SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO – MỤC
2 “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ, LÀ CON MỘT ĐỨC CHÚA CHA, CÙNG LÀ CHÚA
CHÚNG TÔI”
(giaolyductin.net - 05/08/13,
11:51 am)
Mục 2
“Tôi tin kính Đức Chúa
Giêsu Kitô,
là Con Một Đức Chúa Cha,
cùng là Chúa chúng tôi”
Articulus 2
“Et in Iesum Christum,
Filium Eius unicum, Dominum nostrum”
I. CHÚA GIÊSU
IESUS
430. Trong tiếng Do thái, “Giêsu” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu
Độ”. Khi Truyền tin, thiên thần Gabriel dạy đặt tên cho Người là Giêsu; tên gọi
này vừa diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người[1]. Bởi vì không ai “có
quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho nên, trong Chúa Giêsu
là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa “sẽ cứu dân Ngài khỏi
tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa tóm kết toàn bộ
lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.
431. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với
việc giải thoát
432. Danh “Giêsu” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện
diện nơi bản thân của Con Ngài[5], Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội lỗi một
cách dứt khoát. “Giêsu” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại ơn cứu độ[6], và từ nay mọi người
có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết
hợp với tất cả mọi người[7] đến độ “dưới gầm trời
này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ
vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12)[8].
433. Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi
năm một lần để xin ơn xá tội cho Israel, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn
xá tội trong nơi Cực Thánh[9]. Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện[10]. Khi thánh Phaolô nói
về Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người” (Rm
3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, “Thiên Chúa
đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,19).
434. Việc phục sinh của Chúa Giêsu làm hiển vinh thánh danh
Thiên Chúa Cứu Độ[11], bởi vì từ lúc đó Danh Giêsu bày tỏ cách trọn vẹn quyền
năng tối thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-l0).
Các Thần dữ khiếp sợ Danh Người[12], và nhân Danh Người,
các môn đệ Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ[13], bởi vì tất cả những
gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha đều ban cho họ[14].
435. Danh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm của kinh nguyện Kitô giáo. Tất
cả các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng con”. Tột đỉnh của KinhKính Mừng Maria là câu “và Giêsu, con
lòng Bà gồm phúc lạ”. Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn
nguyện Chúa Giêsu” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nhiều Kitô hữu đã chết khi miệng chỉ
kêu danh thánh “Giêsu”, như thánh nữ Jeanne d’Arc[15].
II. ĐỨC
KITÔ
CHRISTUS
436. Danh hiệu “Kitô” là một từ Hy Lạp, dịch từ “Messia” của
tiếng Do thái, có nghĩa là “người được xức dầu”. Danh hiệu này trở thành tên
riêng của Chúa Giêsu bởi vì Người đã chu toàn cách hoàn hảo sứ vụ thần linh mà
danh hiệu ấy bao hàm. Quả vậy, trong Israel, những ai được thánh hiến cho Thiên
Chúa để thi hành một sứ vụ Ngài giao phó, đều được xức dầu nhân danh Thiên Chúa.
Đó là trường hợp của các vua[16], các tư tế[17] và đôi khi, các tiên tri[18]. Đó phải là, một cách
tuyệt hảo, trường hợp của Đấng Messia, là người Thiên Chúa sai đến để thiết lập
Nước của Ngài cách vĩnh viễn[19]. Đấng Messia phải được xức dầu bằng Thần Khí của Chúa[20] với tư cách là vua, đồng thời là tư tế[21], và cũng với tư cách
là tiên tri. [22] Chúa Giêsu đã thực hiện
niềm hy vọng về Đấng Messia của
437. Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của
Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho
Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid,
Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng
Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng
Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[23]. Thánh Giuse được
Thiên Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô”
(Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in
generatione messianica) của vua Đavid. [24]
438. Việc được thánh hiến làm Đấng Messia của Chúa Giêsu biểu lộ
sứ vụ thần linh của Người. “Trong danh hiệu ‘Kitô’ bao gồm Đấng xức dầu, Đấng
được xức dầu, và chính việc xức dầu: Đấng xức dầu là Chúa Cha, Đấng được xức
dầu là Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, Đấng là Việc xức dầu”[25]. Việc xức dầu thánh
hiến vĩnh cửu của Chúa Giêsu được mạc khải trong cuộc đời trần thế của Người
khi Người chịu phép rửa bởi ông Gioan, khi “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và
quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) “để Người được tỏ ra cho dân
Israel” (Ga l,3l) trong tư cách là Đấng Messia của Thiên Chúa. Những việc Người
làm và những lời Người dạy giúp cho chúng ta nhận biết Người là “Đấng Thánh của
Thiên Chúa”[26].
439. Nhiều người Do Thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ
niềm hy vọng của Israel, đã nhận ra nơi Chúa Giêsu những nét cơ bản của “Con
vua Đavid”, Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Israel[27]. Chúa Giêsu đã chấp
nhận danh hiệu Messia, Người có quyền làm như vậy[28], nhưng Người chấp nhận
một cách dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu
theo một quan niệm quá phàm trần[29], đặc biệt mang tính
chất chính trị. [30]
440. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Người là Đấng Messia, Chúa Giêsu
chấp nhận lời tuyên xưng đức tin đó, nhưng Người loan báo ngay cuộc khổ nạn đã
gần đến của “Con Người”[31]. Người tỏ cho thấy ý nghĩa đích thực của vương quyền
Messia của Người, vừa trong căn tính siêu việt của Con Người, “Đấng từ trời
xuống” (Ga 3,l3)[32], vừa trong sứ vụ cứu chuộc của Người với tư cách là Người
Tôi trung đau khổ: “Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng
là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28)[33]. Do đó ý nghĩa đích
thực của vương quyền Người chỉ được biểu lộ cách tột đỉnh trên Thập Giá. [34] Chỉ sau khi Người sống lại, thánh Phêrô mới có thể công bố vương
quyền Messia của Người trước mặt dân Thiên Chúa: “Vậy toàn thể nhà
III. CON MỘT THIÊN CHÚA
FILIUS DEI UNICUS
441. Trong Cựu Ước “Con Thiên Chúa” là danh hiệu được ban cho
các Thiên thần[35], cho dân Chúa chọn[36], cho con cái Israel[37], và cho các vua của họ[38]. Trong những trường
hợp ấy, danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói lên việc Thiên Chúa nhận một số thụ tạo
làm nghĩa tử, và việc này tạo nên những mối liên hệ thân tình đặc biệt giữa
Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Khi vị Vua Messia của lời hứa được gọi là “Con
Thiên Chúa”[39], điều này, xét theo nghĩa văn tự của các bản văn nêu trên,
không nhất thiết hàm ý rằng Người có bản tính vượt trổi phàm nhân. Những người
đã gọi Chúa Giêsu là Đấng Messia của
442. Trường hợp thánh Phêrô thì khác, khi ông tuyên xưng Chúa
Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”[42], bởi vì Chúa Giêsu đã
long trọng trả lời ông: “Không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều
ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt l6,l7). Tương tự như vậy,
khi đề cập đến cuộc hối cải của mình trên đường đi Đamas, thánh Phaolô đã nói:
“Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi
nhờ ân sủng của Ngài. Ngài đã đoái thương mạc khải Con của Ngài cho tôi, để tôi
loan báo Tin Mừng về Con của Ngài cho các dân ngoại” (Gl 1,l5-16). “Lập tức,
ông bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên
Chúa” (Cv 9,20). Ngay từ đầu[43], điều này đã là trung tâm của đức tin tông truyền[44], đức tin mà thánh
Phêrô, với tư cách là nền tảng Hội Thánh, đã tuyên xưng trước hết[45].
443. Nếu thánh Phêrô có thể nhận ra tính chất siêu việt trong tư
cách Con Thiên Chúa của Chúa Giêsu, Đấng Messia, thì đó là bởi vì chính Người
đã nói lên điều đó cách rõ ràng. Trước Thượng Hội Đồng, khi những kẻ tố cáo hỏi
Người: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?”, Chúa Giêsu trả lời: “Đúng như các ông
nói, chính tôi đây” (Lc 22,70)[46]. Trước đó đã lâu, Chúa
Giêsu đã tự xưng mình là “Con”, là người biết rõ Chúa Cha[47], là người phân biệt
mình với các “tôi tớ” mà Thiên Chúa đã sai đến trước với dân Ngài[48], là người trổi vượt
trên cả các Thiên thần[49]. Chúa Giêsu phân biệt tư cách làm “Con” của Người với tư
cách làm con của các môn đệ Người vì không bao giờ Người nói “Cha chúng ta”[50], trừ lúc truyền dạy
họ: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha chúng con’” (Mt 6,9); và Người
nhấn mạnh sự khác biệt giữa “Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17).
444. Vào hai thời điểm quan trọng, lúc Đức Kitô chịu Phép Rửa và
lúc Người Hiển Dung, các sách Tin Mừng nhắc đến tiếng Chúa Cha gọi Chúa Giêsu
là “Con yêu dấu” của Ngài[51]. Chính Chúa Giêsu cũng tự xưng là “Con Một” của Thiên Chúa
(Ga 3,16) và qua danh hiệu đó, xác quyết sự tiền hữu vĩnh cửu (aeternam
praeexsistentiam) của mình[52]. Người đòi phải tin vào “danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,l8).
Lời tuyên xưng này của Kitô giáo đã xuất hiện ngay từ tiếng kêu của viên đại
đội trưởng trước mặt Chúa Giêsu trên thập giá: “Quả thật, người này là Con
Thiên Chúa” (Mc l5,39). Chỉ trong mầu nhiệm Vượt Qua, người tin tước hiệu “Con
Thiên Chúa” mới có thể hiểu được ý nghĩa cao cả nhất của tước hiệu đó.
445. Sau khi Người phục sinh, tư cách Con Thiên Chúa của Đức
Kitô tỏ rạng trong quyền năng của nhân tính được tôn vinh của Người. “Từ cõi
chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả
quyền năng” (Rm 1,4)[53]. Các Tông Đồ có thể tuyên xưng: “Chúng tôi đã được nhìn
thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy
tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14).
IV. CHÚA
DOMINUS
446. Trong bản dịch các sách Cựu ước ra tiếng Hy lạp, YHWH, danh
không thể xưng mà Thiên Chúa dùng để tự mạc khải cho ông Môisen[54], được dịch là Kyrios (“Chúa”). Từ đó, tước hiệu “Chúa” trở thành danh xưng thông dụng
nhất để nói lên chính thần tính của Thiên Chúa
447. Chính Chúa Giêsu nhận tước hiệu ấy cho mình một cách mặc
nhiên khi tranh luận với các người Pharisêu về ý nghĩa thánh vịnh 110[56], nhưng khi nói chuyện
với các Tông Đồ thì Người nhận một cách minh nhiên[57]. Trong suốt cuộc đời
công khai của Người, những cử chỉ thống trị của Chúa Giêsu trên thiên nhiên,
trên bệnh tật, trên ma quỷ, trên sự chết và tội lỗi, chứng tỏ Người có quyền
tối thượng của Thiên Chúa.
448. Trong các sách Tin Mừng, khi thưa chuyện với Chúa Giêsu,
người ta rất thường gọi Người là “Chúa”. Tước hiệu này cho thấy lòng tôn kính
và tin tưởng của những người đến với Chúa Giêsu và mong đợi Người cứu giúp và
chữa lành[58]. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, khi thưa như vậy,
người ta nhìn nhận mầu nhiệm thần linh của Chúa Giêsu[59]. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu
Phục sinh, việc gọi tước hiệu ấy trở thành việc thờ lạy: “Lạy Chúa của con! lạy
Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Lúc đó, việc gọi Người như vậy còn mang ý
nghĩa kính yêu và thân ái, là điểm riêng của truyền thống Kitô giáo: “Chúa đó!”
(Ga 21,7).
449. Khi dành cho Chúa Giêsu tước hiệu thần linh là “Chúa”,
những lời tuyên xưng đức tin tiên khởi của Hội Thánh xác quyết ngay từ đầu[60] rằng quyền năng, danh dự và vinh quang thuộc về Chúa Cha cũng thuộc
về Chúa Giêsu[61], bởi vì Người “vốn dĩ là Thiên Chúa” (Pl 2,6), và bởi vì Chúa
Cha đã làm tỏ hiện quyền chủ tể này của Chúa Giêsu khi cho Người sống lại từ
cõi chết và tôn dương Người trong vinh quang của Ngài[62].
450. Ngay từ đầu lịch sử Kitô giáo, việc xác quyết quyền chủ tể
của Chúa Giêsu trên trần gian và trên lịch sử[63] cũng có nghĩa là nhìn nhận rằng, con người không được để cho tự do
cá nhân của mình suy phục một cách tuyệt đối bất cứ quyền bính trần thế nào,
nhưng chỉ suy phục một mình Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu Kitô: Hoàng đế
Cêsar không phải là “Chúa”[64]. Hội Thánh “tin rằng mình gặp được chìa khóa, trung tâm và
cứu cánh của toàn thể lịch sử nhân loại nơi Chúa và Thầy của mình”[65].
451. Kinh nguyện Kitô giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”,
dù là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời
nguyện: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin
tưởng và hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin
ngự đến!”) (l Cr l6,22). “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).
TÓM LƯỢC
452. Thánh Danh Giêsu có nghĩa là
“Thiên Chúa Cứu Độ”. Hài nhi sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria được gọi là “Giêsu”:“Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). “Dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta
phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).
453. Danh hiệu “Kitô” có nghĩa là
“Đấng được xức dầu”, “Đấng Messia”. Chúa Giêsu là Đấng Kitô bởi vì “Thiên Chúa
đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Người
là “Đấng phải đến” (Lc 7,19), là đối tượng của niềm hy vọng của
454. Danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói
lên mối tương quan duy nhất và vĩnh cửu của Chúa Giêsu Kitô với Thiên Chúa, Cha
của Người. Người là Con Một của Chúa Cha[67] và là chính Thiên Chúa[68]. Ai muốn trở thành Kitô hữu, người ấy nhất thiết phải tin rằng
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa[69].
455. Danh hiệu “Chúa” nói lên quyền
tối thượng của Thiên Chúa. Tuyên xưng hay kêu cầu Chúa Giêsu là Chúa, là tin
vào thần tính của Người. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr
12,3).
[1]X. Lc 1,31.
[2]X. Tv 51,6.
[3]X. Tv 51,11.
[4]X. Tv 79,9.
[5]X. Cv 5,41; 3 Ga 7.
[6]X. Ga 3,18; Cv 2,21.
[7]X. Rm 10,6-13.
[8]X. Cv 9,14; Gc 2,7.
[9]X. Lv 16,15-16; Gv
50,22; Dt 9,7.
[10]X. Xh 25,22; Lv 16,2;
Ds 7,89; Dt 9,5.
[11]X. Ga 12,28.
[12]X. Cv 16,16-18; 19,13-16.
[13]X. Mc 16,17.
[14]X. Ga l5,l6.
[15]X. La réhabilitation de Jeanne la Pucelle. L’enquête ordonnée par
Charles VII en 1450 et le codicille de Guillaume Bouillé, ed. P. Doncoeur-Y. Lanhers
(Paris 1956) 39. 45. 56.
[16]X. l Sm 9,16; 10,1;
16,1. 12-13; 1 V 1,39.
[17]X. Xh 29,7; Lv 8,12.
[18]X. 1V 19,16.
[19]X. Tv 2,2; Cv 4,26-27.
[20]X. Is 11,2.
[21]X. Zc 4,14; 6,13.
[22]X. Is 61,1; Lc 4,16-21.
[23]X. Lc 1,35.
[24]X. Rm l,3; 2 Tm 2,8; Kh
22,l6.
[25]Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 18, 3: SC 211, 350 (PG 7, 934).
[26]X. Mc l,24; Ga 6,69; Cv
3,l4.
[27]X. Mt 2,2; 9,27, 12,23;
15,22; 20,30; 21,9. 15.
[28]X. Ga 4,25-26; 11,27.
[29]X. Mt 22,41-46.
[30]X. Ga 6,l5; Lc 24,2l.
[31]X. Mt l6,l6-23.
[32]X. Ga 6,62; Đn 7,13.
[33]X. Is 53,10-12.
[34]X. Ga l9,19-22; Lc
23,39-43.
[35]X. Đnl (LXX) 32,8; G
l,6.
[36]X. Xh 4,22; Os 11,1; Gr
3,l9; Gv 36,14; Kn l8,l3.
[37]X. Đnl l4,l; Os 2,l.
[38]X. 2 Sm 7,l4; Tv 82,6.
[39]X. 1 Sbn 17,13; Tv 2,7.
[40]X. Mt 27,54.
[41]X. Lc 23,47.
[42]X. Mt 16,16.
[43]X. 1 Tx 1,10.
[44]X. Ga 20,3l.
[45]X. Mt l6,l8.
[46]X. Mt 26,64; Mc 14,62.
[47]X. Mt 11,27; 21,37-38.
[48]X. Mt 21,34-36.
[49]X. Mt 24,36.
[50]X. Mt 5,48; 6,8; 7,21;
Lc 11,13.
[51]X. Mt 3,17; 17,5.
[52]X. Ga 10,36.
[53]X. Cv 13,33.
[54]X. Xh 3,14.
[55]X. 1 Cr 2,8.
[56]X. Mt 22,41-46; Cv
2,34-36; Dt 1,13.
[57]X. Ga 13,13.
[58]X. Mt 8,2; 14,30; 15,22.
[59]X. Lc 1,43; 2,11.
[60]X. Cv 2,34-36.
[61]X. Rm 9,5; Tt 2,13; Kh
5,13.
[62]X. Rm 10,9; 1 Cr 12,3;
Pl 2,9-11.
[63]X. Kh 11,15.
[64]X. Mc 12,17; Cv 5,29.
[65]X. CĐVaticanô II, Hiến
chếmục vụGaudium et Spes, 10: AAS 58 (1966) 1033;
x. Ibid. ,45: AAS 58 (1966) 1066.
[66]X. Cv 28,20.
[67]X. Ga 1,14. 18; 3,16. 18.
[68]X. Ga 1,1.
[69]X. Cv 8,37; 1 Ga 2,23.