SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - TIẾT
6: CON NGƯỜI
(giaolyductin.org16/05/13, 2:58 pm)
Tiết 6
Con người
Paragraphus 6
Homo
355. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình; Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người
có nam có nữ” (St 1,27). Con người có một địa vị độc tôn trong công trình tạo
dựng: con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (I); trong bản tính riêng của
mình, con người kết hợp thế giới thiêng liêng và thế giới vật chất (II); con
người được tạo dựng “có nam có nữ” (III); Thiên Chúa cho con người sống thân
mật với Ngài (IV).
“AD IMAGINEM DEI”
356. Trong tất cả các thụ tạo hữu hình, chỉ con người có khả
năng “nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hoá của mình”[1]; là “thụ tạo duy nhất
trên trái đất Thiên Chúa dựng nên vì chính họ”[2]; chỉ con người được
kêu gọi tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, bằng sự nhận biết và tình yêu. Con
người được tạo dựng vì mục đích ấy, và đó là lý do căn bản của phẩm giá con
người:
“Vì lý do nào Chúa đã
đặt con người vào một phẩm giá cao trọng như vậy? Chính tình yêu khôn tả đã
khiến Chúa nhìn đến thụ tạo của Chúa nơi chính Chúa, Chúa đã ‘say mê’ nó; vì
tình yêu Chúa đã dựng nên nó, vì tình yêu Chúa đã cho nó hiện hữu, để nó nếm
được sự Tốt lành vĩnh cửu của Chúa”[3].
357. Mỗi cá nhân con người, bởi vì được dựng nên theo hình ảnh
của Thiên Chúa, nên có phẩm giá của một ngôi vị: không chỉ là một sự vật nào đó, nhưng là một ai đó. Con người có
khả năng nhận thức về bản thân mình, làm chủ mình, tự hiến mình cách tự do và
đi vào sự hiệp thông với những ngôi vị khác; nhờ ân sủng, mỗi nguời được kêu
gọi vào Giao ước với Đấng Tạo Hoá của mình, để dâng lên Ngài một lời đáp lại
của đức tin và tình yêu, mà không ai khác có thể thay thế chỗ của mình được.
358. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự cho con người[4]; còn con người được
tạo dựng để phục vụ Thiên Chúa và yêu mến Ngài và dâng lên Ngài toàn thể thụ
tạo:
“Vậy ai được tạo dựng
sau cùng và được vinh dự dường ấy? Thưa đó là con người, một sinh vật cao cả và
kỳ diệu, và đối với Thiên Chúa, nó quý giá hơn mọi thụ tạo; vì con người mà
trời, đất, biển và toàn thể thụ tạo được hiện hữu: Thiên Chúa đã tha thiết muốn
cứu độ con người, đến nỗi đã không buông tha Con Một của Ngài vì họ: Thiên Chúa
cũng không ngừng vận dụng mọi cách để nâng con người lên đặt ở bên hữu Ngài”[5].
359. “Quả thật, chỉ trong mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập Thể, mà
mầu nhiệm về con người mới thật sự được sáng tỏ”[6]:
“Thánh Phaolô cho chúng
ta biết có hai người là nguồn gốc của nhân loại, là ông Ađam và Đức Kitô…. Ađam
đầu tiên được tạo dựng là một người lãnh nhận sự sống. Còn Ađam cuối cùng là
Đấng thiêng liêng ban sự sống. Người đầu tiên được tạo dựng bởi Đấng cuối cùng,
do Đấng này, người đầu tiên lãnh nhận linh hồn để được sống…. Khi tạo dựng Ađam
đầu tiên, Ađam cuối cùng đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó. Từ đó Ađam cuối
cùng đã nhận lấy vai trò và tên gọi của Ađam đầu tiên, để không bỏ mất những gì
đã được tạo dựng theo hình ảnh của mình. Ađam đầu tiên, Ađam cuối cùng: Ađam
đầu tiên có khởi đầu, Ađam cuối cùng không có kết thúc, bởi vì Đấng cuối cùng
này mới thật sự là Đấng đầu tiên, như chính Người đã nói: ‘Ta là Đầu và là
Cuối’”[7].
360. Vì cùng xuất phát từ một nguồn gốc chung, tất cả mọi người làm thành một loài người duy nhất. “Từ một người duy nhất,
Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại” (Cv 17,26)[8]:
“Cái nhìn kỳ diệu khiến
chúng ta có thể chiêm ngắm nhân loại trong sự thống nhất vì cùng có chung một
nguồn gốc bởi Đấng Tạo Hoá; trong sự thống nhất về bản tính vì mọi người đều
được tạo dựng như nhau, gồm một thân xác vật chất và một linh hồn thiêng liêng
bất tử; trong sự thống nhất về mục đích mà mọi người cùng theo đuổi, về nhiệm
vụ phải đảm nhận trong cuộc sống này; trong sự thống nhất về nơi cư ngụ là trái
đất với những tài nguyên, mà mọi người, do quyền tự nhiên của mình, đều có
quyền sử dụng để nuôi dưỡng và phát triển sự sống; sau cùng, trong sự thống
nhất về cùng đích siêu nhiên, là chính Thiên Chúa, Đấng mà tất cả đều phải quy
hướng về; trong sự thống nhất về những phương thế để đạt tới cùng đích đó;
trong sự thống nhất về ơn Cứu chuộc mà Đức Kitô đã thực hiện cho mọi người”[9].
361. Quy luật “của sự con người cần đến nhau và của đức mến”[10], bảo đảm cho chúng ta
rằng mọi người thật sự đều là anh em, tuy không loại trừ sự khác biệt rất nhiều
giữa các cá nhân, các nền văn hóa, và các dân tộc.
II. “MỘT
HỮU THỂ CÓ XÁC CÓ HỒN”
“CORPORE ET ANIMA UNUS”
362. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người là một
hữu thể vừa có yếu tố thể xác lại vừa có yếu tố tinh thần. Trình thuật Thánh
Kinh diễn tả thực tại đó bằng một ngôn ngữ biểu tượng khi khẳng định rằng
“Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con
người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy con người toàn diện được dựng nên
do ý muốn của Thiên Chúa.
363. Trong Thánh Kinh, từ linh hồn thường chỉ sự sống con người[11] hoặc toàn bộ nhân vị[12]. Nhưng từ đó cũng dùng
để chỉ cái thâm sâu nhất trong con người[13], giá trị nhất trong
con người[14], nhờ đó con người là hình ảnh của Thiên Chúa một cách đặc
biệt hơn: “linh hồn” là nguyên lý tinh thần trong con người.
364. Thân xác của con người được dự
phần vào phẩm giá là “hình ảnh của Thiên Chúa”: nó là thân xác nhân linh
(corpus humanum) chính vì được linh hồn thiêng liêng làm cho sinh động, và toàn
bộ nhân vị được đặt định trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, trong Thân Thể Đức
Kitô[15].
“Là một thực thể có xác
có hồn, con người, nhờ chính điều kiện có xác của mình, quy tụ nơi mình những
yếu tố của thế giới vật chất, cho nên, nhờ con người, các yếu tố ấy đạt tới
tuyệt đỉnh của chúng và có thể tự do dâng lời ca ngợi Đấng Tạo Hóa. Vì vậy con
người không được khinh miệt sự sống thể xác, nhưng trái lại, con người phải coi
thân xác mình là tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Thiên Chúa tạo
dựng và sẽ được sống lại trong ngày sau hết”[16].
365. Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được
coi là “mô thể” của thân xác[17]; nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được
cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động;
tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết
lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất.
366. Hội Thánh dạy rằng mỗi linh hồn thiêng liêng được tạo dựng
trực tiếp bởi Thiên Chúa[18] chứ không phải do cha
mẹ “sinh sản”; Hội Thánh cũng dạy chúng ta rằng, linh hồn thì bất tử[19]; linh hồn không hư
hoại khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp với thân xác trong ngày
sống lại sau hết.
367. Đôi khi linh hồn được phân biệt với tinh thần. Chẳng hạn
thánh Phaolô cầu nguyện để trọn con người chúng ta: “tinh thần, linh hồn và
thân xác” được gìn giữ, “không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5,23). Hội Thánh dạy rằng sự phân biệt này không đem
lại sự nhị phân trong linh hồn[20]. Từ “tinh thần” muốn
nói là con người, ngay từ khi được tạo dựng, đã được quy hướng về cùng đích
siêu nhiên của mình[21], và linh hồn của con người có khả năng được nâng lên cách
nhưng không để hiệp thông với Thiên Chúa[22].
368. Truyền thống linh đạo của Hội Thánh cũng nhấn mạnh đến trái tim, mà theo ý nghĩa của Thánh Kinh, là nơi “thâm sâu thân mật”
(“trong đáy lòng”: Gr 31,33), đó là nơi con người quyết định theo hoặc không
theo Thiên Chúa[23].
III. “THIÊN CHÚA ĐÃ TẠO DỰNG CON NGƯỜI CÓ
“MASCULUM ET FEMINAM
CREAVIT EOS”
Thiên Chúa muốn con người bình đẳng nhưng khác biệt nhau
369. Người nam và người nữ được tạo dựng, nghĩa là họ hiện hữu
do ý muốn của Thiên Chúa: một đàng, họ hoàn toàn bình đẳng với tư cách là những
nhân vị; đàng khác, họ là nam và là nữ theo cách hiện hữu riêng. “Là người
nam”, “là người nữ”, đều là thực tại tốt lành do ý muốn của Thiên Chúa: người
nam và người nữ có một phẩm giá không thể mất được, do Thiên Chúa, Đấng Tạo
Hoá, trực tiếp ban cho họ[24] . Người nam và người nữ, với cùng một phẩm giá, đều là
“hình ảnh của Thiên Chúa”. “Là người nam” hay “là người nữ”, họ đều phản ánh sự
khôn ngoan và lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hoá.
370. Đừng diễn tả Thiên Chúa theo hình ảnh loài người. Ngài
không là nam, cũng không là nữ. Thiên Chúa là thuần tuý thiêng liêng, trong
tính thiêng liêng đó không có chỗ cho sự phân biệt phái tính. Nhưng “những nét
hoàn hảo” của người nam và người nữ phản ánh một chút nào đó sự trọn hảo vô
biên của Thiên Chúa: những hoàn hảo của người mẹ[25], của người cha và
người chồng[26] cũng vậy.
“Cho nhau” _ “Tuy hai mà một”
371. Người nam và người nữ, được tạo dựng đồng thời, được Thiên Chúa muốn là người này phải sống cho người kia. Lời Chúa muốn chúng ta hiểu điều đó qua nhiều câu Thánh
Kinh: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương
xứng với nó” (St 2,18). Không một con vật nào có thể là “tương xứng” với con
người[27].
Thiên Chúa lấy xương sườn người nam tạo thành người nữ và dẫn đến cho người
nam; vừa trông thấy người nữ, người nam phải thốt lên một tiếng thán phục, một
lời reo mừng của tình yêu và của sự hiệp thông: “Đây là xương bởi xương tôi,
thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Người nam nhận ra người nữ như một “cái tôi” khác
của cùng bản tính nhân loại.
372. Người nam, và người nữ được tạo dựng “người này cho người
kia”: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng họ “chỉ có một nửa” và “không đầy đủ”;
Thiên Chúa đã tạo dựng họ để họ hiệp thông các ngôi vị, trong đó mỗi người có
thể thành “sự trợ giúp” cho người kia, bởi vì một đàng, họ là những nhân vị
bình đẳng với nhau (“xương bởi xương tôi…”) và đàng khác, là người nam và là
người nữ, họ bổ túc cho nhau[28]. Trong hôn nhân, Thiên Chúa đã kết hợp họ đến độ, một khi
nên “một xương một thịt” (St 2,24), họ có thể lưu truyền sự sống con người:
“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Người nam và người
nữ, với tư cách là đôi vợ chồng và cha mẹ, khi lưu truyền sự sống con người cho
dòng dõi mình, một cách độc đáo, cộng tác vào công trình của Đấng Tạo Hoá[29].
373. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, người nam và người nữ có ơn
gọi để làm chủ trái đất[30] với tư cách là “những
người quản lý” của Thiên Chúa. Quyền làm chủ này không được trở thành một sự
thống trị độc đoán và phá hoại. Vì là hình ảnh của Đấng Tạo Hoá, “Đấng yêu
thương mọi loài hiện hữu” (Kn 11,24), người nam và người nữ được kêu gọi tham
dự vào sự quan phòng của Thiên Chúa đối với các thụ tạo khác. Do đó, họ có
trách nhiệm về trần gian mà Thiên Chúa đã giao phó cho họ.
IV. CON NGƯỜI TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
HOMO IN PARADISO
374. Con người đầu tiên không những được tạo dựng là tốt lành,
mà còn được sống trong tình thân nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài
hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh. Tình thân nghĩa và sự hài hòa này
chỉ thua kém vinh quang của công trình tạo dựng mới trong Đức Kitô.
375. Hội Thánh, khi giải thích một cách chính thống ngôn ngữ
biểu tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng của Tân Ước và Truyền Thống, dạy rằng:
nguyên tổ chúng ta, ông Ađam và bà Evà, đã được tạo dựng trong tình trạng thánh
thiện và công chính nguyên thủy[31]. Ân sủng của sự thánh
thiện nguyên thủy đó là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa[32].
376. Mọi chiều kích của đời sống con người được củng cố bằng sự
rạng ngời của ân sủng này. Bao lâu còn sống thân mật với Thiên Chúa, con người
sẽ không phải chết[33], cũng không phải đau khổ[34]. Sự hài hòa nội tâm
nơi mỗi nhân vị, sự hài hòa giữa người nam và người nữ[35], và cuối cùng là sự
hài hòa giữa đôi vợ chồng đầu tiên với toàn thể thụ tạo, tạo nên tình trạng
được gọi là “sự công chính nguyên thủy”.
377. “Quyền làm chủ” trần gian mà Thiên Chúa đã ban cho con
người ngay từ lúc đầu, được thực hiện trước tiên nơi chính con người, là việc làm chủ chính bản thân mình. Con người còn nguyên vẹn và có trật tự trong
chính bản thân, vì còn tự do đối với ba thứ dục vọng[36] khiến con người quy
phục các lạc thú của giác quan, sự ham mê của cải trần thế và đề cao chính
mình, đi ngược lại những lệnh truyền của lý trí.
378. Dấu chỉ của sự thân thiện của con người với Thiên Chúa là
việc Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng[37]. Con người sống ở đó
“để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15): lao động không phải là một hình khổ[38], nhưng là sự cộng tác
của người nam và người nữ với Thiên Chúa trong việc kiện toàn công trình tạo
dựng hữu hình.
379. Toàn bộ sự hài hòa của tình trạng công chính nguyên thủy
này, mà kế hoạch của Thiên Chúa nhắm dành cho con người, đã bị mất đi vì tội của nguyên tổ
chúng ta.
TÓM LƯỢC
380. “Lạy Cha, Cha đã dựng nên con
người giống hình ảnh Cha, và trao cho việc trông coi vũ trụ, để khi phụng sự
một mình Cha là Đấng Tạo Hóa, con người cai quản mọi loài thụ tạo”[39] .
381. Con người được tiền định để họa
lại hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người – “Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình" (Cl 1,15) để Đức Kitô trở nên trưởng tử giữa một đàn em đông đúc[40] .
382. Con người là “một hữu thể có xác
có hồn”[41] . Giáo lý đức tin
xác quyết rằng linh hồn thì thiêng liêng và bất tử, được Thiên Chúa tạo dựng
cách trực tiếp.
383. “Thiên Chúa không tạo dựng con
người đơn độc:ngay từ đầu, ‘Ngài sáng tạo con người có
nam có nữ’ (St 1,27), sự chung sống của họ đã tạo nên hình thức đầu tiên của sự
hiệp thông giữa các ngôi vị”[42] .
384. Mạc khải cho chúng ta biết tình
trạng thánh thiện và công chính nguyên thuỷ của người nam và người nữ trước khi
phạm tội:do tình thân nghĩa của họ với Thiên Chúa
mà cuộc sống của họ trong vườn địa đàng được hạnh phúc.
[1] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 12: AAS 58 (1966) 1034.
[2] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 24: AAS 58 (1966) 1045.
[3] Thánh Catarina Siêna,II dialogo della Divina provvidenza, 13: ed. G. Cavallini
(Roma 1995) 43.
[4] X. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 12: AAS 58 (1966) 1034; Ibid. , 24: AAS 58 (1966) 1045; Ibid. , 39: AAS 58 (1966)
1056-1057.
[5] Thánh Gioan Kim khẩu,Sermones in Genesim, 2, 1: PG 54, 587-588.
[6] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
[7] Thánh Phêrô Kim ngôn,Sermones, 117, 1-2: CCL 24A, 709 (PL 52, 520).
[8] X. Tb 8,6.
[9] ĐGH Piô XII, Thông điệpSummi Pontificatus: AAS 31 (1939) 427; x. CĐ Vaticanô II, Tuyên
ngôn Nostra aetate, 1: AAS 58 (1966) 740.
[10] ĐGH Piô XII, Thông ĐiệpSummi Pontificatus: AAS 31 (1939) 426.
[11] X. Mt 16,25-26; Ga
15,13.
[12] X. Cv 2,41.
[13] X. Mt 26,38; Ga 12,27.
[14] X. Mt 10,28; 2 Mcb
6,30.
[15] X. 1 Cr 6,19-20;
15,44-45.
[16] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 14: AAS 58 (1966) 1035.
[17] X. CĐ Vienna (năm
1312), Hiến chế Fidei catholicae: DS 902.
[18] X. ĐGH Piô XII, Thông
điệp Humani generis (năm 1950): DS 3896; ĐGH Phaolô VI,Sollemnis Professio fidei, 8: AAS 60 (1968) 436.
[19] X. CĐ Latêranô (năm
1513), Tông sắc Apostolici regiminis: DS 1440.
[20] X. CĐ Constantinôpôli
IV (năm 870), canon 11: DS 657.
[21] X. CĐ Vaticanô I, Hiến
chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3005; CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042-1043.
[22] X. ĐGH Piô XII, Thông
điệp Humani generis (năm 1950): DS 3891.
[23] X. Đnl 6,5; 29,3; Is
29,13; Ed 36,26; Mt 6,21; Lc 8,15; Rm 5,5.
[25] X. Is 49,14-15; 66,13;
Tv 131,2-3.
[26] X. Os 11,1-4; Gr
3,4-19.
[28] X. ĐGH Gioan Phaolô II,
Tông thưMulieris dignitatem, 7: AAS 80 (1988)
1664-1665.
[29] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 50: AAS 58 (1966) 1070-1071.
[31] X. CĐ Triđentinô, Sess.
5a, Decretum de peccato originali, canon 1: DS 1511.
[32] X. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.
[36] X. 1 Ga 2,16.
[39] Kinh nguyện Thánh Thể
IV, 118: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 467.
[40] X. Ep 1,3-6; Rm 8,29.
[41] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 14: AAS 58 (1966) 1035.
[42] CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 12: AAS 58 (1966) 1034.