đất hứa[5]. Nhờ đức tin, bà Sara đã thụ
thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin, ông Abraham đã dâng hiến
con một mình làm hy lễ[6].
146. Như vậy, ông Abraham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do thái định
nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng của
những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế
được kể là người công chính” (Rm 4,3)[7]. “Nhờ niềm tin,
ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Abraham trở thành “tổ phụ của tất cả những
người tin” (Rm 4,11.18)[8].
147. Cựu Ước rất phong phú về các chứng từ của đức tin ấy.Thư gửi tín
hữu Do thái tán tụng đức tin gương mẫu, “nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được
Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11,2.39). Tuy nhiên, “Thiên Chúa đã trù liệu cho
chúng ta một phần phúc tốt hơn”: đó là ơn được tin vào Con của Ngài, là “Chúa
Giêsu, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 11,40; 12,2).
Đức Maria – “Phúc thay người đã tin”
148. ĐứcTrinh Nữ Maria thể hiện cách trọn hảo sự vâng phục của đức tin.
Trong đức tin, Đức Maria đón nhận lời sứ thần Gabriel loan báo và đoan hứa, vì
ngài tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)[9], và ngài bày tỏ lòng quy phục: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Bà Êlisabét
chào Đức Maria bằng những lời này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Chính vì đức tin này mà Đức
Maria sẽ được mọi đời khen là diễm phúc[10].
149. Trong suốt cuộc đời của Đức Maria, và cho đến cuộc thử thách tột
bậc[11], khi Chúa Giêsu Con ngài chết trên thập giá,
đức tin của ngài đã không hề lay chuyển. Đức Maria không ngừng tin rằng lời
Chúa sẽ “được thực hiện”. Vì vậy Hội Thánh tôn kính Đức Maria là người đã thể
hiện đức tin một cách tinh tuyền nhất.
Tin vào một mình Thiên Chúa
150. Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời và không
thể tách biệt, là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý được Thiên Chúa mạc khải. Bởi
vừa là gắn bó bản thân với Thiên Chúa, vừa là chấp nhận chân lý do Thiên Chúa
mạc khải, nên đức tin Kitô giáo khác với việc tin một người phàm. Thật là tốt
đẹp và phải đạo khi hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa và tuyệt đối tin điều Ngài
đã nói. Thật vô ích và lầm lạc khi đặt một niềm tin như vậy vào một thụ tạo[12].
Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa
151. Đối với Kitô hữu, tin vào Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc
tin vào Đấng Ngài đã sai đến, tức là Con chí ái của Ngài, đẹp lòng Ngài mọi
đàng[13]. Thiên Chúa đã dạy chúng ta phải nghe lời Con
của Ngài[14]. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ
Người: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,l). Chúng ta có thể tin
vào Chúa Giêsu Kitô, vì chính Người là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể: “Thiên
Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng
hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Bởi vì Người “đã thấy Chúa Cha” (Ga 6,46), nên chỉ một mình Người biết Chúa Cha
và có thẩm quyền mạc khải Chúa Cha cho chúng ta[15].
Tin vào Chúa Thánh Thần
152. Không thể tin vào Chúa Giêsu Kitô mà không thông phần vào Thần Khí
của Người. Chính Chúa Thánh Thần mạc khải cho loài người biết Chúa Giêsu là ai.
“Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần
Khí” (l Cr 12,3). “Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu
thẳm nơi Thiên Chúa.... Không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không
phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1 Cr 2,10-11). Chỉ mình Thiên Chúa mới biết
một cách trọn vẹn về Thiên Chúa. Chúng ta tin vào Chúa Thánh Thần, vì Ngài là
Thiên Chúa.
Hội Thánh không ngừng tuyên xưng đức tin
vào một Thiên Chúa duy nhất, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đức tin là một ân sủng
153. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống, Chúa Giêsu nói với ông rằng không phải huyết nhục mạc khải cho ông
điều ấy, nhưng là Cha của Người, “Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17)[16]. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân
đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban. “Để có được đức tin này, cần có ân sủng
Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài
đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho
‘mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý’”[17].
Đức tin là một hành vi nhân linh
154. Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh
Thần. Tuy nhiên, tin vẫn thật sự là một hành vi nhân linh. Tin vào Thiên Chúa
và gắn bó với những chân lý do Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và trí
khôn con người. Ngay trong các giao tiếp giữa người với người, không có gì đi
ngược với phẩm giá của chúng ta khi chúng ta tin những gì người khác nói về bản
thân họ hoặc ý định của họ, và khi tin vào những lời hứa của họ (chẳng hạn
những cam kết hôn nhân), và như vậy con người có thể hiệp thông với nhau. Do
đó, càng không có gì đi ngược với phẩm giá của chúng ta, khi chúng ta “bằng đức
tin, dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý
chí”[18], và như vậy, chúng ta được hiệp thông thân mật
với Ngài.
155. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của
Thiên Chúa: “Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa
theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng”[19].
Đức tin và lý trí
156. Động lực khiến chúng ta tin không phải là vì các chân lý được mạc
khải tỏ hiện là xác thật và có thể hiểu được đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên
của chúng ta. Chúng ta tin “vì uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mạc khải,
Đấng không thể sai lầm cũng như không thể lừa dối chúng ta”[20].
“Tuy nhiên, để đức tin của chúng ta ‘quy phục phù hợp với lý trí’, Thiên Chúa
đã muốn có những bằng chứng bên ngoài về mạc khải của Ngài kèm theo sự trợ giúp
bên trong của Chúa Thánh Thần”[21]. Chẳng hạn, các phép
lạ của Đức Kitô và của các Thánh[22],các lời tiên tri,
sự phát triển và thánh thiện cũng như sự phong phú và vững bền của Hội Thánh,
đó “là những dấu chỉ chắc chắn nhất của mạc khải của Thiên Chúa, những dấu chỉ
đó phù hợp với lý trí của mọi người”[23], đó là những
động lực khiến chúng ta tin, những động lực đó cho thấy “sự ưng thuận của đức
tin hoàn toàn không phải là một hành vi mù quáng của tâm trí”[24].
157. Đức tin thì chắc chắn, chắc chắn hơn mọi hiểu biết phàm nhân, bởi vì đức
tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối. Các chân lý được
mạc khải có thể bị coi là tối tăm đối với cả lý trí lẫn kinh nghiệm phàm nhân,
nhưng “sự chắc chắn nhờ ánh sáng của Thiên Chúa thì lớn hơn sự chắc chắn nhờ
ánh sáng của lý trí tự nhiên”[25]. “Mười ngàn nỗi khó
khăn không làm thành một sự hồ nghi”[26].
158. “Đức tin tìm hiểu biết”[27]: gắn liền với
đức tin là việc người tin muốn biết rõ hơn về Đấng mình đã tin và hiểu rõ hơn
về điều Ngài đã mạc khải; về phần mình, một hiểu biết sâu xa hơn sẽ dẫn đến một
đức tin lớn lao hơn, luôn thấm đượm tình yêu hơn. Ơn đức tin mở “con mắt của trái
tim” (Ep 1,18) để có một hiểu biết sống động về các nội dung của mạc khải,
nghĩa là về toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức tin, tương
quan giữa các mầu nhiệm với nhau và với Đức Kitô, tâm điểm của các mầu nhiệm
được mạc khải. “Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi…, Chúa Thánh
Thần không ngừng ban các hồng ân mà kiện toàn đức tin”[28].
Đúng như câu châm ngôn của thánh Augustinô: “Bạn hãy hiểu để tin; bạn hãy tin
để hiểu”[29].
159. Đức tin và khoa học. “Mặc dù đức tin
vượt trên lý trí, nhưng không bao giờ có thể có mâu thuẫn thật sự giữa đức tin
và lý trí: vì cùng một Thiên Chúa, Đấng mạc khải các mầu nhiệm và tuôn đổ đức
tin, cũng là Đấng ban ánh sáng lý trí cho tâm hồn con người, mà Thiên Chúa
không thể tự phủ nhận chính mình Ngài, cũng như điều chân thật không bao giờ
nghịch lại điều chân thật”[30]. “Bởi vậy, việc nghiên
cứu có phương pháp trong mọi ngành, nếu được tiến hành một cách thật sự khoa
học và theo đúng các chuẩn mực luân lý, sẽ không bao giờ thật sự đối nghịch với
đức tin, bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc
là bởi cùng một Thiên Chúa. Hơn nữa, ai khiêm tốn và kiên nhẫn cố gắng nghiên
cứu những bí ẩn của các sự vật, thì mặc dù họ không ý thức, họ vẫn như được dẫn
đưa bởi bàn tay của Thiên Chúa, Đấng đang nâng đỡ vạn vật, Ngài làm cho hiện
hữu những gì đang hiện hữu”[31].
Đức tin là một hành vi tự do
160. Để việc đáp lại của đức tin là một hành vi nhân linh, “con người
phải đáp lại Thiên Chúa bằng việc tin một cách tự nguyện. Do đó, không được
cưỡng ép ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn của họ. Thật vậy, tự bản
chất của nó, đức tin là một hành vi tự nguyện”[32].
“Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý; con
người phải theo lương tâm đáp lại lời mời gọi ấy, nhưng không bị ép buộc…. Điều
này ta thấy rõ ràng nhất nơi Đức Kitô”[33]. Thật vậy,
Đức Kitô mời gọi người ta tin và hối cải, nhưng Người không hề cưỡng ép ai.
“Người đã làm chứng cho chân lý, nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt chân
lý đối với những kẻ chống đối. Nước Người … tăng triển bằng tình yêu, tình yêu
đó là Đức Kitô đã chịu giương cao trên thập giá để lôi kéo người ta đến với
mình”[34].
161. Tin vào Chúa Giêsu Kitô và Đấng đã sai Người đến cứu độ chúng ta,
là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ đó.[35]“Mà
‘không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa’ (Dt 11,6) và cũng không
thể đạt tới chức vị làm con cái Thiên Chúa, nên không ai được công chính hóa
nếu không có đức tin, và không ai đạt tới cuộc sống muôn đời nếu không ‘bền chí
đến cùng’ (Mt 10,22; 24,13) trong đức tin”[36].
162. Đức tin là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban tặng cho con
người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó. Thánh Phaolô cảnh giác ông
Timôthê về nguy cơ này: “Đây là chỉ thị tôi trao cho anh … để anh dựa vào đó mà
chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp này, với đức tin và lương tâm ngay thẳng.
Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết
chìm” (1 Tm 1,18-19). Để sống, lớn lên và kiên trì đến cùng trong đức tin,
chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa; chúng ta phải cầu xin
Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta[37]; đức tin ấy phải
hành động “nhờ đức mến” (Gl 5, 6)[38], phải được nâng
đỡ bằng đức cậy[39] và phải đâm rễ trong đức tin của
Hội Thánh.
163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh
sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của
cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên
Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như
vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:
“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn
trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng
ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có
đây rồi”[40].
164. Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta “tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải
nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5,7), và chúng ta nhận biết Thiên Chúa “lờ mờ như
trong một tấm gương, có ngần, có hạn” (1 Cr 13,12). Mặc dù đức tin sáng tỏ
nhờ Đấng chúng ta tin, nhưng đời sống đức tin lại thường tối tăm. Đức tin có
thể bị thử thách. Trần gian mà chúng ta đang sống thường được coi như xa vời
với những gì đức tin tuyên xưng; những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về
những bất công và cái chết, dường như mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có
thể làm cho đức tin bị nao núng và trở thành một cám dỗ đối với đức tin.
165. Chính lúc đó chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông
Abraham, là người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững
tin” (Rm 4,18); về Đức Trinh Nữ Maria, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”[41], đã tiến đến tận “đêm tối của đức tin”[42] khi tham dự vào đêm tối là cuộc khổ hình thập giá của
Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người[43]; và chúng
ta phải hướng về biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân
chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội
lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt
hướng về Chúa Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).
[1]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 2:
AAS 58 (1966) 818.
[2]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5:
AAS 58 (1966) 819.
[3]X. Rm l,5; 16,26.
[4]X. St 12,1-4.
[5]X. St 23,4.
[6]X. Dt 11,17.
[7]X. St 15,6.
[8]X. St 15,5.
[9]X. St 18,14.
[10]X. Lc 1,48.
[11]X. Lc 2,35.
[12]X. Gr 17,5-6; Tv 40,5; 146,3-4.
[13]X. Mc 1,11.
[14]X. Mc 9,7.
[15]X. Mt 11,27.
[16]X. Gl 1,15-16; Mt 11,25.
[17]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5:
AAS 58 (1966) 819.
[18]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3008.
[19]Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae,
II-II, q. 2, a. 9, c: Ed.
[20]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3008.
[21]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3009.
[22]X. Mc 16,20; Dt 2,4.
[23]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3009.
[24]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3010.
[25]Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae,
II-II, q. 171, a.5, 3um: Ed.
[26]John Henry Newman, Apologia pro vitasua, c.
5, Ed. M.J. Svaglic (
[27]Thánh Anselmô, Proslogion,
Prooemium: Opera
omnia, ed. F.S. Schmitt, v. 1 (Edinburghi 1946) 94.
[28]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5:
AAS 58 (1966) 819.
[29]Thánh Augustinô, Sermo, 43,
7, 9: CCL 41, 512 (PL 38, 258).
[30]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 4: DS 3017.
[31]CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36:
AAS 58 (1966) 1054.
[32]CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 10:
AAS 58 (1966) 936; X. Bộ Giáo Luật, điều 748, 2.
[33]CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11:
AAS 58 (1966) 936.
[34]CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11:
AAS 58 (1966) 937.
[35]X. Mc 16,16; Ga 3,36; 6,40.
[36]CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius,
c. 3: DS 3012; x. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 8: DS
1532.
[37]X. Mc 9,24; Lc 17,5; 22,32.
[38]X. Gc 2,14-26.
[39]X. Rm 15,13.
[40]Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu Sancto,
15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32,132); x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae,
II-II, q. 4, a. 1, c: Ed.
[41]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 58:
AAS 57 (1965) 61.
[42]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater,
17: AAS 79 (1987) 381.
[43]X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater,
18: AAS 79 (1987) 382-383.