Tiết 2
Chúa Giêsu “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết”
Paragraphus 2
Iesus mortuus est
crucifixus
IESU PROCESSUS
Những chia rẽ giữa các
nhà cầm quyền Do Thái về Chúa Giêsu
595. Giữa các nhà cầm quyền
tôn giáo ở Giêrusalem, không kể ông Nicôđêmô thuộc nhóm Pharisêu[1] và ông Giuse, người Arimathêa, một nhân vật quyền thế, cả hai là
những môn đệ âm thầm của Chúa Giêsu[2], nhưng từ lâu những
người khác đã có sự bất đồng với nhau về Người[3], đến độ, hôm trước
cuộc khổ nạn, thánh Gioan đã có thể nói: “Ngay cả trong giới lãnh đạo Do thái,
cũng có nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị
nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường” (Ga 12,42). Điều này hoàn toàn không có
gì lạ nếu chúng ta lưu ý rằng ngay sau lễ Ngũ Tuần, “cũng có một đám rất đông
các tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6,7) và “có những người thuộc phái Pharisêu đã
trở thành tín hữu” (Cv 15,5), đến độ thánh Giacôbê đã có thể nói với thánh
Phaolô rằng: “Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người Do thái đã tin theo, và tất
cả đều nhiệt thành đối với luật Môisen” (Cv 21,20).
596. Các nhà cầm quyền tôn
giáo ở Giêrusalem đã không nhất trí với nhau về cách xử sự đối với Chúa Giêsu[4]. Nhóm Pharisêu dọa
khai trừ những ai đi theo Người[5]. Với những ai sợ rằng
“mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta
lẫn dân tộc ta!” (Ga 11,48), thượng tế Caipha đã đề nghị bằng lời tiên tri:
“Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay
cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,49-50). Thượng Hội Đồng tuyên
bố Chúa Giêsu đáng phải chết[6] vì tội nói phạm thượng,
nhưng vì đã mất quyền tuyên án tử hình[7], nên họ đã nộp Chúa
Giêsu cho người Rôma và tố cáo Người về tội nổi loạn chính trị[8], điều đó khiến Người
bị liệt đồng hàng với Barabbas, một người bị tống ngục “vì một vụ bạo động”
(Lc 23,19). Các thượng tế cũng đưa ra những lời đe dọa mang tính chất
chính trị để buộc quan Philatô kết án tử hình Chúa Giêsu[9].
Người Do Thái không có
tội một cách tập thể về cái chết của Chúa Giêsu
597. Xét đến tính chất phức
tạp về mặt lịch sử của vụ án Chúa Giêsu, được biểu lộ trong các trình thuật của
các sách Tin Mừng, và bất cứ tội cá nhân nào của những người tham gia vụ án này
(Giuđa, Thượng Hội Đồng, Philatô) chỉ mình Thiên Chúa biết, nên chúng ta không
thể quy trách nhiệm cho mọi người Do thái ở Giêrusalem, mặc dù đã có những
tiếng la ó của đám đông bị lừa gạt[10], và những lời trách cứ
tập thể trong các bài giảng kêu gọi hối cải sau lễ Ngũ Tuần[11]. Chính Chúa Giêsu trên
thập giá đã tha thứ cho họ[12], và sau Người, thánh Phêrô cũng coi những người Do thái ở
Giêrusalem và cả các thủ lãnh của họ là đã hành động vì “không hiểu biết”[13]. Càng không được mở
rộng trách nhiệm đến những người Do thái ở những nơi chốn khác và thời đại
khác, căn cứ vào tiếng la ó của dân chúng: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi
và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25), vì đây chỉ là một công thức thừa nhận bản án[14]. Vì vậy, Hội Thánh đã
tuyên bố tại Công đồng Vaticanô II:
“Không thể quy trách
nhiệm một cách không phân biệt về những tội ác người ta đã phạm trong cuộc khổ
nạn của Chúa Giêsu cho mọi người Do thái thời đó, cũng như cho người Do thái
thời nay…. Không thể nói rằng Thiên Chúa đã loại bỏ người Do thái hoặc đã chúc
dữ cho họ, coi đó như là điều được dạy trong Thánh Kinh”[15].
Mọi tội nhân đều là
tác giả của cuộc khổ nạn của Đức Kitô
598. Trong giáo huấn đức tin
của mình và trong chứng từ của các Thánh, Hội Thánh không bao giờ quên chân lý
này: “Các tội nhân là những tác giả và tác viên của mọi cực hình mà Đức Kitô đã
phải chịu”[16]. Xét vì tội lỗi của chúng ta xúc phạm đến chính Đức Kitô[17], Hội Thánh không ngần
ngại quy trách nhiệm tối đa về các cực hình Chúa Giêsu phải chịu cho các Kitô
hữu, một trách nhiệm mà họ rất thường trút trên một mình người Do thái:
“Chúng ta phải coi
những kẻ thường xuyên sa ngã trong tội lỗi là những người đã phạm lỗi tầy trời
ấy. Bởi lẽ tội lỗi của chúng ta đã làm Chúa Kitô phải chịu khổ hình thập giá,
nên chắc chắn, chính những ai chìm đắm trong gian tà và tội ác, là những người
đã tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai sỉ
nhục Người. Quả thật, có thể thấy rằng như vậy tội ác của chúng ta là nặng nề
hơn của người Do thái, vì những người này, theo thánh Tông Đồ, ‘nếu biết, họ đã
chẳng đóng đinh Chúa hiển vinh vào thập giá’ (1 Cr 2,8); còn chúng ta, chúng ta
tuyên xưng rằng chúng ta biết Người, nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng hành
động, thì một cách nào đó coi như chúng ta đã ra tay tàn nhẫn giáng trên Người”[18].
“Và ma quỷ cũng không
đóng đinh Người vào thập giá, nhưng chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh
Người, và bạn còn đóng đinh Người bằng cách hưởng lạc thú trong các nết xấu và
tội lỗi”[19].
II. CÁI CHẾT CỨU CHUỘC CỦA ĐỨC KITÔ TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ
CỦA THIÊN CHÚA
“Chúa Giêsu bị nộp
theo kế hoạch Thiên Chúa đã định”
599. Cái chết tàn nhẫn của
Chúa Giêsu không phải là kết quả ngẫu nhiên do sự kết hợp của những tình huống
bất hạnh. Cái chết đó thuộc về mầu nhiệm của kế hoạch của Thiên Chúa, như thánh
Phêrô giải thích cho người Do thái ở Giêrusalem ngay từ bài giảng đầu tiên
trong ngày lễ Ngũ Tuần: Người đã bị nộp “theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và
biết trước” (Cv 2,23). Thánh Kinh nói như vậy không có nghĩa là những kẻ đã
“nộp Chúa Giêsu”[20] chỉ là những người thụ
động làm theo một kịch bản do Thiên Chúa viết trước.
600. Đối với Thiên Chúa mọi
thời điểm trong tính thời sự của nó đều là hiện tại. Vì vậy, chính Thiên Chúa
thiết lập kế hoạch “tiền định” vĩnh cửu của Ngài, Ngài bao gồm trong kế hoạch
ấy lời đáp trả tự do của mỗi người đối với ân sủng của Ngài: “Đúng vậy, Hêrôđê,
Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel đã toa rập trong thành này,
chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Ngài đã xức dầu[21]. Như thế họ đã thực
hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã định trước” (Cv 4,27-28).
Thiên Chúa cho phép xảy ra những hành vi xuất phát từ sự mù quáng của họ[22], để hoàn thành kế
hoạch cứu độ của Ngài[23].
Đức Kitô “đã chết vì
tội lỗi chúng ta theo như lời Thánh Kinh”
601. Kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa về việc “Người Tôi Trung Công Chính” bị giết[24] đã được báo trước trong Thánh Kinh như một mầu nhiệm Cứu Chuộc phổ
quát, nghĩa là, giải thoát người ta khỏi ách nô lệ tội lỗi[25]. Thánh Phaolô, trong
lời tuyên xưng đức tin mà ngài nói mình đã “lãnh nhận”[26], tuyên xưng rằng “Đức
Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15,3)[27]. Sự chết mang lại ơn
cứu chuộc của Đức Kitô hoàn thành một cách đặc biệt lời tiên tri về Người Tôi
trung đau khổ[28]. Chính Chúa Giêsu đã trình bày ý nghĩa cuộc đời và sự chết
của Người dưới ánh sáng về Người Tôi trung đau khổ[29]. Sau khi Người sống
lại, Người đã giải thích Thánh Kinh như vậy cho các môn đệ Emmaus[30], rồi cho chính các
Tông Đồ[31].
“Thiên Chúa đã biến
Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta”
602. Chính vì thế thánh
Phêrô có thể diễn tả đức tin tông truyền về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như
sau: “Anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền
lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì
tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa
được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1 Pr
1,18-20). Các tội người ta phạm, tiếp theo sau tội tổ tông, khiến người ta phải
chết[32].
Khi sai Con Một của Ngài đến trong thân phận tôi tớ[33], tức là trong thân
phận loài người đã sa ngã và tất phải chết vì tội lỗi[34], “Đấng chẳng hề biết
tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng
ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21).
603. Vì không phạm tội, Chúa
Giêsu không bao giờ biết đến việc bị Thiên Chúa loại bỏ[35]. Nhưng trong tình yêu
cứu chuộc, một tình yêu hằng kết hợp Người với Chúa Cha[36], Người đã đảm nhận lấy
chúng ta, những kẻ đang vì tội lỗi mà lạc đường lìa xa Thiên Chúa, đến độ trên
thập giá, Người đã có thể thốt lên thay chúng ta: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa
của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34)[37]. Vì đã kết hợp Đức
Kitô với chúng ta là các tội nhân, nên Thiên Chúa “đã chẳng tiếc, nhưng đã trao
nộp chính Con Một của Ngài vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32), để chúng ta “được
giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Một Ngài” (Rm 5,10).
Thiên Chúa đã khởi
xướng trong tình yêu cứu chuộc mọi người
604. Khi trao nộp Con của
Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài là một kế hoạch
của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta: “Tình yêu cốt ở
điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu
thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga
4,10)[38].
“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
605. Tình yêu này không loại
trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc:
“Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong
những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người “hiến dâng
mạng sống làm giáchuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên
bố quan trọng này không mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân
loại với một mình Đấng Cứu Chuộc, Đấng tự hiến để cứu độ nhân loại ấy[39]. Hội Thánh, theo sau
các Tông Đồ[40], dạy rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ
một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức
Kitô] không chịu khổ nạn cho”[41].
III. ĐỨC KITÔ ĐÃ TỰ HIẾN CHO CHÚA CHA VÌ TỘI LỖI
CHÚNG TA
CHRISTUS SE IPSUM PATRI
SUO PRO NOSTRIS OBTULIT PECCATIS
Cả cuộc đời của Đức
Kitô là của lễ dâng hiến Chúa Cha
606. Con Thiên Chúa, Đấng từ
trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai
Người”[42], “khi vào trần gian, Người nói: ‘Lạy Thiên Chúa, này con
đây, con đến để thực thi ý Ngài’… theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Chúa
Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, một lần cho mãi mãi” (Dt 10,5-10).
Ngay từ phút đầu tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ
của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu chuộc của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành
ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Hy lễ
của Chúa Giêsu “đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2) là sự diễn tả tình yêu
hiệp thông của Người với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy
sinh mạng sống mình” (Ga 10,17). Thế gian phải “biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha
và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31).
607. Sự khao khát gắn bó với
kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha truyền cảm hứng cho cả cuộc đời Chúa
Giêsu[43],
bởi vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27).
“Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và
trên thập giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi
khát!” (Ga 19,28).
“Chiên xoá tội trần
gian”
608. Sau khi chấp nhận làm
phép rửa cho Chúa Giêsu giữa các tội nhân[44], ông Gioan Tẩy Giả đã
thấy và giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian[45]. Như vậy ông cho thấy
rằng Chúa Giêsu đồng thời vừa là Người Tôi trung đau khổ, im lặng chịu đem đi
làm thịt[46] và mang lấy tội lỗi
muôn người[47], vừa là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Cứu Chuộc
Israel trong cuộc Vượt Qua đầu tiên[48]. Cả cuộc đời của Đức
Kitô diễn tả sứ vụ của Người: phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người[49].
Chúa Giêsu tự do gắn
bó với tình yêu cứu chuộc của Chúa Cha
609. Khi gắn bó với tình yêu
của Chúa Cha đối với loài người trong trái tim nhân loại của mình, Chúa Giêsu
“đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), bởi vì “không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13). Như vậy, nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và cái chết,
đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo của tình yêu thần linh của Người, một
tình yêu muốn cứu độ mọi người[50]. Thật vậy, Người đã tự
do chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết vì tình yêu đối với Cha Người và đối với
loài người mà Người muốn cứu độ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng
chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Do đó, Con Thiên Chúa đã tự
do tột bậc khi Người tiến tới cái Chết[51].
Trong Bữa Tiệc Ly,
Chúa Giêsu thực hiện trước việc tự nguyện dâng hiến mạng sống của mình
610. Chúa Giêsu đã diễn tả
cách hết sức rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình trong bữa tiệc
Người ăn với mười hai Tông Đồ[52] “trong đêm bị nộp” (1
Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do, Chúa Giêsu đã biến
bữa Tiệc cuối cùng với các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng niệm việc Người tự
nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[53] để cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước,đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
611. Bí tích Thánh Thể mà
Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng niệm”[54] hy tế của Người. Người bao gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính
mình Người và dạy họ lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi[55]. Như vậy, Chúa Giêsu
đã đặt các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ, con xin thánh
hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19)[56].
Cơn hấp hối trong vườn
Giêtsêmani
612. Chúa Giêsu đã tham dự
trước chén của Giao Ước Mới khi Người tự hiến trong bữa Tiệc Ly[57], rồi Người nhận lấy
chén đó từ tay Chúa Cha trong cơn hấp hối của Người tại vườn Giêtsêmani[58], khi Người “vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8)[59]. Chúa Giêsu cầu
nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này…” (Mt
26,39). Như vậy Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà bản tính nhân loại của Người cảm
nghiệm trước cái Chết. Thật vậy, bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, cũng như
của chúng ta, được nhắm đến sự sống vĩnh cửu; nhưng khác với chúng ta, bản tính
nhân loại của Người hoàn toàn không có tội[60], mà tội mới gây nên sự
chết[61];
nhưng đặc biệt, bản tính nhân loại của Người đã được đảm nhận bởi Ngôi Vị thần
linh của “Đấng khơi nguồn sự sống”[62], “Đấng hằng sống”[63]. Khi chấp nhận thánh ý
Chúa Cha bằng ý chí nhân loại của mình[64], Chúa Giêsu chấp nhận
cái Chết có giá trị cứu chuộc của mình, để “tội lỗi của chúng ta, chính Người
đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1 Pr 2,24).
Cái chết của Đức Kitô
là hy lễ duy nhất và tối hậu
613. Cái chết của Đức Kitô
đồng thời vừa là hy lễ Vượt Qua, mang lại ơn Cứu Chuộc
tối hậu cho loài người[65], nhờ Con Chiên, Đấng xoá tội trần gian[66], vừa là hy lễ của Giao Ước Mới[67], cho con người lại được
hiệp thông với Thiên Chúa[68], khi giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ máu đổ ra cho
muôn người được tha tội[69].
614. Hy lễ này của Đức Kitô
là duy nhất, hy lễ đó hoàn tất và vượt hơn hẳn mọi hy lễ[70]. Trước hết, hy lễ đó
là một hồng ân của chính Thiên Chúa Cha: Chúa Cha trao nộp Con của Ngài để giao
hòa chúng ta với Ngài[71]. Đồng thời, đây là sự dâng hiến của Con Thiên Chúa làm
người, Đấng, vì tình yêu[72], tự ý dâng hiến mạng sống mình[73] cho Cha của Người nhờ Chúa Thánh Thần[74], để đền bù sự bất tuân
của chúng ta.
Chúa Giêsu đền thay sự
bất tuân của chúng ta bằng sự vâng phục của Người
615. “Cũng như vì một người
duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công
chính” (Rm 5,19). Chúa Giêsu, bằng sự vâng phục cho đến chết của Người, đã hoàn
thành việc đền thay của Người Tôi trung đau khổ, là hiến thân làm hy lễ đền tội, mang lấy tội lỗi của
muôn người và làm cho họ nên công chính khi gánh lấy tội lỗi của họ[75]. Chúa Giêsu đã đền bù
các lỗi lầm của chúng ta và tạ tội với Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta[76].
Trên thập giá, Chúa
Giêsu hoàn tất hy tế của Người
616. Tình yêu thương đến
cùng[77] mang lại cho hy lễ của
Đức Kitô giá trị Cứu Chuộc và đền bù, đền tội và tạ tội. Người đã biết và yêu
thương tất cả chúng ta khi Người dâng hiến mạng sống mình[78]. “Tình yêu Đức Kitô
thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi
người, thì mọi người đều chết” (2 Cr 5,14). Không một ai, dù là người thánh
thiện nhất, có khả năng mang lấy trên mình tội lỗi của mọi người và hiến mình
làm hy lễ vì mọi người. Nơi Đức Kitô, sự hiện hữu của Ngôi Vị Chúa Con vừa vượt
hơn hẳn vừa bao gồm tất cả các nhân vị, khiến cho Đức Kitô là Đầu của toàn thể
nhân loại, và làm cho hy tế của Người có giá trị cứu chuộc cho tất cả mọi người.
617. Công đồng Triđentinô
dạy: “Bằng cuộc khổ nạn rất thánh của Người trên cây thập giá, Đức Kitô đã lập
công cho chúng ta được nên công chính”[79], qua đó nêu rõ tính
duy nhất của hy tế của Đức Kitô, Đấng là tác giả của ơn cứu độ vĩnh cửu[80]. Vì vậy khi tôn kính
Thánh Giá, Hội Thánh ca hát rằng: “Kính chào Thánh Giá, niềm hy vọng duy nhất
của chúng con!”[81]
Sự tham dự của chúng
ta vào hy tế của Đức Kitô
618. Thánh giá là hy tế duy
nhất của Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người[82]. Nhưng bởi vì, trong
Ngôi Vị Thiên Chúa nhập thể của Người, “một cách nào đó Người đã tự kết hợp với
toàn thể mọi người”[83], nên Người đã “ban cho mọi người một khả năng để, theo
cách Thiên Chúa biết, họ được kết hợp vào mầu nhiệm Vượt Qua”[84]. Người kêu gọi các môn
đệ vác thập giá mình mà theo Người[85], bởi vì Người đã chịu
khổ nạn vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi bước theo Người[86]. Quả thật, Người cũng
muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu chuộc của Người được kết hợp vào
hy tế ấy [87]. Điều đó được thực
hiện, một cách cao cả nhất, nơi Mẹ Người, Mẹ được kết hợp vào mầu nhiệm cuộc
khổ nạn cứu chuộc của Người một cách mật thiết hơn bất cứ ai khác[88].
“Đây là chiếc thang
thật và duy nhất của thiên đàng, và ngoài thập giá, không có chiếc thang nào
khác để lên trời”[89].
TÓM LƯỢC
619. “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh” (1
Cr 15,3).
620. Ơn cứu độ của chúng ta xuất phát từ sự khởi xướng của tình yêu
Thiên Chúa đối với chúng ta “chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của
Ngài đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Trong Đức Kitô, Thiên
Chúa đã cho thế gian được giao hoà với Ngài” (2 Cr 5,19).
621. Chúa Giêsu đã tự hiến một cách tự do để cứu độ chúng ta. Người tỏ
cho thấy và thực hiện trước việc ban tặng này trong bữa Tiệc Ly:“Đây là mình Thầy, bị nộp vì anh em” (Lc 22,19).
622. Công trình Cứu Chuộc của Đức Kitô cốt tại điều này:Người “đến… hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt
20,28), nghĩa là, “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), để họ được cứu
chuộc khỏi lối sống phù phiếm do cha ông họ truyền lại[90].
623. Nhờ sự vâng phục vì tình yêu đối với Chúa Cha, vâng phục trọn vẹn
cho đến nỗi “chết trên cây thập tự” (Pl 2,8), Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ vụ
đền tội[91] của Người Tôi trung đau khổ, Đấng làm cho muôn người nên công chính
và chính Người gánh lấy tội lỗi của họ[92].
[1]X. Ga 7,50.
[2]X. Ga 19,38-39.
[3]X. Ga 9,16-17;
10,19-21.
[4]X. Ga 9,16; 10,19.
[5]X. Ga 9,22.
[6]X. Mt 26,66.
[7]X. Ga 18,31.
[8]X. Lc 23,2.
[9]X. Ga 19,12. 15. 21.
[10]X. Mc 15,11.
[11]X. Cv 2,23. 36;
3,13-14; 4,10; 5,30; 7,52; 10,39; 13,27-28; 1 Tx 2,14-15.
[12]X. Lc 23,34.
[13]X. Cv 3,17.
[14]X. Cv 5,28; 18,6.
[15]CĐ Vaticanô II, Tuyên
ngôn Nostra aetate, 4: AAS 58 (1966) 743.
[16]Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P.
Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64. x. Dt 12,3.
[17]X. Mt 25,45; Cv 9,4-5.
[18]Catechismus Romanus, 1, 5, 11: ed. P.
Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 64.
[19]Thánh Phanxicô Assisi, Admonitio, 5,3: Opuscula sancti Patris Francisci
Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 66.
[20]X. Cv 3,13.
[21]X. Tv 2,1-2.
[22]X. Mt 26,54; Ga 18,36;
19,11.
[23]X. Cv 3,17-18.
[24]X. Is 53,11; Cv 3,14.
[25]X. Is 53,11-12; Ga 8,34-36.
[26]X. 1 Cr 15,3.
[27]X. Cv 3,18; 7,52;
13,29; 26,22-23.
[28]X. Is 53,7-8; Cv
8,32-35.
[29]X. Mt 20,28.
[30]X. Lc 24,25-27.
[31]X. Lc 24,44-45.
[32]X. Rm 5,12; 1 Cr 15,56.
[33]X. Pl 2,7.
[34]X. Rm 8,3.
[35]X. Ga 8,46.
[36]X. Ga 8,29.
[37]X. Tv 22,1.
[38]X. 1 Ga 4,19.
[39]X. Rm 5,18-19.
[40]X. 2 Cr 5,15; 1 Ga 2,2.
[41]CĐ Carisia (năm 853), De libero arbitrio hominis et de praedestinatione, canon 4: Ds 624.
[42]X. Ga 6,38.
[43]X. Lc 12,50; 22,15; Mt
16,21-23.
[44]X. Lc 3,21; Mt 3,14-15.
[45]X. Ga 1,29. 36.
[46]X. Is 53,7; Gr 11,19.
[47]X. Is 53,12.
[48]X. Xh 12,3-14; Ga
19,36; 1 Cr 5,7.
[49]X. Mc 10,45.
[50]X. Dt 2,10. 17-18;
4,15; 5,7-9.
[51]X. Ga 18,4-6; Mt 26,53.
[52]X. Mt 16,20.
[53]X. 1 Cr 5,7.
[54]X. 1 Cr 11,25.
[55]X. Lc 22,19.
[56]X. CĐ Triđentinô, Sess.
22a, Doctrina de sanctissimo Missae Sacrificio, c.
2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de
[57]X. Lc 22,20.
[58]X. Mt 26,42.
[59]X. Dt 5,7-8.
[60]X. Dt 4,15.
[61]X. Rm 5,12.
[62]X. Cv 3,15.
[63]X. Kh 1,18; Ga 1,4;
5,26.
[64]X. Mt 26,42.
[65]X. 1 Cr 5,7; Ga
8,34-36.
[66]X. Ga 1,29; 1 Pr 1,19.
[67]X. 1 Cr 11,25.
[68]X. Xh 24,8.
[69]X. Mt 26,28; Lv
16,15-16.
[70]X. Dt 10,10.
[71]X. 1 Ga 4,10.
[72]X. Ga 15,13.
[73]X. Ga 10,17-18.
[74]X. Dt 9,14.
[75]X. Is 53,10-12.
[76]X. CĐ Triđentinô, Sess.
6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.
[77]X. Ga 13,1.
[78]X. Gl 2,20; Ep 5,2. 25.
[79]CĐ Triđentinô, Sess.
6a, Decretum de iustificatione, c. 1: DS 1529.
[80]X. Dt 5,9.
[81]Additio liturgica ad
Hymnum “Vexilla Regis”: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v, 2
(Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 313; v. 4 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974)
1129.
[82]X. 1 Tm 2,5.
[83]CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
[84]CĐ Vaticanô II, Hiến
chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1043.
[85]X. Mt 16,24.
[86]X. 1 Pr 2,21.
[87]X. Mc 10,39; Ga
21,18-19; Cl 1,24.
[88]X. Lc 2,35.
[89]Thánh Rôsa
[90]X. 1 Pr 1,18.
[91]X. Is 53,10.
[92]X. Is 53,11; Rm 5,19.