Mục 7
Bí Tích Hôn Phối
Articulus 7
Sacramentum Matrimonii
1601. “Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo
thành một sự hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy hướng về
lợi ích của đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái; Chúa Kitô
đã nâng giao ước hôn nhân giữa hai người đã được Rửa Tội lên hàng bí tích”[1].
I. HÔN NHÂN TRONG KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
MATRIMONIUM IN
CONSILIO DEI
1602. Kinh Thánh mở đầu bằng việc tạo dựng người nam và người nữ
theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa[2] và
kết thúc bằng viễn ảnh về “tiệc cưới Con Chiên” (Kh 19,9)[3].
Từ đầu đến cuối, Kinh Thánh nói về hôn nhân và mầu nhiệm hôn nhân, về việc
thiết lập và ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ban cho hôn nhân, về nguồn gốc và mục
đích của hôn nhân, về những việc thực hiện khác nhau của hôn nhân qua dòng lịch
sử cứu độ, về những khó khăn của hôn nhân phát sinh do tội lỗi, và việc canh
tân hôn nhân “trong Chúa” (1 Cr 7,39), trong Giao Ước Mới của Đức Kitô và của
Hội Thánh[4].
Hôn nhân trong trật tự của công trình tạo dựng
1603. “Cộng đồng thân mật của đời sống và tình yêu hôn nhân, đã
được Đấng Tạo Hoá thiết lập và quy định những luật lệ cho nó. Chính Thiên Chúa
là tác giả của hôn nhân”[5].
Ơn gọi hôn nhân đã được khắc ghi trong chính bản tính của người nam và người
nữ, như chính họ phát xuất từ bàn tay Đấng Tạo Hoá. Hôn nhân không phải chỉ là
một định chế của phàm nhân, mặc dù đã có không ít những biến đổi mà hôn nhân đã
trải qua suốt các thế kỷ, trong các nền văn hoá, cơ cấu xã hội và thái độ tinh
thần khác nhau. Những sự khác biệt này không được làm quên đi những nét chung
và trường tồn. Dù phẩm giá của định chế này không phải ở đâu cũng sáng tỏ như
nhau[6],
nhưng trong tất cả các nền văn hoá, vẫn có một ý thức nào đó về sự cao cả của
việc kết hợp trong hôn nhân. “Ơn cứu độ của cá nhân và của xã hội nhân loại và
xã hội Kitô giáo, liên kết chặt chẽ với tình trạng lành mạnh của cộng đồng hôn
nhân và gia đình”[7].
1604. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người vì tình yêu, cũng đã
kêu gọi họ đến tình yêu, đó là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi nhân vị.
Thật vậy, con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa[8],
Đấng chính “là Tình Yêu” (1 Ga 4,8.16). Vì Thiên Chúa đã dựng họ có nam có nữ,
nên tình yêu hỗ tương của họ là một hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt
Thiên Chúa dành để yêu con người. Dưới mắt Đấng Tạo Hóa, tình yêu này là tốt,
là rất tốt[9].
Và tình yêu này, được Thiên Chúa chúc phúc, được nhắm đến việc sinh sôi nảy nở
và trong công trình chung, nhắm đến việc bảo tồn công trình tạo dựng: “Thiên
Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất’” (St 1,28).
1605. Kinh Thánh đã khẳng định rằng, người nam và người nữ được tạo
dựng cho nhau: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2,18). Người nữ là
“thịt bởi thịt” của người nam[10],
nghĩa là bình đẳng với người nam, rất gần gũi với người nam, mà Thiên Chúa đã
ban cho người nam với tư cách là một “trợ tá”[11],
như vậy là người thay mặt Thiên Chúa để trợ giúp chúng ta[12].
“Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một
xương một thịt” (St 2,24). Chính Chúa cho thấy câu này nói lên sự hợp nhất cuộc
đời hai người cách bất diệt, khi Người nhắc lại ý định “lúc khởi đầu” của Đấng
Tạo Hoá[13]:
“Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,6).
Hôn nhân dưới sự kiểm soát của tội lỗi
1606. Mọi người đều có kinh nghiệm về sự dữ chung quanh mình và nơi
chính mình. Kinh nghiệm này cũng được cảm nghiệm trong các mối tương quan giữa
người nam và người nữ. Sự hợp nhất của họ lúc nào cũng bị đe dọa bởi sự bất
hoà, óc thống trị, sự bất trung, lòng ghen tương và sự xung đột, những điều đó
có thể đưa đến hận thù và đoạn tuyệt. Sự xáo trộn này có thể được biểu lộ một
cách nhiều hay ít gay gắt, và có thể được khắc phục nhiều hay ít tùy theo các
nền văn hoá, các thời đại và các cá nhân, nhưng hình như sự xáo trộn đó có tính
phổ quát.
1607. Theo đức tin, sự xáo trộn này, mà chúng ta cảm nghiệm một
cách đau lòng, không xuất phát từ bản tính của người nam và người nữ, cũng
không do bản chất của các mối tương quan giữa họ, nhưng
do tội lỗi. Nguyên tội, một sự chia lìa khỏi Thiên Chúa, đưa đến
hậu quả đầu tiên là chia lìa sự hiệp thông nguyên thủy giữa người nam và người
nữ. Tương quan của họ bị xáo trộn do việc đổ lỗi cho nhau[14];
sự hấp dẫn lẫn nhau, là hồng ân riêng của Đấng Tạo Hoá[15],
bị đổi thành những tương quan thống trị và ham muốn[16];
ơn gọi đẹp đẽ của người nam và người nữ là sinh sôi nảy nở để tăng số và thống
trị mặt đất[17] đã
trở nên nặng nề vì những hình phạt [là đau đớn] khi sinh con và [cực nhọc] khi
lao động làm ra cơm bánh[18].
1608. Dù vậy, trật tự của công trình tạo dựng vẫn tồn tại, tuy bị
xáo trộn nặng nề. Để chữa lành những vết thương do tội lỗi, người nam và người
nữ cần đến sự trợ giúp của ân sủng mà Thiên Chúa, vì lòng thương xót vô biên
của Ngài, không bao giờ từ chối ban cho họ[19].
Không có sự trợ giúp này, người nam và người nữ không thể thực hiện được sự kết
hợp cả cuộc đời của họ, điều mà “lúc khởi đầu” Thiên Chúa đã nhắm đến khi Ngài
tạo dựng nên họ.
Hôn nhân dưới giáo huấn của Lề Luật
1609. Vì lòng thương xót của Ngài, Thiên Chúa không bỏ rơi con
người tội lỗi. Những hình phạt theo sau tội lỗi, như đau đớn khi sinh con[20],
lao động “đổ mồ hôi trán” (St 3,19) cũng là những phương thuốc ngăn bớt những
tác hại của tội. Sau khi con người sa ngã, hôn nhân giúp vượt thắng tình trạng
co cụm vào bản thân, “chủ nghĩa ích kỷ”, chỉ yêu mình, tìm khoái lạc riêng, và
giúp con người mở ra cho tha nhân, trợ giúp lẫn nhau, và ban tặng chính mình.
1610. Ý thức luân lý về sự duy nhất và sự bất khả phân ly của hôn
nhân được phát triển dần dưới giáo huấn của Luật cũ. Tục đa thê của các tổ phụ
và các vua chưa bị đẩy lui cách rõ ràng. Nhưng Luật được ban cho ông Môisen đã
nhắm đến việc bảo vệ người nữ chống lại sự độc đoán thống trị của người nam,
mặc dù luật này cũng kèm theo, như lời Chúa nói, những dấu vết của “sự cứng
lòng” của người nam, do đó ông Môisen đã cho phép rẫy vợ[21].
1611. Nhìn giao ước của Thiên Chúa với dân Israel dưới hình ảnh của
một tình yêu hôn nhân duy nhất và chung thủy[22],
các Tiên tri đã chuẩn bị ý thức của Dân Chúa chọn để họ hiểu biết sâu xa hơn về
tính duy nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân[23].
Các sách Rút và Tôbia đã nêu lên những chứng từ cảm động về ý nghĩa cao quý của
hôn nhân, của lòng chung thủy và sự âu yếm phu phụ. Truyền thống luôn nhận thấy
trong sách Diễm Ca sự diễn tả độc đáo về tình yêu của con người, như là tiếng
vọng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu “mãnh liệt như tử thần” và “nước lũ
không dập tắt nổi” (Dc 8,6-7).
Hôn nhân trong Chúa
1612. Giao ước hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Israel của Ngài đã
chuẩn bị cho Giao ước mới và vĩnh cửu. Trong giao ước mới này, Con Thiên Chúa,
Đấng nhập thể và hiến dâng mạng sống, một cách nào đó đã liên kết Người với
toàn thể nhân loại được Người cứu độ[24],
như vậy Người chuẩn bị cho “tiệc cưới của Con Chiên”[25].
1613. Khởi đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ
đầu tiên của Người[26] -
theo lời yêu cầu của Mẹ Người - trong một tiệc cưới. Hội Thánh coi việc Chúa
Giêsu hiện diện trong tiệc cưới Cana có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh
coi đó là sự xác nhận tính thiện hảo của hôn nhân và là lời loan báo rằng hôn
nhân từ đây về sau là dấu chỉ hữu hiệu về sự hiện diện của Đức Kitô.
1614. Trong khi Người rao giảng, Chúa Giêsu đã dạy một cách rõ ràng
về ý nghĩa nguyên thủy của sự kết hợp giữa người nam và người nữ, đúng như Đấng
Tạo Hoá đã muốn ngay từ lúc khởi đầu. Việc ông Môisen cho phép rẫy vợ là một
nhượng bộ trước lòng chai dạ đá[27].
Sự kết hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ là bất khả phân ly: chính Thiên
Chúa đã thực hiện sự kết hợp đó: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không
được phân ly” (Mt 19,6).
1615. Lời nhấn mạnh rõ ràng về tính bất khả phân ly của dây hôn
nhân làm cho nhiều người ngỡ ngàng và coi đó là một đòi hỏi không thể thực hiện
được[28].
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không đặt cho các đôi phối ngẫu một gánh không thể
mang nổi và quá nặng nề[29],
nặng nề hơn luật Môisen. Khi đến để tái lập trật tự ban đầu của công trình tạo
dựng, đã bị xáo trộn vì tội lỗi, chính Người ban sức mạnh và ân sủng để con
người sống đời hôn nhân theo chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Khi bước theo
Đức Kitô bằng cách từ bỏ mình và vác thập giá mình[30],
các đôi phối ngẫu có thể “hiểu được”[31] ý
nghĩa nguyên thủy của hôn nhân và sống với ý nghĩa đó nhờ sự trợ giúp của Đức
Kitô. Ân sủng này của hôn nhân Kitô giáo là hoa trái của Thập Giá Đức Kitô,
nguồn mạch của toàn bộ đời sống Kitô hữu.
1616. Tông Đồ Phaolô làm sáng tỏ điều đó khi nói: “Người làm chồng
hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội
Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,25-26). Thánh
nhân còn nói thêm: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi
muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32).
1617. Toàn bộ đời sống Kitô hữu mang dấu chỉ của tình yêu phu thê
giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Rửa Tội, cửa dẫn vào dân Thiên Chúa, đã là
một mầu nhiệm hôn ước; bí tích đó có thể nói được là như một thanh tẩy chuẩn bị
hôn lễ[32] diễn
ra trước bữa tiệc cưới, là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Kitô giáo, đến lượt
mình, trở thành dấu chỉ hữu hiệu, trở thành bí tích của giao ước giữa Đức Kitô
và Hội Thánh. Bởi vì nó nói lên và truyền thông ân sủng của giao ước đó, nên
hôn nhân giữa hai người đã được Rửa Tội là một bí tích thật sự của Giao Ước Mới[33].
Trinh khiết vì Nước [Trời]
1618. Đức Kitô là trọng tâm của toàn bộ đời sống Kitô giáo. Dây
liên kết với Người chiếm vị trí hàng đầu so với mọi dây liên kết khác về gia
đình hay xã hội[34].
Ngay thuở ban đầu của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ từ bỏ lợi
ích lớn lao của hôn nhân để theo Con Chiên đi bất cứ nơi nào Người đi[35],
để chuyên lo việc của Chúa, để tìm cách làm đẹp lòng Người[36],
và để đi đón Tân Lang đang đến[37].
Chính Đức Kitô đã mời gọi một số người đi theo Người trong cách sống này, cách
sống mà Người luôn là mẫu mực:
“Có những người
không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người
không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì
Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12).
1619. Trinh khiết vì Nước Trời là sự triển khai ân sủng bí tích Rửa
Tội, là dấu chỉ nổi bật cho sự ưu tiên tuyệt đối của mối liên kết với Đức Kitô
và cho sự sốt sắng mong chờ Người lại đến, và cũng là một dấu chỉ nhắc nhớ rằng
hôn nhân là một thực tại của thế giới hiện tại đang qua đi[38].
1620. Cả hai, bí tích Hôn nhân và đời sống trinh khiết vì Nước
Thiên Chúa, đều phát xuất từ chính Chúa. Chính Ngài ban cho cả hai, ý nghĩa và
ân sủng cần thiết để sống theo thánh ý Ngài[39].
Việc đánh giá sự trinh khiết vì Nước Trời[40] và
ý nghĩa Kitô giáo của Hôn nhân là không thể tách rời nhau và hỗ trợ cho nhau:
“Ai hạ giá hôn
nhân, thì người đó cũng hạ giá sự vinh quang của đức trinh khiết; ai ca ngợi
hôn nhân, thì người đó càng khâm phục đức trinh khiết. Bởi vì điều gì còn phải
so sánh với một điều xấu hơn mới thấy là tốt, thì đó chưa phải là hoàn toàn
tốt; còn điều gì tốt hơn những cái mọi người cho là tốt, thì đó mới là điều tốt
tuyệt hảo”[41].
II. CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN PHỐI
MATRIMONII
CELEBRATIO
1621. Trong nghi lễ La tinh, bí tích Hôn Phối giữa hai tín hữu công
giáo thường được cử hành trong thánh lễ, vì tất cả các bí tích đều liên kết với
mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô[42].
Trong thánh lễ, việc tưởng niệm Giao Ước Mới được thực hiện, trong đó Đức Kitô
đã kết hợp Người cách vĩnh viễn với Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh, vì
Hội Thánh đó mà Người đã nộp mình[43].
Vì vậy, đôi phối ngẫu phải đóng ấn sự ưng thuận trao tặng chính mình cho nhau
bằng lễ dâng cuộc đời họ, khi họ kết hợp sự ưng thuận đó với lễ dâng hiện tại
của Đức Kitô vì Hội Thánh Người, được hiện thực trong Hy lễ Thánh Thể, và khi
họ rước lễ, để nhờ hiệp thông với chính Mình và Máu Đức Kitô, họ làm nên “một
thân thể” trong Đức Kitô[44].
1622. “Nghi lễ hôn phối là một hành vi bí tích để thánh hóa, nên
phải được cử hành một cách thành sự, xứng đáng và sinh hiệu quả”[45].
Vì vậy, để dọn mình cử hành bí tích Hôn Phối, hai người phải lãnh nhận bí tích
Giao Hoà.
1623. Theo truyền thống La tinh, chính đôi tân hôn, với tư cách là
các thừa tác viên của ân sủng của Đức Kitô, tự trao ban bí tích Hôn Phối cho
nhau, khi bày tỏ sự ưng thuận kết hôn trước mặt Hội Thánh. Trong truyền thống
các Giáo Hội Đông phương, các tư tế, Giám mục hay linh mục, là những nhân chứng
cho sự ưng thuận hỗ tương được trao đổi giữa các người phối ngẫu[46],
nhưng lời chúc lành của các ngài cũng cần thiết để bí tích nên thành sự[47].
1624. Các nền phụng vụ khác nhau có nhiều lời nguyện chúc lành và
lời nguyện khẩn cầu Chúa Thánh Thần, xin Thiên Chúa ban tràn đầy ân sủng và
phúc lành của Ngài cho đôi tân hôn, đặc biệt cho người vợ. Trong lời nguyện
khẩn cầu Chúa Thánh Thần của bí tích này, đôi tân hôn lãnh nhận Chúa Thánh Thần
xét như sự hiệp thông tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh[48].
Chính Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, Ngài luôn luôn là nguồn mạch
cho tình yêu dâng hiến của họ, và là sức mạnh giúp họ chung thủy với nhau.
III. SỰ ƯNG THUẬN KẾT HÔN
CONSENSUS
MATRIMONIALIS
1625. Hôn ước được ký kết giữa người nam và người nữ, cả hai đã
được rửa tội và tự do để kết hôn, và họ tự nguyện bày tỏ sự ưng thuận của mình.
“Tự do” nghĩa là:
- không bị ép buộc;
- không bị ngăn trở
theo luật tự nhiên hay giáo luật.
1626. Hội Thánh coi việc trao đổi sự ưng thuận giữa hai người phối
ngẫu như là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân”[49].
Nếu thiếu sự ưng thuận, thì không có hôn nhân.
1627. Sự ưng thuận là một “hành vi nhân linh, qua đó hai người phối
ngẫu trao thân cho nhau và đón nhận nhau”[50]:
“Anh nhận em làm vợ anh…”; “Em nhận anh làm chồng em…”[51].
Sự ưng thuận này kết hợp hai người phối ngẫu với nhau, đạt đến sự hoàn hợp
(consummationem) khi hai người “trở nên một xác thịt”[52].
1628. Sự ưng thuận phải là một hành vi ý chí của mỗi người phối
ngẫu, tự do không bị tác động vì bạo lực hay vì sợ hãi nghiêm trọng từ bên
ngoài[53].
Không có thế lực nhân loại nào có thể thay thế sự ưng thuận đó[54].
Nếu thiếu sự tự do này, thì hôn nhân không thành sự.
1629. Vì lý do này (hay vì những lý do khác làm cho hôn nhân trở
nên vô hiệu và tiêu hôn)[55] Hội
Thánh, sau khi xét duyệt các điều kiện qua toà án hôn phối có thẩm quyền, có
thể tuyên bố “sự vô hiệu của hôn nhân”, nghĩa là hôn nhân đó đã không hề thành
sự. Trong trường hợp này, hai người được tự do kết hôn, nhưng họ vẫn phải giữ
những nghĩa vụ tự nhiên do sự kết hợp trước[56].
1630. Tư tế (hay phó tế), chứng kiến việc cử hành Hôn Phối, nhân
danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi tân hôn và ban cho họ lời chúc lành
của Hội Thánh. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh (và của cả những nhân
chứng) diễn tả cách rõ ràng rằng, hôn nhân là một thực tại có chiều kích Hội
Thánh.
1631. Vì lý do này, Hội Thánh thường đòi buộc các tín hữu của mình
phải kết hôn theo thể thức của Hội Thánh[57]. Có
nhiều lý do để giải thích quy định này:
- Hôn nhân mang
tính bí tích là một hành vi phụng vụ. Bởi vậy nên được cử hành
trong phụng vụ công khai của Hội Thánh;
- Hôn nhân đưa
người ta vào một bậc sống trong Hội Thánh, mang lại những
quyền lợi và nghĩa vụ trong Hội Thánh giữa đôi phối ngẫu và đối với con cái;
- Bởi vì hôn nhân
là một bậc sống trong Hội Thánh, nên cần thiết phải có sự chắc chắn về hôn nhân
(vì vậy bắt buộc phải có các nhân chứng);
- Tính chất công
khai của sự ưng thuận bảo vệ sự ưng thuận đó sau khi nó đã được thực hiện, và
trợ giúp người ta chung thuỷ với lời ưng thuận đó.
1632. Để sự ưng thuận của hai người phối ngẫu là một hành vi tự do
và có trách nhiệm, và để cho hôn ước có được những nền tảng nhân bản và Kitô
giáo một cách vững chắc và lâu bền, việc chuẩn bị hôn nhân là
hết sức quan trọng:
- Gương sáng và sự
giáo dục do cha mẹ và gia đình luôn là con đường đặc biệt cho việc chuẩn bị
này.
- Nhiệm vụ của các
mục tử và của cộng đoàn Kitô hữu, như là “của gia đình Thiên Chúa”, là cần
thiết để trao ban những giá trị nhân bản và Kitô giáo về hôn nhân và gia đình[58],
nhất là trong thời đại chúng ta, nhiều bạn trẻ đã cảm nghiệm những cảnh gia
đình tan vỡ, các gia đình này không còn mang lại đầy đủ được sự khai tâm như
vậy:
“Những người trẻ
phải được giáo dục cách thích hợp và đúng lúc, tốt nhất là trong khung cảnh gia
đình mình, về phẩm giá, nhiệm vụ và công việc của tình yêu phu phụ, để sau khi
đã được dạy dỗ bảo toàn đức khiết tịnh, lúc đến tuổi thích hợp, họ có thể từ
thời kỳ đính hôn trong trắng bước vào đời sống hôn nhân”[59].
Hôn nhân hỗn hợp và khác đạo
1633. Trong nhiều miền, rất thường có những hôn nhân hỗn
hợp (giữa người công giáo và người được rửa tội ngoài công giáo). Tình
trạng này đòi hỏi phải có sự lưu tâm đặc biệt của những người phối ngẫu cũng
như của các mục tử. Trường hợp hôn nhân khác đạo (giữa người
công giáo và người không được rửa tội) lại càng phải cẩn thận quan tâm hơn nữa.
1634. Việc những người phối ngẫu thuộc những Giáo Hội Kitô khác
nhau không tạo nên một ngăn trở không thể vượt qua đối với hôn nhân, khi hai
người đóng góp cho nhau những gì mỗi người đã lãnh nhận nơi cộng đoàn của mình,
và học hỏi lẫn nhau cách sống trung thành với Đức Kitô. Nhưng không được coi
thường những khó khăn trong các cuộc hôn nhân hỗn hợp. Những khó khăn này xuất
phát từ sự chia rẽ giữa các Kitô hữu, đến nay vẫn chưa được giải quyết. Đôi
phối ngẫu có nguy cơ phải cảm nghiệm cách bi thảm sự chia rẽ của các Kitô hữu
ngay trong gia đình của mình. Việc khác đạo càng có thể khiến cho các khó khăn
nói trên trở nên trầm trọng hơn. Những khác biệt về đức tin, chính quan niệm về
hôn nhân, và cả những não trạng tôn giáo khác nhau, có thể tạo thành cội nguồn
cho những căng thẳng trong hôn nhân, nhất là đối với vấn đề giáo dục con cái.
Từ đó có thể đưa đến một nguy cơ là sự dửng dưng về tôn giáo.
1635. Theo luật hiện hành của Giáo Hội La tinh, hôn nhân hỗn hợp
chỉ hợp pháp khi có phép minh nhiên của giáo quyền[60].
Còn trường hợp khác đạo, thì phải có phép chuẩn minh nhiên để
miễn chuẩn khỏi ngăn trở, thì hôn nhân khác đạo mới thành sự[61]. Muốn
được phép hay được chuẩn, phải giả thiết rằng cả hai đương sự biết rõ và không
loại trừ những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân; riêng bên công giáo
cam kết thi hành những đòi buộc, là giữ đức tin của mình, và bảo đảm cho con
cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo, và phải thông báo cho
bên không công giáo biết rõ những điều ấy[62].
1636. Trong nhiều miền, nhờ cuộc đối thoại đại kết, một số cộng
đoàn Kitô hữu đã tổ chức sinh hoạt mục vụ chung cho các đôi hôn nhân
hỗn hợp. Nhiệm vụ của sinh hoạt này là giúp cho các đôi phối ngẫu biết sống
hoàn cảnh đặc biệt của họ dưới ánh sáng đức tin. Sinh hoạt đó cũng phải giúp họ
vượt thắng những căng thẳng giữa các bổn phận của họ đối với nhau và đối với
các cộng đoàn Giáo Hội của họ. Sinh hoạt mục vụ chung phải khuyến khích làm
tăng trưởng những gì đối với họ là chung trong đức tin, và tôn trọng những gì
còn làm họ chia rẽ.
1637. Trong các hôn nhân khác đạo, người phối ngẫu công giáo có một
nhiệm vụ đặc biệt: “Chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ và vợ ngoại đạo được
thánh hoá nhờ người chồng có đạo” (1 Cr 7,14). Thật là một niềm vui lớn cho
người phối ngẫu Kitô hữu và cho Hội Thánh nếu “việc thánh hoá” này đưa người
phối ngẫu kia tự nguyện trở lại với đức tin Kitô giáo[63].
Tình yêu phu phụ chân thành, việc thực hành cách khiêm tốn và nhẫn nại những
đức tính thuộc gia đình và việc kiên trì cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người
phối ngẫu không có đức tin đón nhận được ơn hối cải.
IV. NHỮNG HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH HÔN PHỐI
EFFECTUS SACRAMENTI
MATRIMONII
1638. “Từ cuộc hôn nhân thành sự giữa những người phối ngẫu nảy
sinh một mối dây liên kết vĩnh viễn và độc hữu tự bản chất;
ngoài ra, trong hôn nhân Kitô giáo, những người phối ngẫu được củng cố và như
được thánh hiến do một bí tích đặc biệt để chu toàn nghĩa vụ
và nâng cao phẩm giá bậc sống của mình”[64].
Dây Hôn Phối
1639. Sự ưng thuận, qua đó hai người phối ngẫu tự hiến cho nhau và
đón nhận nhau, được chính Thiên Chúa đóng ấn[65].
Từ hôn ước của họ “phát sinh một định chế vững chắc theo ý định của Thiên Chúa
và có giá trị trước mặt xã hội”[66].
Hôn ước của đôi phối ngẫu được lồng vào trong giao ước giữa Thiên Chúa với nhân
loại: “Tình yêu phu phụ đích thực được đón nhận vào trong tình yêu Thiên Chúa”[67].
1640. Dây hôn phối được chính Thiên Chúa thiết đặt, đến
độ hôn nhân thành nhận và hoàn hợp (ratum et consummatum) giữa hai người đã
được rửa tội, không bao giờ có thể được tháo gỡ. Dây liên kết này, là do một
hành vi nhân linh tự do của đôi phối ngẫu và do sự hoàn hợp hôn phối, là một
thực tại từ nay không thể rút lại, và là nguồn gốc của một giao ước đã được bảo
đảm bởi sự trung tín của Thiên Chúa. Hội Thánh không có quyền tuyên bố trái
ngược với sự an bài khôn ngoan này của Thiên Chúa[68].
Ân sủng của bí tích Hôn Phối
1641. “Các đôi phối ngẫu Kitô hữu có hồng ân riêng cho bậc sống của
mình trong dân Thiên Chúa”[69].
Ân sủng riêng biệt này của bí tích Hôn Phối là để kiện toàn tình yêu phu phụ,
củng cố sự hợp nhất bất khả phân ly của họ. Nhờ ân sủng này, “họ giúp nhau nên
thánh trong đời sống hôn nhân và trong việc đón nhận và giáo dục con cái”[70].
1642. Đức Kitô là nguồn mạch của ân sủng này. “Cũng như
xưa kia, Thiên Chúa đến gặp dân Ngài bằng một giao ước tình yêu và trung thành,
thì ngày nay, Đấng Cứu Độ loài người và là Phu Quân của Hội Thánh, cũng đến gặp
các đôi phối ngẫu Kitô hữu qua bí tích Hôn Phối”[71].
Người ở lại với họ, ban sức mạnh cho họ để họ nhận lấy thập giá của mình mà
bước theo Người, để họ chỗi dậy sau khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, để họ
vác lấy gánh nặng của nhau[72],
để họ “tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương
nhau bằng một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và sinh sôi nảy nở. Thiên Chúa ban
cho họ, ngay từ đời này, trong những niềm vui của tình yêu và của đời sống gia
đình họ, được nếm trước tiệc cưới Con Chiên:
“Làm sao chúng ta
có thể mô tả được niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được
hy lễ củng cố, được lời chúc lành đóng ấn, được các Thiên thần công bố và được
Cha trên trời chuẩn nhận? Có đôi bạn nào bằng đôi bạn tín hữu, được kết hợp do
cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một kỷ luật, cùng một công
việc phục vụ. Cả hai là anh em (con một Cha), là đồng phục vụ (cho một Chủ);
không bị phân rẽ trong tinh thần và trong xác thịt, thật sự là hai trong một
xác thịt. Ở đâu xác thịt nên một, thì tinh thần cũng nên một”[73].
V. NHỮNG ĐIỀU THIỆN HẢO VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI CỦA TÌNH YÊU PHU PHỤ
AMORIS CONIUGALIS
BONA ET EXIGENTIAE
1643. “Tình yêu phu phụ là một tổng thể bao gồm mọi yếu tố của con
người: những đòi hỏi của thân xác và bản năng, những sức mạnh của giác quan và
tình cảm, những khát khao của tinh thần và ý chí; tình yêu đó nhắm đến sự hợp
nhất bản thân sâu xa, một sự hợp nhất rõ ràng là vượt quá việc chỉ nên một về
thể xác, để trở thành một trái tim và một tâm hồn; tình yêu ấy thật sự đòi
hỏi sự bất khả phân ly và lòng chung thủy khi
trao hiến cho nhau một cách dứt khoát, và mở ngỏ cho việc sinh sản.
Nói tóm lại, đây là những đặc điểm thông thường của bất cứ tình yêu phu phụ tự
nhiên nào, nhưng mang một ý nghĩa mới mẻ, một ý nghĩa không những thanh luyện
và củng cố những đặc điểm đó, mà còn nâng cao chúng lên đến độ chúng được coi
là biểu hiện của những điều thiện hảo riêng biệt của Kitô giáo”[74].
Tính duy nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân
1644. Tự bản chất của nó, tình yêu phu phụ đòi hỏi sự duy nhất và
sự bất khả phân ly của cộng đồng nhân vị của họ trong suốt cuộc đời họ: “Họ
không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã
phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6)[75].
“Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc
trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau”[76].
Sự hiệp thông phàm nhân này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ sự hiệp
thông trong Đức Kitô, được ban tặng nhờ bí tích Hôn Phối. Sự hiệp thông đó càng
thâm sâu hơn nhờ cùng sống đức tin chung với nhau và cùng lãnh nhận bí tích
Thánh Thể chung với nhau.
1645. “Tính duy nhất của hôn nhân mà Chúa đã xác nhận, được biểu lộ
cách rõ ràng qua việc phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa người nam và người nữ
được nhìn nhận trong sự yêu thương lẫn nhau cách trọn vẹn”[77]. Tục
đa thê là trái ngược với phẩm giá bình đẳng này và với tình yêu phu
phụ, vì tình yêu này là duy nhất và độc chiếm (unicus et exclusivus)[78].
Sự chung thủy trong tình yêu phu phụ
1646. Tự bản chất của nó, tình yêu phu phụ đòi hỏi đôi phối ngẫu
phải chung thủy một cách bất khả xâm phạm. Đây là hệ quả của việc chính đôi
phối ngẫu đã tự hiến cho nhau. Tình yêu phải là vĩnh viễn; tình yêu không thể
có tính cách “cho tới khi có một quyết định mới”. “Sự nên một thân mật, nghĩa
là việc hai người trao hiến cho nhau, cũng như lợi ích của con cái, đòi hỏi đôi
phối ngẫu phải hoàn toàn chung thuỷ và đòi buộc nơi họ sự duy nhất bất khả phân
ly”[79].
1647. Động lực sâu xa nhất của sự chung thủy căn cứ trên sự trung
tín của Thiên Chúa với giao ước của Ngài, sự trung tín của Đức Kitô với Hội
Thánh. Nhờ bí tích Hôn Phối, đôi phối ngẫu được ban ơn để thể hiện và làm chứng
cho sự chung thuỷ đó. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân đón nhận
một ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn.
1648. Ràng buộc suốt đời mình với một người khác có thể được coi là
rất khó, thậm chí là điều không thể thực hiện được. Do đó, điều hết sức quan
trọng là phải loan báo Tin Mừng này: Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một
tình yêu vĩnh viễn và không rút lại, đôi phối ngẫu được dự phần vào tình yêu đó
của Thiên Chúa, một tình yêu hướng dẫn và nâng đỡ họ, và nhờ sự chung thủy với
nhau, họ có thể là chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa. Những đôi
phối ngẫu nào, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, làm chứng được như vậy, thường là
trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, đáng được cộng đoàn Hội Thánh biết ơn
và hỗ trợ[80].
1649. Tuy nhiên, có những hoàn cảnh thực tế đôi phối ngẫu không thể
tiếp tục sống chung được, vì rất nhiều lý do khác nhau. Trong những trường hợp
này, Hội Thánh chấp nhận sự ly thân và chấm dứt việc sống chung
của đôi phối ngẫu. Họ vẫn là chồng, là vợ của nhau trước mặt Thiên Chúa; họ
không được tự do để ký kết một hôn ước mới. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy,
giải pháp tốt nhất, nếu có thể, là hòa giải với nhau. Cộng đoàn Kitô hữu được
mời gọi trợ giúp những người đó sống đời Kitô hữu trong hoàn cảnh của họ, luôn
chung thuỷ với dây hôn phối vẫn bất khả phân ly của họ[81].
1650. Nhiều người Công giáo, ở một số nơi, đã ly dị và
tái hôn theo luật đời. Hội Thánh, vì trung thành với lời của Chúa Giêsu Kitô
(“Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ
chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”: Mc 10,11-12), nên không
thể công nhận việc tái hôn như vậy là thành sự, nếu hôn nhân lần đầu đã thành
sự. Nếu những người đã ly dị lại tái hôn theo luật đời, thì họ ở trong tình
trạng vi phạm luật Thiên Chúa một cách khách quan. Kể từ lúc đó, họ không được
rước lễ, bao lâu còn sống trong tình trạng này. Cũng vì vậy, họ không thể đảm
nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh. Sự giao hoà qua bí tích Thống Hối chỉ
có thể được ban cho những ai thống hối vì mình đã vi phạm dấu chỉ của giao ước
và của sự trung thành với Đức Kitô, và tự buộc mình sống tiết dục trọn vẹn.
1651. Đối với những Kitô hữu đang sống trong tình trạng như vậy mà
vẫn giữ đức tin và ao ước giáo dục con cái họ theo Kitô giáo, các tư tế và toàn
thể cộng đoàn phải tỏ ra ân cần quan tâm, để họ đừng tự coi như bị tách lìa
khỏi Hội Thánh: họ có thể và phải tham gia vào đời sống của Hội Thánh với tư
cách là những người đã được rửa tội:
“Họ được khuyến
khích nghe Lời Chúa, tham dự Hy tế Thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào
các việc bác ái và các việc phục vụ đức công bằng của cộng đoàn, giáo dục con
cái trong đức tin Kitô giáo, sống tinh thần thống hối và làm các việc đền tội,
để như vậy, hằng ngày họ nài xin Thiên Chúa ban ân sủng”[82].
Sẵn sàng đón nhận con cái
1652. “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu phu phụ
hướng tới việc truyền sinh và giáo dục con cái và qua những việc đó, chúng như
đạt tới tột đỉnh vinh quang của mình”[83].
“Con cái là hồng ân
cao quý nhất của hôn nhân và mang lại tối đa niềm hạnh phúc cho chính các cha
mẹ. Chính Thiên Chúa đã phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt’ (St 2,18);
Ngài là Đấng ‘thuở ban đầu… đã làm ra con người có nam có nữ’ (Mt 19,4); chính
Ngài muốn ban cho con người được tham gia đặc biệt vào công trình tạo dựng của
Ngài, nên Ngài đã chúc lành cho người nam và người nữ và phán: ‘Hãy sinh sôi
nảy nở’ (St 1,28). Từ đó, vinh dự đích thực của tình yêu phu phụ và toàn bộ kế
hoạch của đời sống gia đình phát sinh từ tình yêu đó, tuy không hạ giá những
mục đích khác của hôn nhân, đều hướng đến việc đôi phối ngẫu phải can đảm sẵn
sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo Hoá và Cứu Độ, Đấng nhờ họ làm cho gia
đình của Ngài ngày càng phát triển và phong phú”[84].
1653. Sự phong phú của tình yêu phu phụ còn trải rộng đến
các kết quả của đời sống luân lý, tinh thần và siêu nhiên, được cha mẹ truyền
cho con cái họ qua việc giáo dục. Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và quan
trọng nhất của con cái họ[85].
Theo nghĩa này, nhiệm vụ căn bản của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự
sống[86].
1654. Những đôi phối ngẫu không được Thiên Chúa ban cho có con cái,
vẫn có thể có đời sống hôn nhân đầy ý nghĩa trên bình diện nhân bản, cũng như
bình diện Kitô giáo. Hôn nhân của họ có thể toả sáng bằng sự sinh sôi nảy nở
lòng bác ái, sự đón nhận và hy sinh.
VI. HỘI THÁNH TẠI GIA
ECCLESIA DOMESTICA
1655. Đức Kitô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong gia đình thánh
của thánh Giuse và Mẹ Maria. Hội Thánh không là gì khác hơn là “gia đình của
Thiên Chúa”. Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường gồm những
người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà”[87].
Khi trở lại, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ[88].
Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Kitô giáo
giữa một thế giới ngoại giáo.
1656. Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí thù
nghịch với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách
là những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II
dùng một thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội Thánh tại gia (Ecclesia
domestica)[89]. Trong
tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là “những người đầu tiên truyền dạy đức tin cho con
cái mình, bằng lời nói và gương sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa
con, đặc biệt quan tâm đến ơn gọi thánh thiêng”[90].
1657. Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi
phần tử trong gia đình, thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong
việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ của một
đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái sống động”[91].
Bằng cách đó, gia đình là trường học đầu tiên về đời sống Kitô hữu và là “một
trường học làm người cách phong phú hơn”[92].
Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương
huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc
phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.
1658. Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn
cảnh cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa
Giêsu, họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm
sóc: đó là đông đảo những người sống độc thân. Nhiều người trong số
này không lập gia đình được, thường vì điều kiện nghèo khổ. Trong
hoàn cảnh của mình, có những người sống theo tinh thần các mối phúc, phục vụ
Thiên Chúa và tha nhân một cách gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người
này, cánh cửa của các gia đình là “Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình
lớn là Hội Thánh. “Trên đời này, không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là
nhà và là gia đình cho tất cả mọi người, nhất là cho những ai ‘đang vất vả mang
gánh nặng nề’ (Mt 11,28)”[93].
TÓM LƯỢC
1659. Thánh Phaolô nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như
chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh… Mầu nhiệm này thật cao cả, Tôi muốn nói về
Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,25.32).
1660. Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng
đồng sống chung và yêu nhau thân mật, đã được Đấng Tạo Hoá thiết lập và sắp xếp
theo những quy luật riêng. Tự bản chất, hôn nhân hướng tới thiện ích của đôi
phối ngẫu, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những
người đã chịu Phép Rửa được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích[94].
1661. Bí tích Hôn Phối biểu thị sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội
Thánh. Bí tích này ban ơn giúp các đôi phối ngẫu yêu thương nhau như Đức Kitô
đã yêu thương Hội Thánh. Ân sủng của bí tích kiện toàn tình yêu tự nhiên của
các đôi phối ngẫu, củng cố sự hợp nhất bất khả phân ly của họ và thánh hóa họ
trên đường tiến về đời sống vĩnh cửu[95].
1662. Hôn nhân đặt nền tảng trên sự ưng thuận của cả hai bên ký
kết hôn ước, nghĩa là trên ý muốn vĩnh viễn hiến thân cho nhau để sống giao ước
tình yêu chung thủy và sinh sôi nảy nở.
1663. Hôn nhân làm cho các người phối ngẫu sống một bậc sống
công khai trong Hội Thánh, nên phải cử hành hôn nhân cách công khai trong khung
cảnh một cử hành phụng vụ, trước sự chứng kiến của vị tư tế (hay của người
chứng hôn được Hội Thánh cho phép), các nhân chứng và cộng đoàn tín hữu.
1664. Các đặc tính chính yếu của hôn nhân là duy nhất, bất khả
phân ly và đón nhận con cái. Tục đa thê đi ngược lại tính duy nhất của hôn
nhân. Ly dị phân ly điều Thiên Chúa đã phối hợp. Từ chối sinh sản, đời sống hôn
nhân mất đi "hồng ân cao quý nhất" là con cái[96].
1665. Việc tái hôn của những người đã ly dị khi người phối ngẫu
còn sống, nghịch lại ý định và lề luật của Thiên Chúa mà Đức Kitô đã dạy. Những
người này không bị tách ra khỏi Hội Thánh, nhưng không được rước lễ; họ vẫn
sống đời Kitô hữu, nhất là giáo dục con cái trong đức tin.
1666. Gia đình Kitô giáo là nơi con cái tiếp nhận lời rao giảng
đầu tiên về đức tin. Vì vậy, thật là hợp lý khi gọi gia đình là “Hội Thánh tại
gia”, cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, trường dạy các nhân đức nhân bản và đức
mến Kitô giáo.
Nguồn: http://giaolyductin.net
[1] Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.
[2] X. St 1,26-27.
[3] X. Kh 19,7.
[4] X. Ep 5,31-32.
[5] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 48: AAS 58 (1966) 1067.
[6] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
[7] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.
[8] X. St 1,27.
[9] X. St 1,31.
[10] X. St 2,23.
[11] X. St 2,18.
[12] X. Tv 121,2.
[13] X. Mt 19,4.
[14] X. St 3,12.
[15] X. St 2,22.
[16] X. St 3,16.
[17] X. St 1,28.
[18] X. St 3,16-19.
[19] St 3,21.
[20] X. St 3,16.
[21] X. Mt 19,8; Đnl 24,1.
[22] X. Os 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31, Ed 16; 23.
[23] X. Ml 2,13-17.
[24] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
[25] X. Kh 19,7.9.
[26] X. Ga 2,1-11.
[27] X. Mt 19,8.
[28] X. Mt 19,10.
[29] X. Mt 11,29-30.
[30] X. Mc 8,34.
[31] X. Mt 19,11.
[32] X. Ep 5,26-27.
[33] X. CĐ Triđentinô, Sess. 24a, Doctrina de
sacramento Matrimonii: DS 1800; Bộ Giáo Luật, điều 1055,1.
[34] X. Lc 14,26; Mc 10,28-31.
[35] X. Kh 14,4.
[36] X. 1 Cr 7,32.
[37] X. Mt 25,6.
[38] X. Mc 12,25; 1 Cr 7,31.
[39] X. Mt 19,3-12.
[40] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 42: AAS 57 (1965) 48; Id., Sắc lệnh Perfectae
caritatis, 12: AAS 58 (1966) 707; Id., Sắc lệnh Optatam
totius, 10: AAS 58 (1966) 720-721.
[41] Thánh Gioan Kim Khẩu, De virginitate, 10,1:
SC 125, 122 (PG 48, 540); x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 16: AAS 74 (1982) 98.
[42] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 61: AAS 56 (1964) 116-117.
[43] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 6: AAS 57 (1965) 9.
[44] X. 1 Cr 10,17.
[45] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 67: AAS 74 (1982) 162.
[46] X. Bộ Giáo Luật Đông phương, điều
817.
[47] X. Bộ Giáo Luật Đông phương, điều
828.
[48] X. Ep 5,32.
[49] Bộ Giáo Luật, điều 1057,1.
[50] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067; Bộ Giáo Luật, điều
1057,2.
[51] Nghi thức cử hành Hôn Nhân, 62, Editio
typica altera (Typis Polyglottis Vaticanis 1991) 17.
[52] X. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31.
[53] X. Bộ Giáo Luật, điều 1103.
[54] X. Bộ Giáo Luật, điều 1057,1.
[55] X. Bộ Giáo Luật, các điều 1083-1108.
[56] X. Bộ Giáo Luật, điều 1071,1.3.
[57] X. CĐ Triđentinô, Sess. 24a, Decretum
“Tametsi”: DS 1813-1816; Bộ Giáo Luật, điều 1108.
[58] X. Bộ Giáo Luật, điều 1063.
[59] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 49: AAS 58 (1966) 1070.
[60] X. Bộ Giáo Luật, điều 1124.
[61] X. Bộ Giáo Luật, điều 1086.
[62] X. Bộ Giáo Luật, điều 1125.
[63] X. 1 Cr 7,16.
[64] Bộ Giáo Luật, điều 1134.
[65] X. Mc 10,9.
[66] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 48: AAS 58 (1966) 1067.
[67] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
[68] X. Bộ Giáo Luật, điều 1141.
[69] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[70] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 11: AAS 57 (1965) 15-16; x. Ibid., 41: AAS 57
(1965) 47.
[71] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
[72] X. Gl 6,2.
[73] Tertullianô, Ad uxorem, 2, 8, 6-7:
CCL 1, 393 (PL 1, 1415-1416); x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
Consortio, 13: AAS 74 (1982) 94.
[74] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 13: AAS 74 (1982) 96.
[75] X. St 2,24.
[76] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 19: AAS 74 (1982) 101.
[77] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 49: AAS 58 (1966) 1070.
[78] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 19: AAS 74 (1982) 102.
[79] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
[80] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 20: AAS 74 (1982) 104.
[81] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
Consortio, 83: AAS 74 (1982) 184; Bộ Giáo Luật, các điều
1151-1155.
[82] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 84: AAS 74 (1982) 185.
[83] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 48: AAS 58 (1966) 1068.
[84] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 50: AAS 58 (1966) 1070-1071.
[85] X. CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum
educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.
[86] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 28: AAS 74 (1982) 114.
[87] X. Cv 18,8.
[88] X. Cv 16,31; 11,14.
[89] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 21: AAS 74 (1982) 105.
[90] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.
[91] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
gentium, 10: AAS 57 (1965) 15.
[92] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.
[93] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris
consortio, 85: AAS 74 (1982) 187.
[94] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 48: AAS 58 (1966) 1067-1068; Bộ Giáo Luật, điều
1055,1.
[95] X. CĐ Triđentinô, Sess. 24a, Doctrina de
sacramento Matrimonii: DS 1799.
[96] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, 50: AAS 58 (1966) 1070.